Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Cải cách thuế và các bằng chứng thực nghiệm về chuyển giá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 70 trang )

1



MỤC LỤC

1. Giới thiệu 3

2. Khung lý thuyết và những bằng chứng thực nghiệm về chuyển giá
5

2.1


thuyết
5

2.1.1

Khái
niệm


5

2.1.2

Lý do chuyển
giá



6

2.1.3

Tác hại của chuyển
giá


9

2.2

Bằng chứng thực
nghiệm
12

3. Phương pháp nghiên cứu 18

3.1

Mô hình và phương pháp nghiên
cứu
18

3.2

Nguồn dữ liệu và cách lấy số
liệu
25


4. Nội dung và kết quả nghiên cứu 28

4.1

Thuế và thuế quan ảnh hưởng đến động cơ chuyển giá TPI

29

4.2

Mô hình hồi quy ảnh hưởng của động cơ chuyển giá đến giá báo cáo của
doanh nghiệp

30

5. Kết luận 40

HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO 44

TÀI LIỆU THAM KHẢO 45

PHỤ LỤC: CÁC KIỂM ĐỊNH TRONG MÔ HÌNH 48
2



DANH MỤC VIẾT TẮT


STT

Kí hiệu viết tắt
Giải nghĩa
1

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)
2

TPI

Động cơ chuyển giá (Transfer Pricing Incentive)
3

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment)


4



OECD

Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển
(Organisation for Economic Cooperation and Development)
5

WTO


Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organisation)
6

IRS

Cơ quan thuế nội bộ của Mỹ (Cơ quan thuế nội bộ của Mỹ
7

ALP

Nguyên tắc giá thị trường (Arm’s length principle)
8

APA

Nguyên tắc giá thị trường (Advance pricing agreement)
9

Thuế TNDN
Thuế thu nhập doanh nghiệp
3



DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT
Tên


Trang
1

Bảng 1: Kiểm định tính dừng cho P1cho từng ngành
31

2

Bảng 2: Kiểm định tính dừng cho TPI1cho từng ngành
32

3

Bảng 3: Kiểm định tính dừng cho GDP/CAP1 cho từng ngành
32



4

Bảng 4: Kiểm định đa cộng tuyến cho các ước lượng theo từng
ngành


33

5

Bảng 5: Kiểm định tự tương quan
33


6

Bảng 6: Kiểm định phương sai thay đổi
34



7

Bảng 7: Kết quả hồi quy tổng thể về ảnh hưởng của TPI lên giá
báo cáo cho từng ngành theo hồi quy GLS


36



1



Cải cách thuế và các bằng chứng thực nghiệm về
chuyển giá

Tóm tắt

Chuyển giá trong nền kinh tế là một trong những đề tài nóng bỏng gây sự chú ý đối
với bộ phận chiến lược các công ty đa quốc gia, các nhà hoạch định chính sách, các
nhà làm luật cũng như cơ quan chính quyền. Việc thao túng chuyển giá đã tạo ra các

mức giá báo cáo cho các sản phẩm nhập khẩu nội bộ của công ty đa quốc gia khác đi
so với giá thị trường; từ đó làm giảm tổng trách nhiệm thuế phải thanh toán của công
ty bằng cách chuyển thu nhập từ nơi có thuế suất cao sang nơi có thuế suất thấp. Vì lý
do này, khi thuế suất thay đổi sẽ tạo nên động cơ để thao túng chuyển giá. Trong bài
nghiên cứu chúng tôi sử dụng mô hình của Deborah L. Swenson (năm 2000) để kiểm
tra xem thuế quan và thuế thu nhập doanh nghiệp tác động như thế nào đến hoạt động
chuyển giá của các công ty đa quốc gia (MNC) tại Việt Nam. Bài nghiên cứu xem xét
tính nhất quán giữa giá trị hải quan hàng nhập khẩu nội bộ của công ty đa quốc gia từ
các quốc gia Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Nhật Bản, Hồng Kông, Mỹ, Thái Lan,
Trung Quốc, Malaysia và Anh với lợi ích nhận được từ hoạt động chuyển giá do sự
khác biệt trong thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế quan. Kết quả nghiên
cứu cho thấy rằng khi lợi ích từ hoạt động chuyển giá tăng lên do sự thay đổi trong
thuế quan và thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ tạo ra những cơ hội cho các MNC thao
túng giá chuyển giao nhằm tối đa hóa lợi nhuận hoạt động của mình trên toàn thế giới
và giảm đi trách nhiệm thuế phải nộp. Kết quả kiểm định thực nghiệm vấn đề này tại
Việt Nam từ mô hình của Swenson cho thấy rằng nếu có sự sụt giảm 1% trong thuế
suất thuế thu nhập doanh nghiệp ở quốc gia mẹ sẽ làm cho giá báo cáo tăng lên
0.28%. Bài nghiên cứu sẽ chỉ ra ý nghĩa của các kết quả kiểm định cũng như ý nghĩa
của việc cải cách thuế ở các quốc gia sẽ tác động như thế nào đến giá chuyển giao báo
cáo mà một công ty đa quốc gia sử dụng để tối đa hóa lợi nhuận tổng thể trên toàn thế
giới.
2


