Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Kết hợp “bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình” trong phát triển thị trường khoa học và công nghệ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.41 KB, 6 trang )

44

• Nghiên cứu - Trao đổi

KÉT HỢP “BÀN TAY VƠ HÌNH” VÀ “BÃN TAY HỮU HÌNH”
TRONG PHÁT TRIẺN THỊ TRƯỜNG

KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ Ở VIỆT NAM

TS. LÊ VĂN TUN1**

Tóm tắt: Thị trường khoa học và công nghệ là bộ phận cấu thành cùa nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, có vai trị then chốt trong việc thúc đấy đối
mới sáng tạo, nâng cao năng lực khoa học và công nghệ, năng lực cạnh tranh cùa doanh
nghiệp cũng như nền kinh tế. Trong bối cảnh nền kinh tế đang chuyển đổi, việc phát triển thị
trường khoa học và công nghệ ở Việt Nam cần giải quyết tot moi quan hệ giữa thị trường và
Nhà nước, tức là phái có sự kết họp hài hịa giữa "bàn tay vơ hình ” và "bàn tay hữu hình ” để
thúc đây thị trường khoa học và cơng nghệ phát triên. Bài viết trình bày sự vận dụng thuyết
"bàn tay vơ hình ” và “bàn tay hữu hình ” trong phát trỉến thị trường khoa học và cơng nghệ,
từ đó đề xuất một sơ gợi ý chính sách nhẳm phát triến thị trường khoa học và công nghệ ở
Việt Nam thời gian tới.
Từ khóa: bàn tay hữu hình; bàn tay vơ hỉnh; khoa học và cơng nghệ

Tác động của "bàn tay vơ hình” và
"bàn tay hữu hình” đến phát triển

I

• thị trường khoa học và cơng nghệ


Tư tưởng tự do kinh tế (còn gọi là thuyết
"bàn tay vơ hình ”) là một trong những đóng
góp to lớn về mặt lý luận của nhà kinh tế học
Adam Smith (1723 - 1790) cho lĩnh vực kinh
tế học trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do
cạnh tranh. Theo A.Smith, xã hội là sự liên
minh những quan hệ trao đổi. Thiên hướng
trao đổi là đặc tính vốn có của con người, chỉ
có trao đơi và thơng qua việc thực hiện quan hệ
trao đối thì nhu cầu của con người mới được
thỏa mãn. Khi tiến hành trao đổi sản phẩm lao
động cho nhau, con người bị chi phối bởi lợi
*** Học viện Kỳ thuật qn sự

ích cá nhân của mình. Mồi người chỉ biết tư
lợi và chạy theo tư lợi, lợi ích cá nhân là động
lực trực tiếp chi phối hoạt động trao đổi của
con người. Tuy nhiên, khi chạy theo tư lợi,
con người kinh tế còn chịu sự tác động của
"bàn tay vơ hình”. Với sự tác động này, con
người kinh tế vừa chạy theo tư lợi vừa thực
hiện nhiệm vụ khơng nằm trong dự kiến, đó là
đáp ứng lợi ích chung của xã hội.
Trong nhiều trường hợp, con người đáp
ứng những nhu cầu chung của xã hội tốt hon
lợi ích riêng của cá nhân mình mặc dù điều
đó khơng dự định trước. Theo A.Smith, "bàn
tay vơ hình ” chính là sự hoạt động của các
quy luật kinh tế khách quan và hệ thống các
quy luật kinh tế này là một “trật tự tự nhiên”.

