Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

"Tự học" phương pháp học tiếng anh hiệu quả nhất doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.7 KB, 6 trang )

"Tự học" phương pháp học
tiếng anh hiệu quả nhất
Dù bạn học Đông học Tây, học chỗ này chỗ khác, nhưng trước khi nói về mọi thứ,
tôi thành thật khuyên bạn: “Hãy giành những khoảng thời gian cho riêng mình”.
A. Cái nhìn từ thực tế và kinh nghiệm…

Bạn bận bịu ư? Bạn thiếu thời gian ư? Bạn phải chạy hết “lò” này đến “lò” kia?
Hay bạn phải dự những lớp học phụ đạo? Chúng ta có thể ngồi nghĩ ra hàng đống
lí do để
giải thích cho sự tồn tại của dăm ba con nhền nhện ngay trong cái góc học
tập nhỏ xinh nằm đối diện với chiếc giường ngủ hàng ngày. Rất nhiều học sinh
thời nay không có thời gian để học, chỉ vì họ quá bận học. Nghe thật khôi hài phải
không? Tuy nhiên, đáng buồn thay, đó lại là sự thật. Bởi vì đối với họ không tồn
tại khái niệm tự học.



Chúng ta đưa quá nhiều thứ vào trong bộ não từ các bài giảng trên lớp cũng như tại
lớp học thêm. Chúng ta nghĩ rằng đổ đầy dầu thô vào bình xăng là có thể chạy
được xe gắn máy. Chúng ta tưởng cứ tống đẫy hồ vào bụng là sẽ làm nên một thân
thể khỏe mạnh, cường tráng. Thực tế không phải như vậy. Con chữ cái nghĩa bạn
học trên lớp mới chỉ ở dạ
ng “chưa tinh chế”, tức là dù đã được giáo viên biên soạn
kĩ lưỡng, nó vẫn cần phải “xào” lại để thực sự trở thành của bạn. Đáng tiếc thay,
hàng ngày, chúng ta đang cố “ăn sống nuốt tươi” tri thức bằng cách nạp nó vào thật
nhiều. Và ở đây, cái qui luật bất biến của hệ tiêu hóa vẫn khẳng định được tính
đúng đắn của nó - cái gì càng sống sượng thì càng dễ bị
đào thải.

Sự thực là, có rất nhiều cô cậu tân sinh viên bị choáng váng thật sự khi bắt đầu
bước chân vào giảng đường Đại học, nơi mà hai chữ “tự học” được đặt ở vị trí rất


cao. Mặc dù ở Việt Nam thì cao lắm cũng chỉ bằng nửa cái chân ghế đẩu là cùng,
nhưng đối với họ, đó đã tưởng như một cú sốc ghê gớm lắ
m. Môi trường mới,
phương pháp dạy mới, chỉ có cách học thì “em vẫn cứ ngoan như ngày nào”. Vâng,
sáng sớm bảnh mắt ra đã hùng hục ghi ghi chép chép, rồi thầy cho gì thì nhặt lấy,
hệt như mấy chú Tiểu Ngộ Không trong rạp xiếc, hay dăm ông thực khách sang
trọng chỉ biết ăn nhà hàng. Cái thói quen cố hữu ấy từ muôn thủa đã ăn sâu vào
trong tiềm thức của các cô cậu cử nhà ta rồi. “Học phải ghi, thi phả
i thuộc” – ngày
nào lên lớp không viết độ dăm ba mặt giấy phê đúp thì ngày ấy như chưa học gì.
Ôi, cái quan niệm mới đáng buồn làm sao! Tôi đã từng biết có người ngày nào
cũng lên lớp, vở văn học rặt chỉ toàn chữ là chữ, từ đầu đến cuối không sót một bài
nào, nhìn phát ngốn. Nhưng hỏi tới thì viết một đoạn văn cũng không nên hồn, câu
cú lủng cà lủng củ
ng, ý tưởng thì lộn xộn, rồi trích dẫn sai lung tung. Cả các sinh
viên của chúng ta nữa. Ngày ngày cắm đầu cắm cổ nhịn đói lên giảng đường cốt
sao cho thật sớm, đặt mục tiêu phải viết hết đống mực Tàu trong cái quản bút to
đùng, rồi đến khi động vào kiến thức thì vẫn cứ lơ ma lơ mơ, láng máng, léng
phéng, lùng phùng, cái gì cũng “như quen mà như lạ”, thật đáng thất vọng thay!