3



1. Giới thiệu


Năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO đánh đấu một sự khởi đầu cho tiến trình hội
nhập và hợp tác quốc tế. Sự kiện này không chỉ tạo điều kiện thu hút dòng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài, góp phần thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển trong môi trường
kinh tế thị trường ngày một năng động và cạnh tranh hơn mà còn đặt nước ta vào
nhiều mối quan hệ phức tạp đáng quan ngại vốn có của tính chất thương mại quốc tế.
Số lượng các giao dịch thương mại xuyên biên giới diễn ra giữa các công ty liên kết
ngày một tăng. Với môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, khốc liệt, vấn đề tối đa
hoá lợi nhuận tổng thể luôn là mục tiêu quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư nước
ngoài. Và chuyển giá (transfer pricing) được xem là một trong những phương pháp
mà các nhà đầu tư thường áp dụng nhằm mục đích tránh thuế, từ đó gia tăng tổng lợi
ích cuối cùng. Ở Việt Nam đã có nhiều bằng chứng cho thấy sự xuất hiện của hành vi
chuyển giá, đặc biệt trong những năm gần đây, tình hình các doanh nghiệp FDI kê
khai lỗ kéo dài nhiều năm làm cho chính phủ bị thất thu thuế, ảnh hưởng trực tiếp đến
ngân sách quốc gia là dấu hiệu rõ ràng cho hành vi này. Hành vi chuyển giá diễn ra
không chỉ tại các doanh nghiệp liên kết có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mà còn
diễn ra giữa các bên liên kết trong nội địa Việt Nam. Không dừng lại ở đó, do các quy
luật của thị trường tự do, đặc biệt là quy luật cung cầu không hoạt động trong các tập
đoàn đa quốc gia, nên chuyển giá gây ra nhiễu loạn quá trình lưu thông quốc tế, điều
này dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Với thực trạng đáng báo động
của chuyển giá, trong khi các quốc gia phát triển đã có khá nhiều nghiên cứu chạm
đến vấn đề này thì nước ta thực sự vẫn chưa có, đặc biệt là nghiên cứu định lượng.
Xuất phát từ lý do đó chúng tôi tiến hành xây dựng mô hình nghiên cứu định lượng về
hành vi chuyển giá tại Việt Nam.

Bài nghiên cứu tìm hiểu ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế nhập
khẩu ảnh hưởng đến động cơ chuyển giá, qua đó sẽ ảnh hưởng đến mức giá chuyển
giao báo cáo ở Việt Nam, sử dụng mô hình của Swenson (2000). Nghiên cứu về giá trị
nhập khẩu có nguồn gốc từ Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Nhật Bản, Hồng Kông,
4




