Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Phân Loại Cá Chình pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.37 KB, 9 trang )




Phân Loại Cá Chình

Hiện nay một số nước trên thế giới có hàng trăm ngàn loại cá chình, tên tiếng
Anh của chúng là "eel", còn tên khoa học tùy theo giống và loài.
Cá chình là loại cá có ngoại hình giống con rắn, với vây hậu môn và vây lưng
nối kết nhau; có vây ngực nhưng không có khung xương chậu; không có vảy
hoặc vảy rất nhỏ .
Chúng là loài cá ăn mồi sống, phần lớn cuộc đời chúng sống ở biển, dưới đáy
thềm lục địa. Tuy nhiên, có một vài loài cá chình lại di trú gần mặt nước biển.
Nhìn chung, dường như hiện nay chưa có nước nào nghiên cứu thành công
việc sinh sản cá chình nhân tạo. Tất cả các giống được nuôi dựa vào nguồn
khai thác trong tự nhiên (ở cửa sông hoặc ven biển).
Ở Việt Nam, cá chình phân bổ chủ yếu Quảng Bình vào đến Bình Định, đặt
biệt là vùng Hồ Châu Trúc ở Bình Định . Giống cá như quốc gia khác, người
nuôi cá chình nước ta đều tìm đến con giống đánh bắt trong tự nhiên.
I.Phân Loại Cá Chình
Các nhà khoa học chúng ta phân loại cá chình theo họ của chúng. Nhìn chung
có 3 nhóm chính:
- Cá chình nước ngọt(họ Anguillidae)
- Cá chình biển (họ Congidae)
- Cá chình Moray (họ Muraenidae)
Có một chi tiết đặt biệt mà chúng ta cần lưu ý. Giống cá chình Monopterus
gồm 6 loài và chỉ tìm được ở châu Á. Người phương Tây gọi giống cá này là
"cá chình ruộng lúa".Tuy nhiên, một số nước châu Á lại gọi chúng là "lươn"
thí dụ như loài Monopterus albus hay M. cuchia …Ở Việt Nam chúng ta cũng
gọi những loài này là "lươn". Chính vì thế, chúng tôi không liệt kê ở đây, xin
phép giới thiệu những loài "được công nhận" là cá chình đối với Việt Nam
nói chung và cả thế giới nới riêng


1. Cá chình nước ngọt(họ Anguillidae)
Cá chình nước ngọt thuộc giống Anguilla, có tổng cộng 20 loài.Những loài cá
chình này tương đối nhỏ, phần lớn cuộc đời chúng sống ở nước ngọt. Tuy
nhiên chúng vẫn trở ra biển sinh sản (di trú xuôi dòng )
Cá chình nước ngọt có hai loài điển hình: loài cá chình vây dài và loài cá
chình vây ngắn.
a.Miêu tả
Cá chình nước ngọt thành thục giới tính ở một biên độ khá rộng, có khi rất trễ
(năm 96 tuổi). Vào lúc thành thục giới tính, chúng di trú ra biển để gây giống
rồi chết. Con cái thành thục (loài có vây dài ) đạt độ dài trung bình khoảng 93
cm, còn con đực khoảng 56 cm. Tuy nhiên, có những con thây đổi kích thước
khá lớn, một vài con cái có thể đạt độ dài tới 200 cm, vòng ngực khoảng
50cm và cân nặng hơn 20kg
Con cái thành thục (loài vây ngắn ) dài khoảng 70 cm, con đực khoảng 42cm.
Loài cá chình vây dài màu xanh ôliu có đốm màu lục sậm, nâu và đen, con
đực thành thục (loài vây ngắn ) có màu xanh ôliu nhưng không có đốm còn
loài cá chình ở miền Nam Thái Bình Dương thì đều có đốm màu sậm
b. Môi trường sống và phân bố
Cá chình sống ở nưóc ngọt thường sống vùng nước nhiệt đới và cận nhiệt
đới.Tất cả những loài cá này đều có thể xuất hiện ở sông, đập, phá và hồ nước
ngọt. Và bất kỳ loài nào cũng vậy, chúng đều di trú ra biển sinh sản
Có hai loài sống ở Bắc Đại Tây Dương và nhũng vùng nưóc kế cận, đó là loài
cá chình châu Âu Anguilla anguilla và cá chình Mỹ Anguilla rostrala. Loài
Anguilla anguilla xuất hiện một số bờ biển, sông ngòi châu Âu và miền bắc
châu Phi, song ngược lại cá chình Mỹ Anguilla rostrata sống tại miền Bắc và
trung Mỹ. Cả hai loài này phần lớn cuộc đời sống trong những con sông cửa
sông phá nước mặn. Nhưng sau một năm tuổi, chúng thành thục giới tính bắt
đầu di trú. Đầu tiên chúng ra biển khơi rồi đến hướng tây trung tâm Đại Tây
Dương nơi còn gọi "biển tảo đuôi ngựa " (Sargasso Sea). Vào những tháng
mùa hè và mùa xuân. Chúng đẻ trứng ở nơi này. Trứng phát triển ấu trùng