Có một đặ
c điểm chung đối với tất cả những học sinh, sinh viên kể trên là: Họ
giành quá ít thời gian để tự học. Và điều này đã ảnh hưởng lớn đến họ. Ra ngoài
đời, họ thường loay hoay, bỡ ngỡ, phản ứng chậm trước những thay đổi và biến
động của cuộc sống. Trong công việc, họ hay gặp nhiều khó khăn, lo nghĩ, thiếu
tính tự xoay sở, và hành động không độc l
ập, quyết đoán, đôi khi dựa dẫm nhiều
vào người khác. Bởi vì khi học để làm người, họ đã bỏ qua cái cơ hội để được rèn
luyện tính chủ động, độc lập. Và họ đã mất rất nhiều, dù công sức học tập bỏ ra
không phải là nhỏ.


Bản thân tôi là một kẻ hầu như không đi học thêm trong suốt quãng thời gian là
học sinh phổ thông. Chỉ khi lên đại học, do vốn tiếng Anh quá đuội và sau khi tự
học thất bại, tôi mới tìm đến một trung tâm tiếng Anh để luyện tập. Phần lớn thời
gian học ngoài giờ trên lớp tôi đều dành để tự trau dồi. Và tôi thấy được vai trò vô
cùng quan trọng của việc tự học. Nó đã giúp ích cho tôi, và tạo cho tôi nhi
ều đức
tính tốt trong tư duy, suy nghĩ. Và chính cái thói quen ấy đã ít nhất vài lần giúp tôi
trong học tập. Hồi cuối năm lớp 12, với vốn kiến thức rỗng như cái rá thủng, tôi
phải bắt tay vào tự học môn Lý (toàn bộ chương trình 12), và Hóa (bắt từ lớp 10).
Ở thời điểm đó, một chữ bẻ đôi tôi cũng chịu. Không thầy (vì lúc đó chẳng ai có
hơi đâu mà dạy mộ
t thằng mù chữ), không bạn (vì lúc đó chẳng ai có hơi đâu mà
học cùng một thằng mù chữ), tôi phải tự đào tạo mình. Thời gian từ lúc bắt đầu học
đến lúc thi chưa đầy 3 tháng. Một mình tự thiết kế lịch học, tự lập kế hoạch, tự đặt
chương trình, tự nhồi nhét, tự đọc hiểu, tự lăn lộn, tự dày vò, bằng tất cả kinh
nghiệ
m vốn có, trong suốt gần 90 ngày, cuối cùng trước khi thi tôi cũng đã thở
phào nhẹ nhõm. Và kết quả tôi giành được không phải là quá tệ. Qua đó, tôi đã rút
được bài học cho bản thân, và cũng là một niềm tin rất lớn: “Nếu biết cách tự học,
tôi có thể học được”

B. Tự học sẽ đem lại những gì?

Vâng, tự học mang lại cho bạn rất nhiều thứ:

-Một tinh thầ
n chủ động trong học tập và rộng hơn là trong cuộc sống
-Khả năng xoay sở, giải quyết vấn đề
-Khả năng nhìn nhận vấn đề

-Năng lực truyền thông, phương pháp luận cho bản thân
-Khả năng tư duy sáng tạo
-Tính tự giác cao
-Niềm hứng thú, say mê
-Khả năng lường trước các tình huống
-Sự tự tin
-Vốn kiến thức rộng
-Khả n
ăng hiểu biết chuyên sâu về một lĩnh vực
-Tính năng động
-Những thử thách, đấu tranh với bản thân
Và còn rất nhiều điều khác nữa mà ở cái thời điểm ngồi trên chiếc ghế tựa cứng
như sừng trâu và đồng hồ điểm 12 giờ 14 phút 58 giây này tôi chưa liệt kê ra
được…

C. Bạn có nhận thức thế nào về tự học?

Bạn có suy nghĩ của riêng bạn, và tôi cũng vậy. Tuy nhiên, mời bạn đọc thử cách
nhìn nhận của tôi, một kẻ vốn lười đến lớp vì quản ngại nắng mưa nên đành phải
ngồi nhà gặm nhấm đống sách vở một mình.