Mỹ, Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia, Anh vào Việt Nam, đây là những quốc gia có
dòng vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam đứng hàng đầu. Chúng tôi tập trung vào giai
đoạn 2007 – 2012 vì trong thời gian này thuế thu nhập doanh nghiệp cũng như thuế
quan ở Việt Nam có nhiều cải cách. Với chủ trương mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới,
Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách ưu đãi nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài
trong đó nổi bật bằng hành động nới lỏng hàng rào thuế quan, tăng cường chính sách
thuế ưu đãi cũng như ưu đãi đặc biệt làm giảm thuế suất thuế nhập khẩu của nhiều
hàng hóa. Bên cạnh đó, thuế thu nhập doanh nghiệp có bước thay đổi đáng kể khi
giảm từ 28% xuống 25% năm 2009. Chúng tôi cũng chỉ tập trung vào ngành công
nghiệp sản xuất (với các sản phẩm cao su, ô tô nguyên chiếc, chất dẻo, giấy, kim loại
thường, sắt thép các loại, xăng dầu, sợi dệt, phân bón, bông các loại) vì sản xuất tạo
nhu cầu cho các trung gian nhập khẩu từ công ty mẹ. Như chúng ta biết việc định giá
chuyển giao là cả một tiến trình phức tạp và khó khăn. Đối với vấn đề chuyển giá, các
MNC phải đưa vào xem xét cả một loại các yếu tố, trong đó thuế và thuế quan có thể
nói là các yếu tố quan trọng nhất. Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi sẽ xuất phát từ
mối quan hệ giữa thuế, thuế quan, động cơ chuyển giá để xây dựng phương trình thể
hiện mối quan hệ giữa các yếu tố đó tới giá báo cáo của các công ty. Lấy ý tưởng từ
việc nếu như các MNC có hành vi thao túng chuyển giá thì khi đó, mức giá báo cáo
của họ so với giá thị trường sẽ có một khoản chênh lệch, gọi là biên giá chuyển giao.
Và độ lớn của biên giá này phụ thuộc vào giá trị thuế quan, sự khác biệt thuế suất thu
nhập giữa các nước. Khi các công ty quyết định chuyển thu nhập, tức định giá chênh
lệch nhiều hay ít bao nhiêu so với giá thị trường thì họ phải cân nhắc những lợi ích có
được có thực sự lớn hơn chi phí mà họ đã bỏ ra hay không, đó chính là động cơ để xác
định biên độ chênh lệch giá. Sử dụng cầu nối là biên giá này mở ra cho ta phương
trình chuyển giá thể hiện mối quan hệ giữa giá báo cáo với động cơ chuyển giá (có
bao hàm thuế, thuế quan) cùng các yếu tố ngoại sinh khác. Và đó chính là hướng đi
của bài nghiên cứu chúng tôi, dựa trên mô hình gốc Swenson xây dựng năm 2000.
5




2. Khung lý thuyết và những bằng chứng thực nghiệm về chuyển giá

2.1 Lý thuyết

2.1.1

Khái niệm

Cũng giống như tính chất phức tạp của thương mại quốc tế, định nghĩa về chuyển giá
từ khi nó mới xuất hiện cho đến ngày nay có thể nói là một quá trình không ngừng
điều chỉnh, bổ sung sao cho phù hợp với bản chất mỗi giai đoạn, mỗi cách tiếp cận.
Tang 1997 cho rằng: “Các giao dịch nôi bộ liên quan đến doanh thu hoặc chuyển giao
các tài sản hữu hình và vô hình giữa các công ty có liên quan ở hai hay nhiều nước,
trong đó chuyển giá ở các công ty đa quốc gia thì có liên quan đến việc định giá các
giao dịch nội bộ”. Quay lại năm 1979, những quan niệm đầu tiên về chuyển giá của
Plasschaert 1979. P17, ông cho rằng, khi các công ty không liên quan giao dịch với
các bên khác, các tình huống của các mối quan hệ thương mại và tài chính nhìn chung
được điều khiển theo lực thị trường. Trái lại, trong giao dịch với các bên có liên quan
thì các mối quan hệ thương mại cũng như tài chính có thể không bị ảnh hưởng trực
tiếp theo lực thị trường, hay nói cách khác nó sẽ không tuân theo quan hệ cung cầu.
Kết quả là giá chi trả cho hàng hóa chuyển giao nội bộ, chẳng hạn như giữa công ty
con ở nước ngoài của công ty đa quốc gia và công ty mẹ ở Mỹ có thể khác với giá mà
được giao dịch với các bên không liên quan (độc lập) với cùng một hàng hóa có thể so
sánh. Plasschaert lập luận rằng các công ty mẹ ở Mỹ về mặt lý thuyết thực hiện kiểm
soát các công ty con và do đó có quyền thay đổi mức giá áp dụng cho giao dịch nội
bộ. Nếu lợi nhuận tổng thể của các công ty đa quốc gia tăng hay chi phí của chúng
giảm, khi đó các công ty mẹ có động cơ để dịnh giá chệch khỏi mức giá thực sự của

