Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Các phương thuốc nổi tiếng qua các triều đại Trung Hoa docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.28 KB, 16 trang )



Các phương thuốc nổi
tiếng qua các triều đại
Trung Hoa

Nếu điểm qua từ Âu đến Á, từ Đông chí Tây về các
phương thuốc nổi tiếng thời cổ xưa, có lẽ nổi bật nhất vẫn
là những cổ phương được hình thành trong thời gian
thịnh vượng nhất của các triều đại phong kiến Trung
Hoa.
Những cổ phương ấy còn lưu lại ở những y thư. Nhân ngày
đầu xuân năm mới, xin chỉ nêu một số cổ phương tiêu biểu
mà ngày nay vẫn lưu truyền, được sử dụng khá hiệu quả
trong trị liệu nhiều bệnh.
Bát tiên trường thọ
Điều mong ước “Trường sinh bất lão” không những chỉ là
giới quyền quý cao sang mà còn là ước mơ của nhân loại.
Bởi vậy, ngay từ thời xa xưa, các danh y đã dày công tìm
kiếm những phương thuốc có công hiệu ấy. Trong quá trình
tìm kiếm, họ đã phát hiện ra một phương thuốc thần diệu như
thuốc tiên để kéo dài tuổi thọ. Đây là phương thuốc được các
danh y Trung Quốc đã tìm ra có lẽ vào thời Tây Hán và đặt
tên là “Bát tiên trường thọ” (có lẽ phương thuốc được các
danh y nổi tiếng thời bấy giờ như thánh y Trương Trọng
Cảnh mà khi ấy vị vua trị vì là Hán Vũ Đế, tên thật là Lưu
Triệt (156 TCN – 87 TCN), là vị Hoàng đế thứ bảy của nhà
Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc.
Tương truyền vua Vũ Đế đời nhà Hán (Trung Quốc) muốn
bất tử nên đã sai các bậc lương y nổi tiếng thời ấy chế ra các
thuốc Đan sa để uống. Do uống nhiều quá, chẳng những


không thành tiên để hưởng sự bất tử, mà nhà vua còn mắc
thêm chứng bệnh bị sốt, khát nước, đi tiểu nhiều lần…, làm
sức khỏe suy sụp. Trương Trọng Cảnh (tên hiệu là Tràng Sa),
là một lương y nổi tiếng của Trung Quốc thời bấy giờ, đã chế
ra phương thuốc “Bát vị” sắc cho nhà vua uống làm sức khỏe
của vua hồi phục. Về sau qua ứng dụng trong trị liệu, Thánh
y Trương Trọng Cảnh, Tiên Ất và các bậc lương y nổi tiếng
khác tiếp tục gia giảm, biến hóa thành "Bát tiên trường thọ”
và được lưu giữ, ứng dụng cho đến ngày nay.

Hán Vũ Đế (156-87 TCN)
Phương thuốc ”Bát tiên trường thọ” ta thấy nó tác dụng đến
các tạng phủ của cơ thể khiến có công năng kéo dài tuổi thọ
đến thần diệu.
Phương thuốc có tám vị, như các danh y xưa đã chọn. Với
cách phối ngũ thật tuyệt vời khiến phương thuốc đã phát sinh
công năng tăng cường tối đa việc bồi bổ thận âm nhằm kéo
dài tuổi thọ cho cơ thể.
Phương “Bát tiên trường thọ” bao gồm các vị như Thục đia
16g, Sơn thù 8g, Hoài sơn 8g, Phục linh 6g, Đơn bì 6g,Trạch
tả 6g, Mạch môn 6g, Ngũ vị tử 4g. Ngày uống 1 thang, chia 3
lần, cần uống liền 7 – 10 ngày
Xét từng vị trong phương cho thấy: Thục đia có tác dụng trực
tiếp vào thận để bổ thận âm, bổ tinh, sinh huyết. Vị Sơn thù
tác dụng bổ liễm âm, giữ tinh, ích khí, đuổi phong tà, phối
hợp để tăng tác dụng bổ thận âm của vị thục địa. Hoài sơn tác
dụng vừa bổ thận, vừa kiện tỳ, phối hơp với phục linh giúp
cho tỳ vị tăng cường khả năng vận hóa chất dinh dưỡng từ
thức ăn, uống để nuôi cơ thể và biến thành tinh, huyết đưa về
tàng trữ tại thận. Phục linh được phối hợp với Hoài sơn để