Tuy nhiên, để có sự hoạt động của trật tự tự

Khoa học chính trị - số 10/2021


* Nghiên cứu - Trao đổi_________________

______________ 45

nhiên này, cần có những điều kiện nhất định,
đó là sự tồn tại, phát triến của sản xuất hàng
hóa và trao đổi hàng hóa. Nền kinh tế phải
được phát triển trên cơ sở tự do kinh tế và cần
thiết phải có tự do sản xuất, tự do liên doanh,
liên kết, tự do mậu dịch. Với sự tồn tại và phát
triển của nền kinh tế hàng hóa, con người ln
có quan hệ kinh tế với nhau. Do vậy, cần phải
tôn trọng trật tự tự nhiên, tơn trọng “bàn tay vơ
hình ”, hoạt động sản xuất và lưu thơng hàng
hóa được phát triển theo sự điều tiết của bàn
tay vơ hình, Nhà nước khơng nên can thiệp vào
hoạt động kinh tế. Vai trò kinh tế của nhà nước
được thể hiện khi những nhiệm vụ kinh tế vượt
quá sức các doanh nghiệp.
Lý thuyết “bàn tay vô hĩnh” của A.Smith
phù hợp với thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ
nghĩa tư bản. Tuy nhiên, khi chủ nghĩa tư bản
bắt đầu rơi vào những cuộc khủng hoảng kinh
tế sâu sắc, đặc biệt là cuộc đại khủng hoảng
1929 - 1933, những nhà kinh tế học khác đã

kêu gọi vận dụng đến “bàn tay hữu hình ” của
J.M.Keynes đế điều chỉnh nền kinh tế.
Theo J.M.Keynes, đề có cân bằng kinh tế,
khắc phục khủng hoảng và thất nghiệp, không
thể dựa vào cơ chế thị trường tự điều tiết, mà
phải có sự hoạt động của “bàn tay hữu hình ”,
tức là sự can thiệp của nhà nước. Ơng cho ràng,
nhà nước phải đóng vai trò lớn trong nền kinh
tế thị trường, chịu trách nhiệm chính trong
việc ổn định các hoạt động kinh tế, có nhiệm
vụ thực hiện những chính sách và biện pháp
tài chính - tiền tệ để chống lại những cuộc suy
thối chu kỳ, bảo đảm đủ việc làm và duy trì
nền kinh tế trong trạng thái khơng có lạm phát.
Nhiều nhà lý luận kinh tế đã đánh giá cao tư
tưởng của J.M.Keynes, coi đó là “liều thuốc”
hữu hiệu giúp cho nền kinh tế tư bản từ kém
phát triên trở thành phát triên. Lịch sử chứng
minh các nền kinh tế thị trường thành cơng đều
cần có sự can thiệp và hồ trợ của nhà nước.
Vận dụng thuyết “bàn tay vơ hình ” và “bàn
tay hữu hình ” vào phát triển thị trường khoa
học và cơng nghệ ở quốc gia có nền kinh tế

đang chuyển đổi như Việt Nam, có thế thấy,
việc tơn trọng các quy luật kinh tế khách quan,
như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy
luật cạnh tranh... có ý nghĩa rất quan trọng.
Điển hình như hoạt động đổi mới sáng tạo, ứng
dụng tiến bộ khoa học và cơng nghệ để đẩy

cung, kích cầu đối với các hàng hóa và dịch vụ
khoa học và cơng nghệ, thực tế là nhiều tổ chức
khoa học và công nghệ, doanh nghiệp do Nhà
nước quản lý được “bao cấp”, hưởng những
cơ chế, chính sách ưu đãi nên có tâm lý trơng
chờ, ỷ lại, dựa dầm; trong khi đó, nhiều doanh
nghiệp tư nhân có nhu cầu đối mới sáng tạo
nhưng lại gặp khó khăn do quy mơ, tiềm lực
nhở bé, khó tiếp cận các cơ chế, chính sách ưu
đãi của Nhà nước nên họ không thực sự “mặn
mà” với hoạt động đổi mới sáng tạo, ứng dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ. Chính điều này
đã làm giảm tính cạnh tranh trong thị trường
khoa học và cơng nghệ, làm mất đi tính năng
động, động lực đe phát triển.
Cùng với quy luật giá trị, quy luật cạnh
tranh thì tác động của quy luật cung - cầu
trong phát triển thị trường khoa học và công
nghệ ở Việt Nam hiện nay còn khá mờ nhạt.
Nhiều chủ thể phía cung và phía cầu rất khó
gặp được nhau do thiếu hoạt động của các
tổ chức dịch vụ trung gian môi giới, các tồ
chức dịch vụ triến khai, hồ trợ, thương mại
hóa sản phâm khoa học và cơng nghệ... Do
thiếu sự kết nối cung - cầu nên dù cung tăng,
cầu mạnh nhưng thị trường khoa học và công
nghệ vần chưa phát triển, tức là quy luật cung cầu chưa phát huy tác dụng trong việc điều tiết
sản xuất và lưu thơng hàng hóa, dịch vụ khoa
học và cơng nghệ.
Đề cập đến vai trò của thị trường trong