hàng hóa, dịch vụ, và đó là hành vi chuyển giá. Vào năm 1995, OECD đã ban hành
hướng dẫn về thực hành chuyển giá với nhìn nhận về chuyển giá như sau: “Chuyển
giá là cơ chế được thông qua bởi các công ty đa quốc gia để xác định giá trị hàng hóa
và dịch vụ giao dịch với các công ty con hoặc công ty liên kết ở nước ngoài nhằm
mục đích làm giảm nghĩa vụ thuế phải nộp và tối đa hóa lợi nhuận. Thước đo có thể
chấp nhận giá chuyển nhượng là "Giá theo nguyên tác thị trường" - đại diện cho các
6



giá trong các giao dịch có thể so sánh giữa các bên độc lập”. Trong một bài báo của tờ
New Yorrk Times, chuyển giá được mô tả như một công cụ nhằm làm tối thiểu lợi
nhuận tính thuế của Mỹ bằng cách chi trả quá cao cho các công ty con nước ngoài đối
với nguồn cung cấp sản phẩm khi mà thuế suất tại nước mẹ cao hơn so với các nước
đầu tư – nơi đặt các công ty con (New York Time 2006). Tờ Finance Times đứng trên
quan điểm của Châu Âu mô tả chuyển giá như là “một thao tác thực hành mà trong đó
lợi nhuận của công ty đa quốc gia đặt tại Anh được chuyển qua cho các văn phòng tại
Bắc Ireland, nơi mà thực sự không có mang lại bất kỳ hoạt động kinh tế nào thêm
(Brown 2007)”. Tờ Economist mô tả chiến lược các tập đoàn đa quốc gia có thể sử
dụng để giảm thiểu hoặc tránh bị đánh thuế, họ gọi chuyển giá như là một sự phô
trương lực lượng trong kho vũ khí tránh thuế của thủ quỹ công ty “a big stick in the
corporate treasurer’s tax-avoidance armoury”, một vấn đề mà đã trở thành cơn ác
mộng cho những người thu thuế (The Economist 2007). Chuyển giá, dưới nhiều góc
độ, với những định nghĩa so sánh một cách ví von tuy nhiên vẫn không xa rời những ý
chính theo định nghĩa của OECD là định giá một cách chênh lệch giá thị trường nhằm
mục đích tránh thuế, cũng như tối đa lợi nhuận tổng thể cho các công ty đa quốc gia,
và hướng dẫn của OECD được xem như một hướng dẫn chuẩn trong công tác thực
hành chuyển giá cho đến nay.

2.1.2


Lý do chuyển giá


Động cơ bên

trong:

Có những trường hợp mà khi đó các MNC không có lý do bên trong gì để thiết lập
mức giá chuyển giao trước, đó là khi các giao dịch có thể có khối lượng nhỏ hoặc khó
để định giá hoặc xảy ra với tốc độ bất thường. Ví dụ như, trong thực hành kế toán
truyền thống, thường trì hoãn việc định giá các tài sản vô hình cho đến khi có có mua
và bán theo giá thị trường, tạo ra các hạng mục bảng cân đối kế toán “thiện chí
(goodwill)”, cái mà đo lường giá mua vượt mức so với giá trị hợp lý của tài sản đạt
được. Các tài sản vô hình này có thể là chi phí bản quyền, chi phí xây dựng thương
hiệu sản phẩm, chi phí nghiên cứu và phát triển,… Do tài sản vô hình khó xác định
7



giá cụ thể trước nên điều này tạo điều kiện thuận lợi để các MNC thực hiện thủ thuật
chuyển giá mà ta khó có thể nhận ra.