trong suốt, dẹt hai bên, được gọi cá chình con nới nở (leptocephalus). Do tác
động mạnh mẻ dòng chảy về phía bờ biển, ấu trùng trôi dạt vào bờ. Khi đến
bò biển chúng đã phát triển thành con (elves). Kế tiếp chúng sẽ di trú sâu vào
nội địa, hợp lại thành đàn rồi sống nơi nước ngọt
c. Sinh sản và chu kỳ sống
Cá chình vây ngắn và cá chình vây dài đều có chu kỳ sống tương tự nhau. Cả
hai loài này đều đẻ trứng ở biển nơi có nước sâu hơn 300 m. Trong vòng 2
đến 10 ngày, trứng sẻ nở thành ấu trùng gọi là "leptocephali" khi những dòng
nước biển mang ấu trùng tới những dải đá ngầm ở thềm lục địa. Ở nơi đó
chúng sẽ phát triển thành " cá chình thủy tinh" (glass eels), loại cá chình này
không có răng và màu sắc. Nhờ sự giúp đở của dòng nước, chúng di chuyển
vào những cửa sông.Vào cuối mùa thu và mùa xuân, các chình thủy tinh vây
ngắn sẽ vào các của sông, trong khi cá chình thủy tinh vây dài sẽ vào của
sông trong mùa hè mùa thu .
Khi cá chình thủy tinh có màu sắc thì người ta gọi chúng là "cá chình con"
(elvers). Kể từ khi đó, chúng từ cửa sông di chuyển vào hồ, đầm lầy, những
nhánh sông nước ngọt, vùng lạch và những nơi nước có thể phù hợp với sự
thích nghi của chúng (thí dụ bể nuôi nhân tạo). Còn đối với loài cá chình vây
dài, chúng thường di trú vào màu hè nùa xuân. Nhìn chung, người ta thấy
những con đực xuất hiện khúc sông thấp hơn, những con cái di chuyển sâu
hơn trong nội địa.
Khi cá nước ngọt thành thục chúng di chuyển xuôi dòng đến những con sông
lạch, trước khi bắt đầu di trú ra biển để đẻ trứng. Để chuẩn bị cho điều này,
chúng chịu một số thây đổi sinh lý và cơ thể, Chúng trở nên có sắc màu như
bạc, mở mắt rộng dạ dày thoái hóa, tuyến sinh dục rộng hơn. Ca chình thành
thục tìm đến những con màu sắc bạc và không có gì ăn cả. Trong tự nhiên, cá
chình thành thục trong độ tuổi khác nhau.Theo ước lượng các nhà khoa học,
cá đực thành thục vào khoảng 10 đến 30 tuổi. Người ta cho rằng tất cả con
trưởng thành sẽ chết sau giai đoạn để trứng.
Đối với nghề nuôi cá ,cá chình thủy tinh hoặc cá chình con phải được đánh