phát triển thị trường khoa học và công
nghệ ở Việt Nam là cần thiết, tuy nhiên sẽ
sai lầm nếu tuyệt đối hóa vai trò của thị trường
mà coi nhẹ sự can thiệp của Nhà nước. Đe phát
triển thị trường khoa học và công nghệ ở Việt
Nam, cần phải “vỗ” bằng cả hai bàn tay, tức là
phải có sự kết hợp cả “bàn tay vơ hình ”■ và

Khoa học chính trị - số 10/2021


• Nghiên cứu - Trao đổi

46

‘‘bàn tay hữu hỉnh Bởi, thị trường khoa học
và công nghệ là một bộ phận của kinh tế thị
trường, vốn chứa đựng cả những khuyết tật.
Do đó, để khắc phục các khuyết tật của thị
trường khoa học và cơng nghệ, địi hịi phải
có sự can thiệp của Nhà nước.
Ớ một quốc gia có nền kinh tế đang chuyển
đồi như Việt Nam, sự can thiệp của Nhà
nước vào thị trường khoa học và công nghệ
với hai mục đích: Nhà nước đóng vai trị là
người hồ trợ, xây dựng môi trường thuận lợi,
thể chế hiệu quả cho thị trường khoa học và
công nghệ phát triển; Nhà nước can thiệp trực
tiếp thơng qua các cơng cụ, chính sách của
mình vào thị trường khoa học và cơng nghệ.

Vai trị của Nhà nước đối với phát triển thị
trường khoa học và công nghệ được thể hiện
ở các nội dung sau: (1) Nhà nước là người chủ
yếu xây dựng thể chế và môi trường cho việc
phát triển thị trường khoa học và công nghệ;
(2) Nhà nước can thiệp vào thị trường khoa
học và công nghệ thông qua các chủ thể trên
thị trường do Nhà nước trực tiếp quản lý; (3)
Nhà nước điều tiết cung, cầu và gắn kết các
chủ thể trên thị trường khoa học và công nghệ
thông qua những công cụ và chính sách điều
tiết của mình; (4) Nhà nước là chủ thê trực
tiếp tạo ra cung, cầu trên thị trường khoa học
và công nghệ thông qua chi tiêu và đầu tư của
Chính phủ từ ngân sách nhà nước.
2. Thực trạng phát triển thị trường khoa

học và công nghệ ở Việt Nam hiện nay
- Những kết quả đạt được

Theo báo cáo của Bộ Khoa học và Công
nghệ, giai đoạn 2011 - 2020, hệ thống cơ
chế, chính sách về thị trường khoa học và
cơng nghệ cơ bản được hồn thiện, nhiều
chủ trương, chính sách thúc đẩy phát triển
thị trường khoa học và cơng nghệ được ban
hành đó là: Luật Khoa học và công nghệ năm
2013; Luật Chuyên giao công nghệ năm 2017;
Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ
giai đoạn 2011 - 2020; Chương trình đổi mới

cơng nghệ quốc gia đến năm 2020; Chương

trình phát triển thị trường khoa học và cơng
nghệ đến năm 2020; Chương trình tìm kiếm
và chuyển giao cơng nghệ nước ngồi đến
năm 2020; Đề án tái cơ cấu ngành khoa học
và công nghệ đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030 gắn với chuyển đổi mơ hình tăng
trưởng góp phần phát triển kinh tế; Nghị định
về doanh nghiệp khoa học và công nghệ... Đây
là công cụ quan trọng đề thiết kế, tạo ra môi
trường pháp lý thuận lợi, minh bạch cho các
chủ thể tham gia vào các hoạt động giao dịch
của thị trường khoa học và công nghệ trong
nước, cũng như hội nhập quốc tế.
về kết quả cụ thể, “giai đoạn 2015 - 2018
đã có 2.267 hợp đồng giao dịch mua bán tài
sản trí tuệ giữa các doanh nghiệp, cá nhân
Việt Nam, 206 hợp đồng chuyển nhượng giữa
doanh nghiệp, cá nhân Việt Nam với nước
ngoài”01. Hoạt động chuyển giao công nghệ tại
các trường đại học cũng ghi nhận nhiều giao
dịch. Theo đó, “doanh thu từ hoạt động chuyển
giao công nghệ của Trường Đại học Bách khoa
Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 - 2019
đạt khoảng 1.300 tỷ đồng, cao nhất là năm 2017,
2018 lần lượt là 182.645 triệu đồng và 197.768
triệu đồng; Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
từ năm 2010 - 2020 đã thực hiện các họp đồng
chuyển giao cơng nghệ với doanh số trung