kiện tỳ vị, vừa thanh trừ thấp nhiệt ở hạ tiêu, làm cho thận âm
khỏi bị hao tán. Đơn bì tác dụng thanh trừ nhiệt ở tạng can,
tạng tâm để yên cho tạng thận. Trạch tả tác dụng lợi tiểu để
trừ thấp nhiệt ở hạ tiêu, làm dưỡng khí bố lên làm thính tai,
mắt. Mạch môn tác dụng bổ phế âm, tức là gián tiếp bổ thận
âm lại còn có tác dụng thanh nhiệt ở tạng tâm. Ngũ vị tử tác
dụng bổ thận, dưỡng tâm huyết, sinh tân dịch.
Phương “Kim quỹ thận khí hoàn” của Thánh y Trương
Trọng Cảnh.
Vào thời Đông Hán (năm 25 - 220 sau Công Nguyên, còn gọi
là thời Hậu Hán), Thánh y Trương Trọng Cảnh (các thầy
thuốc về sau đều gọi là Tôn Sư, tôn ông là Thầy, vì công lao
trước tác của ông để lại cho hậu thế quá lớn. Trong Đông y
tôn ông là Y Thánh) đã lập ra phương Bát vị thận khí hoàn
(còn gọi là Kim quỹ thận khí hoàn, Quế phụ địa hoàng hoàn,
để phân biệt với Tế sinh thận khí hoàn). Cho tới ngày nay
phương thuốc này vẫn được trọng dụng.
Phương thuốc gồm: Can địa hoàng (Sinh địa) 32g, Sơn dược
16g, Sơn thù (sao rượu) 16g, Phục linh 12g, Trạch tả
12g, Đan bì 12g, Quế chi 8g, Phụ tử (chế) 8g.
Toàn phương có công năng chủ trị các chứng thận dương bất
túc. Lưng là phủ của Thận, Thận là gốc của Tiên thiên, trong
đó ẩn chứa Mệnh môn hỏa. Nơi động khí của Thận chính là
Mệnh môn. Nạn thứ 8 sách Nạn Kinh có chép: “Đây là rễ của
mười hai kinh mạch, là cửa của hô hấp, là nguồn của tam
tiêu”. Đàm ẩm, thủy thũng, cước khí, chuyển bào (phụ nữ có
thai bí tiểu (dùng cẩn thận)). Lưng đau chân mỏi, từ nửa thân
trở xuống thường lạnh giá, bụng dưới đau co thắt, tiểu tiện
không thông, hoặc tiện nhiều lần, về đêm càng tiểu nhiều,
dương nuy (liệt dương), tảo tiết (xuất tinh sớm). Lưỡi nhạt

mà nhớt, mạch hư nhược. Bộ xích trầm tế.
Đến giai đoạn triều nhà Thanh cũng là thời thịnh vượng nhất
trong các triều chính phong kiến Trung Quốc. Bởi vậy ngoài
yêu cầu “trường sinh bất lão” người ta còn có nhu cầu làm
đẹp. Từ đó mà nhiều phương thuốc trường sinh và dưỡng
nhan được ra đời.
Như chúng ta đã biết, Từ Hy là người thống trị thực tế của cả
hai triều Đông Trị và Quang Trị cuối đời Thanh Trung Quốc.
Bà là một người không chỉ giỏi về mưu kế thao lược, quyền
hành mà còn là một người có thuật làm đẹp thật xuất sắc.
Chính vì vậy mà ngay cả khi bà đã bước vào tuổi cao niên
nhưng dung nhan của Từ Hy vẫn không suy giảm, bà vẫn giữ
được phong thái như xưa, luôn trường thọ, bất lão. Dưới đây
xin giới thiệu những bí phương mà thời nhà Thanh Từ Hy
Thái Hậu đã tin dùng.