Tự học được chia làm hai mức độ khác nhau. Ở mức độ thứ nhất – tôi gọi là tự ôn
luyện. Hàng ngày bạn đến lớp nghe giảng, ghi chép, sau
đó về nhà làm những bài
tập cho sẵn, xem lại sách, thực hiện những công việc mà giáo viên giao cho bạn.
Đôi khi, giải quyết hết đống bài vở ấy cũng chiếm của bạn cả ngày trời rồi. Điều
đó rất tốt, bởi bạn đã dành thời gian để tiêu hóa đống kiến thức ngồn ngộn mà ở cái
tuổi của bạn không đáng phải tiếp thu nhiều đến như
vậy. Tuy nhiên, vẫn chưa đủ
đâu bạn ạ. Đôi lúc, bạn gặp một học sinh hay một sinh viên kì tài. Dường như điều

gì họ cũng biết, cũng giỏi. Bạn ngạc nhiên vì kiến thức vượt trội của họ. Làm sao
họ có thể tài thế nhỉ? Mình bò ra học cả ngày mà xem ra vẫn kém họ, cả về mặt
hiểu biết lẫn kĩ năng. Thực ra họ cũ
ng có 24 giờ một ngày như bạn thôi, vấn đề là
họ chủ động trong học tập, và do đó, họ có cả niềm hứng thú lẫn hiệu suất. Đây
mới là mức thứ hai, mức quan trọng nhất, nó quyết định rất nhiều đến cái mà tiếng
Anh người ta gọi là “kờ - nao – lít” (knowledge – tri thức) của bạn, tôi tạm gọi là
tự rèn luyện, hay chính xác hơn là tự học.

Nên nhớ rằng, ở
mức trước, dù đã giành cho mình một “khoảng không” riêng, bạn
vẫn là người “bị động”. Nghĩa là nền tảng của bạn vẫn do người khác trang bị, bạn
chỉ có nghĩa vụ củng cố hay thẩm thấu nó thôi. Bạn vẫn chưa “ra quyết định” cho
vốn kiến thức của mình. Và vì thế, dù bạn có làm hết các bài tập, có thuộc làu nội
dung bài giảng đi nữa, bạn vẫn chưa thể
đạt đến “sự đột phá cho riêng mình”, và
bạn chắc chắn sẽ vẫn phải ngạc nhiên vì vốn hiểu biết của người khác. Hãy thử
quan sát, để có một bài học trọn vẹn ghi vào sổ đầu bài hàng tuần, các nhà sư phạm
và người học của chúng ta sẽ phải làm gì:

-Hội đồng Quốc gia biên soạn giáo trình (hay SGK gì gì đó) cho các bạn
-Giáo viên đọc giáo trình, paste vào một quyển vở (thuật ngữ sư phạm gọi là soạ
n
giáo án) hay copy vào CPU của mình, tóm tắt lại thành các gạch đầu dòng (thuật
ngữ sư phạm gọi là dạy học bằng phương pháp PowerPoint)
-Giáo viên có thể đọc thêm tài liệu, bổ sung kiến thức cho bạn
-Giáo viên cố gắng diễn đạt ý tưởng của các nhà khoa học vĩ đại trong vòng 45
phút giữa tiếng ồn của máy khoan cắt bê tông và tiếng ngáp ngắn ngáp dài của một
buổi bình minh muộn…
-Học sinh có thể ghi chép hoặc không, nhưng phải làm sao đ

ó để nhập tâm, phục
vụ cho bài kiểm tra…
-Những học sinh chăm chỉ giành thời gian xem lại bài giảng, đọc, học thuộc, làm
bài tập, ghi nhớ,…
-Và giáo viên kiểm tra bài cũ dưới những con mắt lo lắng của gần năm chục cô cậu
học trò. Lác đác vài cánh tay xung phong lên bảng giữa nhịp đập hối hả của những
con tim sợ phải lên bảng trả bài…