bình khoảng 25 tỷ đồng mồi năm. Nhiều doanh
nghiệp đã tham gia các dự án thương mại hóa
kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ bàng việc đối
ứng nguồn vốn, nhân lực và các trang thiết bị,
với tổng kinh phí được huy động từ các doanh
nghiệp để triển khai các nhiệm vụ thương mại
hóa đạt 111,3 tỷ đồng”(2).
Giai đoạn 2011 - 2020, “tốc độ gia tăng
giá trị giao dịch công nghệ bình qn đạt
22%/năm. Trong đó, một số ngành tăng
trưởng cao như ngành điện, điện tử máy tính
đạt 46%; ngành chế biến gồ, giấy đạt 29%,
ngành chế biến thực phẩm đạt 28%”(3).
Sau 05 năm (2016 - 2020) triển khai thực
hiện, “Chương trình phát triển thị trường khoa
học và cơng nghệ đến năm 2020 (Chương

Khoa học chính trị - số 10/2021


* Nghiên cứu - Trao đổi_________________

47

trình 2075) đã phê duyệt 63 nhiệm vụ/500 đề
xuất đăng ký với tổng kinh phí là 340 tỳ đồng,
trong đó có 194 tỷ đồng từ ngân sách nhà
nước (chiếm khoảng 55%), còn lại khoảng
45% nguồn kinh phí được đối ứng từ phía các
doanh nghiệp tham gia thực hiện nhiệm vụ”(4).

Công tác phát triền tổ chức trung gian
phục vụ phát triên thị trường khoa học và
công nghệ cũng được chú trọng. Hiện nay,
cả nước có hơn 800 tổ chức trung gian, gồm
sàn giao dịch công nghệ, trung tâm xúc tiến
chuyển giao công nghệ, trung tâm ứng dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ, tổ chức cung
cấp dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp; tổ
chức thẩm định, giám định công nghệ; cơ sở
ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp
khoa học và công nghệ.
Số lượng sàn giao dịch cơng nghệ cũng
có sự phát triển mạnh mẽ. Theo đó, “trước
năm 2015, chỉ có 8 sàn giao dịch cơng nghệ,
giai đoạn 2015 - 2020 hình thành được 20
sàn giao dịch công nghệ địa phương, 01
sàn giao dịch vùng duyên hải Bắc Bộ, sàn
giao dịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long
đang trong giai đoạn thành lập. Cùng với
việc phát triển các tổ chức trung gian truyền
thống, các tổ chức kiểu mới cũng phát triển
mạnh mẽ, với 69 cơ sở ươm tạo, 28 chương
trình thúc đẩy kinh doanh, loại hình khơng
gian làm việc chung có 186 khu”(5). Một
số mơ hình tổ chức trung gian tiêu biểu tại
các trường đại học, viện nghiên cứu trọng
điểm đã hình thành, phát triển, như Đại học
Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Bách
khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa

Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Nông
nghiệp Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học
và Công nghệ Việt Nam, Trường Đại học
Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh,...
Các dự án xúc tiến và kết nối cung cầu
phát triển thị trường khoa học và công nghệ
đạt kết quả tốt, với việc tổ chức các sự kiện
kết nối cung cầu công nghệ (Techdemo),

chợ công nghệ và thiết bị (Techmart) và các
sàn giao dịch công nghệ, trung tâm ứng dụng
chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ,
“giai đoạn 2012 - 2019, đã có hơn 3.000 hợp
đồng và biên bản được ký kết. Bên cạnh đó,
các sự kiện như ICTcomm và GrowTech được
tổ chức bởi nguồn xã hội hóa lên tới hơn 90%.
Kết quả đạt được từ các sự kiện đạt 100% mục
tiêu hồ trợ xây dựng, hồn thiện chính sách,
kết nối các nguồn cung, cầu trong và ngoài
nước, bảo đảm thực hiện được các nhiệm vụ
định hướng và phát triển thị trường khoa học
và cơng nghệ”(6).