Tuy nhiên trong các trường hợp điển hình, các MNC có động cơ bên trong cho việc
thiết lập một mức giá chuyển giao chẳng hạn như đánh giá thể hiện của giám đốc
công ty con, theo dõi tốt hơn các dòng giao dịch nội bộ,…Trong những trường hợp
như vậy, khi mà thị trường bên ngoài không tồn tại, các MNC thiết lập mức giá
chuyển giao bằng với giá mờ của các giao dịch nội bộ; nói chung đây là chi phí biên
của bên xuất khẩu. Mức giá chuyển giao hiệu quả cho dịch vụ và các tài sản tư vô
hình có những quy tắc tương tự, chúng nên dựa trên nguyên tắc lợi ích – chi phí. Ví

dụ như mỗi bên nên trả một mức giá chuyển giao tương ứng với lợi ích nhận được từ
dịch vụ hay tài sản vô hình (Eden, 1998). Đây là trường hợp mà các giao dịch chỉ tồn
tại trong nội bộ các công ty, không hề xảy ra với một bên độc lập nào khác. Nếu như
có tồn tại thị trường bên ngoài, khi đó các MNC nên xem xét đến việc thiết lập giá
chuyển giao dựa trên việc mua và bán theo định hướng của lực cung cầu thị trường.

Chuyển giá được thiết kế cho phù hợp lý tưởng với quản lý cũng như trách nhiệm nội
bộ giữa chi phí và lợi nhuận, qua đó đóng góp vào quản lý tổng thể hoạt động của
doanh nghiệp tốt hơn. Khi các hoạt động sản xuất kinh doanh của MNC tại chính
quốc hay tại các công ty thành viên trên các quốc gia khác bị thua lỗ, để tạo ra một
bức tranh tài chính tươi sáng hơn cho công ty khi đứng trước các cổ đông và các bên
hữu quan khác thì chuyển giá như là một cứu cánh để thực hiện ý đồ trên. Chuyển giá
giúp cho các MNC san sẻ thua lỗ giữa các thành viên với nhau từ đó làm giảm các
khoản thuế phải nộp và tạo nên bức tranh kết quả kinh doanh giả tạo vi phạm pháp
luật của các quốc gia.


Động cơ bên ngoài

Các nhà kinh tế đã nghiên cứu một thời gian dài về động cơ tham gia vào mô hình
chuyển giá (TPM) do thuế thu nhập gây ra. Bằng chứng là các công ty thực hiện
chuyển giá để tăng lợi nhuận sau thuế với những nghiên cứu như Bartelsman và
Beetsma (2003), Clausing (2002), Eden (1998), Eden và Rodriguez (2006), Li và
8



Balachandran (1996), Fisman và Wei (2001), Grubert và Mutti (1991), Swenson
(2001) và Tomohara (2004). Chính sự khác nhau trong thuế suất thu nhập giữa các
quốc gia đã tạo cơ hội thuận lợi cho các MNC thực hiện hành vi chuyển giá. Việc

định giá quá cao hay quá thấp nhằm để chuyển lợi nhuận ra khỏi quốc gia có thuế cao
trong khi đó lại không cho phép chuyển vốn.

Động cơ thứ hai bắt nguồn từ thuế thương mại (thuế quan, thuế xuất khẩu). Các bằng
chứng về động cơ chuyển giá do thuế quan gây ra được đề cập trong các nghiên cứu
Eden (1998), Vincent (2004), Goetzl (2005), Eden và Rodriguez (2004).

Động cơ thứ ba là các hạn chế về tỷ giá hối đoái. Với mục đích là bảo toàn và phát
triển nguồn vốn đầu tư ban đầu, các MNC sẽ tiến hành đầu tư vào một quốc gia nếu
họ dự đoán rằng trong tương lai đồng tiền của quốc gia này sẽ mạnh lên, nghĩa là số
vốn đầu tư ban đầu của họ được bảo toàn và phát triển, ngược lại họ sẽ rút đầu tư ra
khỏi một quốc gia nếu họ dự đoán rằng trong tương lai đồng tiền của quốc gia này sẽ
bị yếu đi, nghĩa là vốn đầu tư ban đầu của họ bị giảm đi. Bằng chứng về động cơ tỷ
giá trong mô hình chuyển giá được Chan và Chow đưa ra vào năm 1997, họ thấy rằng
các MNC nước ngoài tham gia vào mô hình chuyển giá bằng cách chuyển lợi nhuận
ra khỏi Trung Quốc không phải do sự khác biệt về thuế thu nhập doanh nghiệp (thực
tế là thuế thu nhập của Trung Quốc thấp hơn so với các nước khác) mà là nhằm tránh
các rủi ro cũng như kiểm soát về tỷ giá.