Từ Hy Thái Hậu (1835-1908)
Một số phương từ cúc hoa dùng trong các phương thuốc dưới
đây là các loại cúc như Cam cúc, bạch cúc hoa, cúc hoa
hồng, hoàng cúc,…đều thuộc họ Cúc Asteracae
(Compositae).
Cúc hoa diên linh cao (phương thuốc bí truyền trích từ
trong cuốn “Từ Hy Quang Tự y phương tuyển nghị” của
Trần Khả Dực đời nhà Thanh)
Cách chế đơn giản chỉ cần đem những cánh hoa cúc tươi
(mỗi lần có thể nấu chừng 2kg; nếu là hoa cúc khô thì có thể
nấu mỗi lần chừng 500g là vừa) đổ ngập nước, nấu còn một
nửa, lọc bỏ bã, lấy nước cô lại cho đặc. Trộn nước thuốc này
với mật ong để nấu thành cao. Ngày uống 2 - 3 lần, mỗi lần
dùng 12 - 15g pha với nước sôi để nguội, uống vào lúc đói

bụng.
Trong phương này gia thêm mật ong trắng cho cô lại thành
cao thì càng tăng cường tác dụng tích cực, khiến con người
cơ thể nhẹ nhàng mà không có cảm giác đói, trẻ lâu, kéo dài
tuổi thọ vì mật ong có tính vị cam bình, bổ trung ích khí,
nhuận phế, giải độc hết đau, thanh nhiệt lọc máu…
Dùng cao này thường xuyên có thể làm da dẻ hồng hào tươi
mịn, tóc xanh… Bởi thế mà ngày xưa Từ Hy Thái Hậu đặc
biệt yêu thích dùng cao Cúc hoa để được trường sinh bất lão.
Đây là phương thuốc do Trương Trọng Nguyên và Đào Bảo
Sinh chế cho Từ Hy Thái Hậu uống để sống lâu và giữ sắc
đẹp lâu bền .
Bột Cúc hoa tăng sắc đẹp (theo sách “Bảo Phác Tử” của
Cát Hồng đời Tần)
Hoa Cúc trắng 500g (hái ngày 9 tháng 9 âm lịch), Phục Linh
500g. Hai vị tán bột, trộn đều. Mỗi lần uống 6g với rượu ấm,
ngày 3 lần. Uống lâu ngày sắc mặt sẽ hồng nhuận, mịn màng
diễm lệ. Bài thuốc này ở sách “Phố tế phương” của Chu Túc,
đời Minh. Gọi là trường thọ cúc hoa tán, có tác dụng tăng
tuổi thọ.
Dưỡng thọ đơn (Theo sách “Ngự dược viên phương” của
Hứa Quốc Trinh)
Cúc hoa, Câu kỷ tự, Viễn chí, Thạch xương bồ, Ba kích,
Bạch truật, Phục linh, Địa cốt bì, Tục đoạn, Tế tân,Thục địa,
Xa tiền tử, Hà thủ ô, Nhục thung dung, Thỏ ty tử, Phúc bồn
tử. Mỗi thứ 30g, tán bột, luyện với mật ong, viên bằng hạt
ngô, mỗi lần uống 10g, ngày 2 lần, lúc bụng đói. Phương
thuốc này bổ ngũ tạng, làm đẹp dung nhan, uống lâu càng
khỏe và lâu già.
Cam cúc phương:

Mầm cúc lấy vào thượng tuần tháng 3, lá cúc hái vào tháng 6,
hoa cúc hái vào tháng 9, nhổ cả cây, rễ vào tháng 12, cả 4 thứ
phơi trong râm cho khô, số lượng bằng nhau tán nhỏ.
Liều dùng 1 đồng cân/lần, ngày 3 lần, hoặc luyện với mật
ong, làm viên bằng hạt ngô, liều 7 viên mỗi lần, ngày 3 lần.
Uống liền trong 100 ngày sẽ kéo dài tuổi thọ.
Rượu Cúc:
Người xưa thường dùng hoa cúc kèm với nếp để cất rượu, gọi
là “rượu cúc” hay còn gọi là “Hoàng hoa tửu”. Kinh Thi có
câu “Thu ẩm hoàng hoa tửu” - mùa thu uống rượu hoa cúc.
Những ai không dùng được rượu có thể thưởng trà cúc, theo
cách đơn giản như sau: Trà không ướp, bạch cúc (hoa cúc
trắng khô), cam thảo; sau khi hãm rót trà ra chén, lấy một
bông cúc trong bình trà thả vào chén trà, thì cũng sẽ có đủ
“vị, hương, sắc” của bạch cúc hoa.