bắt từ tự nhiên để nuôi. Người ta dùng lưới đánh bắt chúng ở các cửa sông và
những khúc sông thấp hơn ở miền duyên hải. Ở Australia, chính quyền cấp
phép mới được đánh chúng. Số lượng cho phép đánh bắt liên quan đến khả
năng của người chăn nuôi. Chu kỳ sống và có thể để trứng và sản xuất cá
chình thủy tinh được công nhận là 20 năm hoặc hơn nữa.
d. Tăng trưởng
Cá chình thủy tinh và cá chình con được nuôi tốt nhất trong bể nước khi
chuyển đến những nơi có điều kiện thuận lợi phát triển hơn nữa. Sự tăng
trưởng cửa cá chình con có thể đạt kích cỡ thị trường khi nuôi trong hệ thống
bể hoặc ao đất.
Nếu nuôi trong bể, người ta có thể quản lý những bể 1.000 – 2.000 lít, cung
cấp cho nước chảy qua hoặc tát nước lưu thông. Sự tuần hoàn khép kín đòi
hỏi công việc áp dụng những biện pháp kỹ thuật xử lý công phu duy trì chất
lượng nước phù hợp. Ao đất đẻ cá chình tăng trưởng cần được xây dựng trên
đất xốp, Những ao này có thể xếp thành hàng để không bị rò rỉ. Tuy nhiên,
giá xây dựng những ao đất thế này cao hơn. Diện tích của ao cần từ 0.1 ha
đến 0.5 ha và sâu khoảng 1.5 m
Cá chình cần một lượng oxgen lớn nếu chúng hoạt động tích cực và tăng
tưởng nhanh. Do đó, người ta sử dụng những bánh xe gắn mái chèo hoặc máy
quạt để cung cấp lượng lưu thông không khí trong nước. Ngoài ra, người ta
còn kích thích tảo "phytoplanktonic" ra hoa để chúng sản xuất oxy và che chở
cá chình trước ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp xuống. Nước cần thây đối
thường xuyên để duy trì chất lượng. Độ PH, mức oxy hòa tan, nhiệt độ, tổng
khối lượng nitrogen và nitrite lượng nước xấu hơn mức cho phép thì cần cung
cấp nước mới một cách nhanh chóng để bảo đảm đàn cá không bị ảnh hưởng.
Cá chìnhcần được nhanh chóng tập làm quen thức ăn nhân tạo kể từ khi
chúng vào nơi nuôi. Ở Australia, có nhiều loại thức ăn viên phù hợp với cá
chình vây ngắn và vây dài, người ta cho chúng ăn 3- 4 lần /ngày để đảm bảo
chúng khỏe mạnh và tăng trưởng nhanh
2. Cá chình biển và cá chình vườn (họ Congridae)

Cá chình biển (conger eel ) và cá chình vườn (garden eel) gồm 150 loài trong
32 giống thuộc họ Congridae, lớp Acinoptrerygii bộ Anguilliformes, ngành
Chordata và giới Animalia.
Tất cả loài kể trên đều sống trong môi trường nước mặn, không sống ở trong
môi trường nước lợ hay ngọt. Chúng phân bố rộng rãi Thái Bình Dương, Ấn
Độ Dương và Đại Tây Dương, song nơi cư trú phổ biến nhất của chúng là
đông bắc Đại Tây Dương trải dài từ phía nam ra biển Mediteranean.
Cá chình biển không có vây, nhưng thường lại có vây ngực. Chúng ăn những
loài cá nhỏ và loài giáp xác, chủ yểu tìm mồi vào ban đêm. Phần lớn cuộc đời
chúng sống ở những dãy đá ngầm cạn ở bở biển.
Cá chình biển thường săn mồi vào ban đêm thức ăn chủ yểu là loài giáp
xác(có vỏ) và loài cá vây tia. Vào ban ngày loài cá này thường ẩn mình trong
những khe nứt dãy đá ngầm. Chúng được coi là thực phẩm có giá trị đối với
con người .
Cá chình vườn, người ta thấy chúng xuất hiện từng bầy trong cát dưới đáy
biển.Tuy nhiên, chúng đào hàng sống riêng lẻ. Từ trong hang chúng thò đầu
ra để ăn những sinh vật phù du. Nơi chúng sống thường là quần thể thực vật
như một "vườn cây " do đó người ta đặt tên chúng là cá chình vườn
Cá chình đực và cái giao phối và để trứng dường như gần ngay chúng sống
chứ không phải di trú xa để sinh sản .
Nhìn chung, trong các loài cá chình biển thi loài Congr conger có số lượng
lớn nhất mà người ta tìm thấy ở những vùng thuộc bờ biển châu Âu. Loài này
có thể dài hơn 3 m và cân nặng 110kg.
3.Cá chình Moray (họ Muaenidae)
Cá chình Moray thuộc giới Animalia; ngành Chordata; lớp Actinopterygii; bộ
Anguilliformes. Chúng là cá có số lượng lớn trong họ Muraenidae. Loại cá
này có 15 giống, trong đó xấp xỉ khoảng 20 loài. Loài lớn nhất là cá chình
Moray khổng lồ, có tên khoa học là Strophidon sathete. Nó thân hình dài 4 m,
còn phần lớn những loài Moray dài khoảng 1.5m
Một trong những loài quen thuộc nhất mà người ta biết được, đó là cá chình