Một lĩnh vực khác nữa cũng là nguyên nhân cho các hành vi chuyển giá là rủi ro chính
trị, nơi mà việc tháo chạy vốn có thể được thực hiện thông qua các hóa đơn định giá
trị quá cao hay quá thấp. Nếu tình hình chính trị bất ổn, để giảm rủi ro và bảo tồn vốn
kinh doanh bằng c434ách chuyển giá thì MNC muốn thu hồi vốn đầu tư sớm. Bằng
chứng về việc tháo chạy vốn và chuyển giá xuất phát từ rủi ro chính trị được xem xét
trong các nghiên cứu của Cuddington (1986), Gulati (1987), Lessard và Williamson
(1984), IMF (1991), Kahn (1991), Rustomjee (1991), Smith và Mocke (1991),
Anthony and Hallet (1992), Wood và Moll (1994), Fatehi (1994), Baker (2005), de
Boyrie, Pak và Zdanowicz (2005).
9





Sự cân bằng giữa lý do bên trong và bên ngoài: chiến lược chuyển giá

Thực tế là các công ty con có thể thông đồng với nhau để thiết lập mức giá chuyển
giao nhằm tối đa hóa lợi nhuận của họ. Các MNC phải xem xét cả động cơ bên trong
(chi phí và doanh thu của các chi nhánh riêng lẻ) và động cơ bên ngoài (sự tồn tại của
mức giá thị trường bên ngoài và các quy định của chính phủ như thuế và thuế quan)
có thể ảnh hưởng đến mức giá chuyển giao tối ưu (Hirshleifer, 1956, 1957; Horst,
1971; Eden, 1998). Lợi ích tiết kiệm thuế từ mô hình chuyển giá phải được giao dịch
chống lại sự bóp méo phân bổ nguồn lực do định giá sai trong nội bộ công ty. Với sự
đa dạng của động cơ bên trong và bên ngoài để thiết lập giá chuyển nhượng, làm thế
nào trong thực tế các MNC xác định thực sự chính sách định giá chuyển nhượng của
họ? Một số nghiên cứu đã được thực hiện trong lĩnh vực này như Borkowski (1992),
Chan và Lo (2004), Colbert và Spicer (1995), Cravens (1997), Durst (2002), Elliot và
Emmanuel (2000a,b), Tang (1993, 1997, 2002) và Cools (2003). Các bằng chứng
khảo sát cho thấy rằng cả động cơ bên trong và bên ngoài đều ảnh hưởng đến các
quyết định về chuyển giá.

2.1.3

Tác hại của chuyển giá

Theo Emmanuel Budu Addo, ActionAID Ghana:


Chuyển giá làm mất đi doanh thu thuế của ngân sách quốc gia, đe dọa đến sự

phát triển kinh tế


Nhiều tài liệu thực nghiệm quan trọng đã phân tích hành vi lạm dụng chuyển giá ảnh
hưởng tiêu cực đến doanh thu thuế nói chung và tác động rộng hơn của nó đối với sự
phát triển và xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, những ảnh hưởng lên quyền lợi của lực
lượng lao động, quản lý nguồn lực yếu kém, bóp méo thông tin về phát triển và đầu tư
của các doanh nghiệp, những thách thức với việc thực hiện các chính sách liên quan
đến thuế của chính phủ, và hiệu ứng dây chuyền của chúng tác động lên nghèo đói đã
không nhận được sự chú ý tương ứng của công chúng. Trốn thuế làm tình trạng nghèo
đói kéo dài dai dẳng và tạo ra sự bóp méo kinh tế nghiêm trọng, gây cản trở quyết
định đầu tư trong nền kinh tế mà thực hành là chủ yếu.
10