Cái hệ thống phân quyền từ trung ương đến địa phương này có tác dụng phổ cập
hơn là dành riêng cho bạn. Đó là mô hình chung của các trường phổ thông Việt
Nam ngày nay. Nó cần phả
i thay đổi. Tuy nhiên, đó là công việc của các nhà điều
hành, làm luật, tổ chức, những người có nhiều học hàm, học vị, và phải một thời
gian nữa mới có sự biến chuyển được. Còn bây giờ, các bạn “sinh ra phải thời loạn
lạc, trưởng thành gặp buổi gian nan”, dù có khó nhọc thì cũng phải xào nấu riêng
cho mình một cách nào đó để mà học cho tốt. Và vì thế, hãy tiếp nhận kiến thức
mộ
t cách chủ động. Muốn học, muốn hiểu sâu một vấn đề nào, tốt nhất hãy tự
chạm tới nó trước, tự gieo mầm, tự gợi mở, tự tìm tòi, trước khi có ai đó nói cho
bạn. Lần đầu tiên, thứ hai, thứ ba, chắc chắn sẽ rất khó khăn, nhưng đừng có nản.
Nên nhớ bạn đang làm đầy đủ công việc của cả một mô hình giáo dục thu nhỏ, từ
khâu thi
ết kế thượng tầng trung ương đến triển khai ở cấp cơ sở, và vì thế, thử
thách là điều không thể tránh khỏi. Ở Mỹ, sinh viên phải đọc trước hàng trăm trang
sách, thậm chí đi nghiên cứu, thu thập thông tin hàng tuần lễ để chuẩn bị cho một
bài giảng. Đến lớp, họ không nghe giáo viên nhắc lại kiến thức đâu, mà đó là tranh
luận, cái thuật ngữ mà dân du học nhà ta vẫn gọ
i nôm na là đì -bết (debate) hay
“hội đồng nhà mõ”. Và hiểu biết cứ thế nảy sinh, dưới nhiều góc độ khác nhau.


Tất nhiên, dù bạn có thế nào đi nữa, chúng ta vẫn rất cần những người thầy. Khi
người học đã tự tiếp nhận kiến thức thì vai trò của người thầy (hướng dẫn, tác
động…) là không thể thiếu. Nó có tác dụng định hướng rất tốt cho sự phát triển,
cũng giống nh
ư bánh lái để điều chỉnh phương hướng của con tàu, còn động cơ
thúc đẩy sự chuyển động. Nếu bánh lái cũng kiêm cả phần của động cơ (như dân ta
ngày nay quá ỷ lại vào người thầy), con tàu sẽ ì ạch, khó mà linh hoạt được. Bản
chất của tự học là tự làm việc với chính mình trước, nghiên cứu tài liệu, trao đổi
với bạn bè dưới sự hướng dẫn củ
a người thầy. Tất nhiên, ở môi trường như của
VN, cái mệnh đề trên có thể khuyết đi một vài vế (vì căn bệnh chạy đua thành tích,
vì tính ỷ lại, hay vì người thầy quá tận tâm mà làm luôn việc hộ trò). Mời các bạn
tham khảo cái sơ đồ rất hay dưới đây từ một hội thảo giáo dục của Liên Hợp Quốc
mà tôi sưu tầm trên mạng (từ diễn đàn Chúng ta):

-Họ
c mà chỉ nghe giảng, nhớ 5% những gì đã nghe
-Đọc (reading) 10%
-Nghe nhìn (Adio Visual) 20%
-Làm thí nghiệm trước mắt 30%
-Thảo luận nhóm (Disscussion group) 50%
-Làm bài ở nhà, ghi, viết lại (Practice by doing) 75%
-Dạy người khác (Teach other/immediate use of learning) 90%

Bạn thấy đấy, từ 50% trở lên toàn là công việc của bạn. Đừng trách tại sao suốt
ngày lê la trên giảng đường mà chữ nghĩa cứ rụng sạch. Nếu bạn là thiên tài mà
nhớ được hết ngay những gì trên lớp thì quá tốt rồi. Nhưng mà xác suất để bạn là
thiên tài nhỏ lắm bạn ơi, và vì thế, hãy nhìn vào thống kê với số đông
ở trên. Khi
tự học trước ở nhà, bạn đã được nghiên cứu hai lần một bài giảng rồi đấy. Lần đầu

là chính bạn, tự mày mò, tự vỡ vạc. Lần sau là quan điểm chính thống của giáo
viên, bạn có thể đối chiếu, so sánh, ghi nhớ. Và dù lần đầu có sai lầm đi nữa, chắc
chắn bạn cũng đã học hỏi được rất nhiều.
Nguồn: Hoctienganh

×