Moray Địa Trung Hải (tên khoa học: Muraena helena). Loài này đã được đề
cao trong bếp núc nghệ thuật vào thời La Mã cổ đại hoặc xưa hơn nữa
Cá chình Moray khổng lồ Gymnothorax javanicus một trong những loài
Moray có số lượng lớn nhất và rất hung dữ. Chúng sống thềm lục địa trong
biển Ấn Độ -Thái Bình Dương
Cá chình Moray thường sống trong loài san hô ngầm ở độ sâu 200m thuộc
những vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới. Chúng trú ngụ trong những khe
nứt cửa đá hoặc san hô vào ban ngày. Chúng thò đầu ra, miệng thường há
rộng cho thấy những răng sắc nhọn. Cái miệng há rộng ấy có thể là một đe
dọa đến kẻ thù chung quanh, song cũng chính nhờ mỏ to miệng mà chúng hô
hấp dễ dàng hơn và được phục vụ các chuyên gia vệ sinh răng miệng là những
con tôm và loài cá màu xám (wrasse). Ngoài ra, cái mang vòng tròn nhỏ của
chúng thường mở phục vụ cho việc hô hấp.
Cá chình Moray phí nhiều thời gian ẩn mình trong các khe nứt và hốc đá và
san hô. Lớp da không vảy của chúng sản xuất một loại nước nhầy để bảo vệ.
Vây lưng duỗi thẳng ngay từ phía phần dưới đầu dọc theo lưng rồi nối liền
với vây hậu môn và vây đuôi. Phần lớn loài này thiếu vây ngực và khung
xương chậu nên càng làm chúng giống con rắn. Do có mắt khá nhỏ nên loài
cá chình Moray dựa vào khứu giác phát triển của chúng và chúng chỉ cần nằm
một chổ cũng nhận ra mùi của những vật xunh quanh, do đó chúng tìm những
con mồi rất dễ dàng .
Có thể chúng được trang trí bằng những mẩu dệt rất lạ, bên trong miệng là
một sự ngụy trang rất đặt biệt. Quai hàm rộng của chúng được vũ trang bằng
những có răng khá lớn và sắn bén, nhìn từ xa trông rất ấn tượng.
Cá chình Moray chuyên ăn thịt. Thức ăn của chúng là những loài cá khác
động vật chân đầu(cephalopods) và những loài giáp xác.
Một số cá chình Moray có giá trị thương mại rất cao, đặc biệt là loại cá chinh
Moray Địa Trung Hải (Muraena helena). Vào thời La Mã cổ đại, loài cá này
được bán giá rất cao và chúng là món ăn ngon của nhiều người. Còn những
con lớn mục tiêu săn bắt giải trí của những người câu cá biển. Có lẻ chính vì

thế mà chúng săn bắt rất nhiều. Dẫn tới nguy cơ giảm số lượng sinh sống
trong tự nhiên.Tuy nhiên, cần lưu ý, một số loài Moray chứa độc ciguatera
trong nước nhầy tiết từ lớp da cửa chúng, do đó nên nhiều người câu cá và
tiêu dùng không muốn gặp những loài này.
* Tiềm năng gây hại
Cá chình biển và cá chình Moray có khả năng tấn công và cắn nếu chúng bị
quấy rầy và lúng túng. Một số loài khác hung dữ chúng có thể tấn công mà
không cần khiêu kích. Với hàm răng sắn bén, cá chình Moray và nhiều loài
khác có thể xé rách da thịt của đối thủ một cách nghiêm trọng. Những loài
nguy hiểm này gồm loài Moray khổng lồ Gymnothorax javanicus và vài loài
khác có hình thể rất lớn ở Ấn Độ -Thái Bình Dương.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×