Việc tránh thuế của các MNC-một thực hành vô đạo đức

Thuật ngữ như định giá chuyển giao sai, lạm dụng chuyển giá, chuyển lợi nhuận, phân
chia lợi nhuận, chuyển thu nhập, phân chia thu nhập, và xói mòn cơ sở thuế, tất cả đều
đề cập đến các hành vi khác nhau của thao tác giao dịch tài chính trong các doanh
nghiệp đa quốc gia nhằm giảm số lượng thuế thu nhập doanh nghiệp mà chúng phải
trả. Trong khi hầu hết các hoạt động liên quan đến việc định giá chuyển giao sai
không phải là bất hợp pháp mà là phi đạo đức và đã bị chỉ trích như là các thực hành
doanh nghiệp vô trách nhiệm. Chúng được xem là các thực hành vô trách nhiệm bởi
vì chúng làm giảm sự đóng góp quan trọng mà các bên liên quan khác chẳng hạn như
chính phủ, lao động và cổ đông thiểu số đã thực hiện góp phần cho sự thành công của
tổ chức. Thứ hai, chúng liên quan đến thao tác của các giao dịch tài chính và bảo mật,
do đó làm cho báo cáo tài chính của công ty khó có thể truy cập cũng như đánh giá.
Ngay cả những báo cáo tài chính có thể truy cập cũng có thể trở nên không đáng tin
cậy. Điều này là do công ty đã báo cáo sai lợi nhuận hoặc lỗ, đưa ra sự giải thích phức

tạp và gây hiểu nhầm về kết quả hoạt động. Mục đích cho những giải thích phức tạp là
để che giấu hành vi trốn thuế.

Định giá chuyển giao sai - mối đe dọa đối với chính sách phân phối lại hiệu
quả

Thuế là một yếu tố quan trọng của chính sách tài khóa. Ngoài chức năng huy động
doanh thu thuế, nó cũng được sử dụng để tái phân bổ nguồn lực. Doanh thu thuế chủ
yếu từ các lĩnh vực kinh tế mạnh cũng như từ các cá nhân có thu nhập cao và chúng
dùng để tái phân bổ cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho công dân. Trong thực tế, các
nguyên tắc của Adam Smith nhấn mạnh sự cần thiết cho một hệ thống thuế công
bằng, dựa trên thu nhập và bảo hộ được hưởng từ nhà nước. John Stuart Mill, một nhà
kinh tế chính trị nổi tiếng, nói thêm rằng kể từ khi gánh nặng thuế đặt tỷ trọng khác
nhau giữa người giàu và người nghèo, mặc dù luôn luôn bất lợi cho người nghèo, thuế
phải lũy tiến để những người giàu nộp thuế nhiều hơn. Thật không may, việc định giá
chuyển giao sai và hành động tránh thuế đã phá vỡ nguyên tắc này. Khi các MNC với
1
1



khả năng hưởng lợi thế kinh tế theo quy mô để giảm thiểu chi phí của chúng so với
các khoản lỗ báo cáo cục bộ và khi chúng không phải đóng thuế, chính phủ buộc phải
chuyển các khoản thuế phải nộp này cho các hộ gia đình có thu nhập có thể không đủ
cao hay không thực sự nằm trong khoản thu nhập chịu thuế. Kết quả của việc này là
sự cố thủ của đói nghèo và từ chối quyền lợi kinh tế của người dân.