Lương y Trương Trọng Cảnh
Làm cho da tươi mịn, mềm mại, chống lão hóa:
Đây là phương “Từ Hy Thái Hậu trú nhang phương” được
trích trong “Ngự hương phiêu diên lạc” là một bí phương chỉ
sử dụng trong triều chính Trung Hoa, ngày xưa được sử dụng
cho Từ Hy Thái Hậu để lảm đẹp và luôn trường thọ bất lão.
Dược liệu: Trân châu, lượng tùy ý.
Cách bào chế: Rửa sạch lấy vải bọc lại, đem nấu với đậu phụ
khoảng 2 giờ, thì vớt trân châu ra giã nghiền nát thành bột
mịn, để khô cất đi dùng dần.
Cách dùng: Mỗi ngày uống từ 7 – 8g bột trân châu với nước
trà nóng. Nhớ phải cách 10 ngày mới uống 1 lần nữa như
vậy.
Là một dược liệu được coi là vị thuốc quý, vì trong trân châu

có chứa trên 10 loại acid amine và nhiều yếu tố vi lượng rất
cần cho cơ thể, đặc biệt là có thể cải thiện được trạng thái
dinh dưỡng của da và còn làm tăng cường hoạt lực của
adenosine triphosphate, ATP trong tế bào cơ thể. Từ đó thúc
đẩy quá trình trao đổi chất vì vậy trân châu được xem là vị
thuốc dưỡng nhan, làm đẹp.
Tuy vậy trân châu không chỉ là vị thuốc làm đẹp mà còn
được sử dụng để bào chế thành những loại thuốc chữa bệnh
rất hiệu quả, nổi tiếng dùng làm thuốc an thần, thanh nhiệt,
bổ âm, sáng mắt, giải độc và sinh cơ nhục
Thật vậy, trong công nghiệp dược hiện đại trân châu (ngọc
trai) vẫn được sử dụng để làm thuốc để chữa trị nhiều bệnh.
Chẳng hạn những viên trân châu được nghiền thành bột để
trở thành một loại thuốc bổ sung can xi cao cấp.
Người ta đã nghiên cứu thấy, can xi trong trân châu có khả
năng cân bằng dinh dưỡng. Cụ thể là có rất nhiều những
thành phần mà cơ thể con người cần thiết như các loại acide
amino, vitamine và cùng những nguyên tố vi lượng với một
tỷ lệ hợp lý nên có lợi cho quá trình hấp thụ canxi của con
người, song ở ngọc trai lại có tính hấp thu tốt, tỷ lệ hấp thụ
bình quân đạt tới 95%.
Người ta còn phát hiện ra 10 tác dụng lớn của canxi ở trân
châu như phòng trị chứng loãng xương, tăng sản tố chất
xương, phòng chống chứng nhuyễn xương ở trẻ, thúc đẩy sự
phát triển xương cốt ở cả thanh thiếu niên.
Ngoài ra còn khả năng phòng chống bệnh cao huyết áp và xơ
vữa động mạch hay tắc mạch máu não. Bảo hộ chức năng hệ
thần kinh, chống lại sự co rút cơ bắp, thống kinh hay hội
chứng khi mang thai. Tăng cường hệ miễn dịch cho cơ thể,
chống mệt mỏi và kéo dài tuổi thọ. Duy trì chế độ canxi ổn

định cho cơ thể, bổ gan và phòng chống sỏi thận. Tăng cường
chức năng của hệ thần kinh trung ương, ổn định tinh thần,
nâng cao chất lượng giấc ngủ. Tăng cường sự co bóp của cơ
tim, chống lại hiện tượng mạch đập thất thường đồng thời
phòng chống những bệnh liên quan đến động mạch vành.
Điều tiết kiềm và axit trong cơ thể, còn điều tiết được cả
lượng đường trong máu để phòng ngừa chứng tiểu đường.
Ngoài ra còn khả năng điều tiết cả các cơ ở vùng mắt, phòng
chống bệnh xơ cứng động mạch ở đáy mắt, kể cả chứng đục
thủy tinh thể, tăng cường thể lực.

×