Khoa học chính trị - số 10/2021

- Một so tồn tại, hạn chế

Mặc dù đạt được nhiều kết quả đáng khích
lệ, nhung thực tiễn phát triển thị trường khoa
học và công nghệ ở Việt Nam còn bộc lộ một

số tồn tại, hạn chế. Cụ thể:
Thứ nhất, hành lang pháp lý và cơ chế,
chính sách chưa đồng bộ, chưa thực sự tạo
động lực cho thị trường khoa học và công
nghệ phát triển; thiếu cơ chế, chính sách kích
thích các nhà khoa học, nhà sáng chế chuyển
giao, thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài
sản trí tuệ. Các chính sách mới chỉ dừng lại ở
việc tạo hành lang pháp lý và khuyến khích
phát triển, chưa có văn bản hướng dần cụ thể
về cách thức xây dựng và hoạt động của thị
trường khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó,
việc huy động các nguồn vốn đầu tư từ ngồi
ngân sách cho phát triển khoa học và cơng
nghệ vẫn chưa có cơ chế, chính sách phù hợp,
việc quản lý khoa học và công nghệ trong cơ
chế thị trường cịn lúng túng, bất cập; chưa có
cơ chế để các đơn vị thụ hưởng phải trả tiền
khi ứng dụng kết quả nghiên cứu, chia sẻ rủi
ro giữa Nhà nước và doanh nghiệp trong lĩnh
vực khoa học và công nghệ.
Thứ hai, cung thị trường khoa học và cơng
nghệ quy mơ cịn nhỏ bé. Đầu tư của doanh
nghiệp cho khoa học và cơng nghệ cịn khiêm
tốn, chiếm tỷ trọng thấp trong tổng đầu tư cho
khoa học và công nghệ, chủ yếu đầu tư dựa
vào nguồn ngân sách nhà nước. Các doanh


48

nghiệp khoa học và cơng nghệ cịn q ít, hiệu
quả chưa cao. Các tổ chức khoa học và công
nghệ là kênh chính cung cấp hàng hóa, dịch
vụ khoa học và công nghệ, tuy đã đạt được
những kết quả quan trọng trong việc nghiên
cứu triển khai nhưng việc chuyển giao các
công nghệ, thương mại hóa cơng nghệ, cũng
như khả năng ứng dụng các chương trình, đề
tài nghiên cứu vào thực tiền cịn thấp. Tình
trạng bao cấp đối với các tổ chức khoa học và
cơng nghệ cịn lớn; việc chuyển đổi một sổ tổ
chức khoa học và cơng nghệ sang hình thức
cơng ty khoa học và cơng nghệ cịn nhiều bất
cập, tốc độ chuyển đối còn chậm.
Thứ ba, cầu thị trường khoa học và công
nghệ chưa cao. Mức độ đồi mới công nghệ của
doanh nghiệp thấp, thiếu quy hoạch chiến lược,
thiếu sự gắn bó và phối họp giữa phương hướng
đổi mới, chuyển giao, đầu tư đổi mới công nghệ
với chiến lược phát triền và kinh doanh. Nhiều
doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước,
chưa thực sự có nhu cầu tự thân đối với đồi mới
công nghệ do năng lực quản lý hoặc do thiếu
động lực để phát triển doanh nghiệp dài hạn.
Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ
có nhu cầu đổi mới cơng nghệ lại gặp phải khó
khăn về vốn, nhân lực...
Thứ tư, số lượng tổ chức trung gian nhiều
nhưng năng lực tư vấn, môi giới, xúc tiến không
đồng đều. Sự kết nối chia sẻ thông tin giữa các

tổ chức trung gian còn manh mún, hạ tầng kỹ
thuật cơ sở dừ liệu hạn chế, chưa thu hút được
khu vực tư nhân tham gia đầu tư xây dựng, quản
trị, vận hành các sàn giao dịch công nghệ, thiếu
tổ chức quy mô lớn có khả năng dần dắt. Hiệu
quả hoạt động của chợ cơng nghệ cịn thấp,
mang tính hình thức, mới chi thu hút sự tham
gia của các bên có cơng nghệ chào bán, chưa có
sự tham gia của các tổ chức dịch vụ công nghệ.
Quy mô của các loại chợ thiết bị còn nhỏ và số
lượng các sản phẩm giao dịch thực sự là công
nghệ không nhiều, chủ yếu là các sản phẩm tiêu
dùng, đặc biệt tại các gian hàng của các địa
phương trong hội chợ.

• Nghiên cứu - Trao đổi
3. Một số gọi ý chính sách

Thơng qua việc phân tích thực trạng phát
triển thị trường khoa học và công nghệ ở
Việt Nam hiện nay, bài viết đề xuất một so
gợi ý nhàm phát triển thị trường này trong
thời gian tới. Cụ thê:
Một là, tiếp tục hồn thiện mơi trường
pháp lý, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và
thực tiền cho phát triển thị trường khoa học
và cơng nghệ. Theo đó, cần nghiên cứu, hoàn
thiện hệ thống tồ chức và cơ chế hoạt động của
các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan thực
thi pháp luật liên quan tới thị trường khoa học

và công nghệ theo hướng đồng bộ, tinh gọn,
hiệu quả. Khắc phục tình trạng chồng chéo
giữa các đơn vị thơng qua việc phân công cụ
thể quyền hạn cho từng cơ quan, một cơ quan
nên chịu trách nhiệm về nhiều loại hoạt động
trên thị trường.
Đẩy mạnh cải cách các thù tục hành chính,
đáp ứng yêu cầu phát triển mới của thị trường
khoa học và công nghệ ở Việt Nam. Các thủ tục
hành chính phải đơn giản, thuận tiện, rõ ràng,
tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể trên thị
trường khoa học và công nghệ. Phát huy dân
chủ, tăng cường công khai, minh bạch, loại bỏ
các quyết định hành chính tùy tiện và quan hệ
cá nhân trong bộ máy quản lý nhà nước về thị
trường khoa học và công nghệ. Tăng cường
trách nhiệm giải trình của Nhà nước thơng qua
việc huy động sự tham gia nhiều hơn của các
chu thê, doanh nghiệp trên thị trường vào các
hoạt động của Nhà nước cùng với các cơ chế
truy cứu trách nhiệm mạnh mẽ.
Hai là, thúc đây phát triên nguôn cung của
thị trường khoa học và cơng nghệ. Đa dạng
hóa chủ thể tham gia và các nguồn vốn đầu tư
vào hoạt động khoa học và công nghệ nhàm
mở rộng khả năng cung cấp hàng hóa cho thị
trường khoa học và cơng nghệ. Do vậy, cần thu
hút nhiều tổ chức, cá nhân vào hoạt động nghiên
cứu khoa học, đặc biệt là sự tham gia của đông
đảo các doanh nghiệp. Đồi mới mạnh mẽ cơ chế

quản lý kinh tế theo hướng thị trường, làm

Khoa học chính trị - số 10/2021


• Nghiên cứu - Trao đổi

_____________________________________ 49

cho các doanh nghiệp thấy ràng để tồn tại và
phát triển khơng có con đường nào khác là
phải tập trung đầu tư cho hoạt động nghiên
cứu khoa học, thường xuyên đưa ra các sản
phẩm mới. Khuyến khích hợp tác nghiên cứu
giữa các trường, viện với doanh nghiệp, đặc
biệt hỗ trợ nguồn nhân lực khoa học và công
nghệ cho các doanh nghiệp từ các tổ chức
nghiên cứu của Nhà nước. Bên cạnh đó, cần
tăng cường nguồn cung hàng hóa khoa học
và cơng nghệ từ nước ngồi thơng qua hoạt
động chuyển giao cơng nghệ, đặc biệt chú
trọng những công nghệ nguồn, công nghệ
gốc và từng bước làm chủ công nghệ để
tránh sự lệ thuộc với bên ngoài.
Ba là, thúc đấy phát triển nguồn cầu của thị
trường khoa học và công nghệ, nâng cao năng
lực hấp thụ, làm chủ và đổi mới công nghệ
của doanh nghiệp. Xây dựng mơi trường kinh
doanh mang tính cạnh tranh lành mạnh nhằm
thúc đấy hoạt động đổi mới sáng tạo. Cạnh

tranh lành mạnh thúc ép các chủ thể của nền
kinh tế luôn đưa ra những sản phẩm mới trên
thị trường, do đó tất yếu họ phải tìm đến các
sản phẩm khoa học và cơng nghệ. Do đó, cần
đẩy nhanh q trình cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước; khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp
đổi mới cơng nghệ; sử dụng mạnh mẽ chính
sách tín dụng tạo điều kiện cho doanh nghiệp
đổi mới công nghệ. Đồng thời, phát triển nhu
cầu đối với sản phẩm khoa học và công nghệ
ở khu vực nông nghiệp và nông thơn, vì đây
là khu vực có nhu cầu rất lớn đối với các hàng
hóa và dịch vụ khoa học và công nghệ.
Bốn là, phát triển các tổ chức trung gian
của thị trường khoa học và cơng nghệ.
Khuyến khích các tổ chức nghiên cứu, trường
đại học thành lập các tổ chức dịch vụ tư vấn,
giám định, đánh giá công nghệ. Thu hút các
tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia hoạt
động thẩm định, đánh giá công nghệ. Nâng
cao năng lực hoạt động, chất lượng của các
tổ chức nhà nước về tư vấn, giám định, thẩm
định, đánh giá công nghệ. Tăng cường hiệu

quả hoạt động của chợ công nghệ, cần định
hướng phát triển một số loại hình chợ theo
hướng cơng nghệ ưu tiên, công nghệ mũi
nhọn, công nghệ cần phổ biến đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.
Tóm lại, phát triển thị trường khoa học

và cơng nghệ là chủ trương, định hướng
lớn của Đảng và Nhà nước. Để phát triển
thị trường này, nhất định phải có sự kết hợp
giữa Nhà nước và thị trường (“bàn tay hữu
hình ” và “bàn tay vơ hình
Sự vận dụng,
kết hợp hài hòa mối quan hệ nêu trên vừa
phù hợp với yêu cầu thực tiễn ở Việt Nam,
vừa bảo đảm phát triển nhanh và bền vững
thị trường khoa học và công nghệ nói riêng,
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam nói chung □

Khoa học chính trị - số 10/2021

(1) Hà An, Tốc độ gia tâng giá trị giao dịch câng nghệ
tăng mỗi năm, .
html, ngày 15/4/2021
(2) Ánh Tuyết, Giải pháp phát triến thị trường khoa học
và cơng nghệ, />giai-phap-phat-trien-thi-truong-khoa-hoc-va-congnghe-642350/, ngày 17/4/2021
(3> Hồng Hải - Ánh Tuyết, Giải pháp phát triển thị
trường khoa học công nghệ, />giao-duc-khoa-hoc/tin-tuc/giai-phap-phat-trien-thitruong-khoa-hoc-cong-nghe-656872, ngày 15/4/2021
(4) Thúy An, Tổng kết 10 năm phát triển thị trường
KH&CN và chiến lược phát triển giai đoạn 2021 2030,
ngày 16/4/2021
<5) Hoàng Giang, Tiếp thêm sức sống cho thị trường
KH&CN, />Tiep-them-suc-song-cho-thi-truong-KHCN/430599.vgp,
ngày 08/5/2021
(6) Trần Hà, Chương trình phát triển thị trường khoa
học và công nghệ giai đoạn 2015-2020, https://

khcncongthuong.vn/tin-tuc/t6895/chuong-trinhphat-trien-thi-truong-khoa-hoc-va-cong-nghegiaidoan-2015-2020.html, ngày 07/11/2020



×