Định giá chuyển giao sai – mối đe dọa đối với quyền và phúc lợi của người lao


động

Chính hệ quả báo cáo lỗ hay hiệu quả hoạt động thấp từ thao túng chuyển giá ở một
số bên liên quan của công ty đa quốc gia đã đặt người lao động vào tình trạng căng
thẳng không những về tiền lương, phúc lợi lẽ ra mà họ xứng đáng nhận được mà còn
về mặt tinh thần khi họ phải luôn đối mặt với những áp lực, nghiêm trọng nhất là khả
năng mất việc khi các đe dọa về tái cấu trúc do kết quả công ty thua lỗ, trong khi họ
hoàn toàn không có lỗi. Trong công ty mà việc chuyển lợi nhuận là một phần của cách
thức vận hành của chúng, người lao động bị áp đặt với mục tiêu hoạt động không hợp
lý trong khi chỉ được cung cấp sự hỗ trợ công suất tối thiểu với lý do là chi phí đã quá
cao. Vì vậy, các công nhân làm việc dưới áp lực cao độ để đạt được mục tiêu nhưng
lại kiếm được tiền lương ít hơn, trong khi đó họ phải đối mặt với các hóa đơn y tế gia
tăng do căng thẳng và các bệnh khác có liên quan. Tất cả những yếu tố này làm giảm
tiềm năng tiết kiệm, phúc lợi của người lao động. Tác dụng lâu dài lại là một cái vòng
lẩn quẩn của tình trạng nghèo đói.


Định giá chuyển giao sai - mối đe dọa đối với phát triển và đầu tư kinh doanh

Độ tin cậy của thông tin trong môi trường kinh doanh là rất quan trọng đối với động
lực và phát triển kinh doanh. Tính đúng đắn trong kinh doanh phụ thuộc một phần vào
phân tích môi trường kinh doanh nhằm có được thông tin để có thể xác định được cơ
hội kinh doanh. Việc định giá chuyển giao sai làm cho quá trình truy cập thông tin
đáng tin cậy khó khăn hơn. Khi các công ty đa quốc gia tiếp tục báo cáo lỗ giả, nó sẽ
gửi tín hiệu sai lầm về tiềm năng kinh doanh trong nền kinh tế, khi đó các nhà đầu tư
tiềm năng có thể dựa vào thông tin này và đánh giá môi trường kinh doanh không
12




thuận lợi và họ sẽ chuyển đến một môi trường khác được cho là thuận lợi hơn, kết quả

gây mất mát trong việc làm và thu nhập quốc dân.

Việc định giá sai chuyển giao đã được coi là một trong những nguyên nhân chính của
những bất đồng liên doanh. Khi giao dịch với các bên liên quan được thao túng nhằm
làm giảm lợi nhuận, cổ đông thiểu số bị có thể không nhận được cổ tức do công ty
thua lỗ nên không tuyên bố chi trả cổ tức. Điều này phủ nhận lợi nhuận trên đầu tư
cho những cổ đông này.


Định giá chuyển giao sai - mối đe dọa đến tối ưu hóa

nguồn lực

Trong các môi trường có tính cạnh tranh cao lợi nhuận biên do đó có thể là thấp, các
thao tác quản lý chi phí đổi mới, công nghệ hiệu quả, hàng hoá và dịch vụ chất lượng,
và dịch vụ khách hàng đạt tiêu chuẩn cao nhất thường là chiến lược để duy trì thế
cạnh tranh và nâng cao lợi nhuận. Tuy nhiên, tại nơi mà lợi nhuận được cắt giảm do
thủ thuật chuyển giá họ không có động lực để theo đuổi chiến lược cạnh tranh. Thật
thú vị, các công ty né tránh thuế thì báo cáo lợi nhuận khổng lồ trong công ty của họ
đang nắm giữ tại nơi ẩn trú thuế. Việc dễ dàng tạo ra lợi nhuận như vậy không đặt bất
kỳ áp lực nào lên công việc quản lý về sáng tạo đổi mới trong các chiến lược tối thiểu
chi phí để tăng lợi nhuận. Kết quả gây nên sự lãng phí vật chất đáng kể cũng như cung
cấp dịch vụ khách hàng yếu kém. Ngoài ra, chuyển giá làm mất nhiều nguồn lực trong
công tác điều tra và phát hiện. Khi đã phát hiện được, có thể sẽ xảy ra cuộc đối đầu
pháp lý giữa các bên. Các công ty đa quốc gia đã có những chuẩn bị trước thông qua
hành động đầu tư vào các kế toán viên cũng như nhờ sự hỗ trợ của luật sư nhằm tìm lỗ
hổng trong luật thuế để né tránh thuế. Vì vậy, giả sử khi có bằng chứng chứng minh
họ chuyển giá, chưa chắc gì họ đã nhận. Một sự gây ra tổn thất nguồn lực mà phần

thiệt thường nghiêng về chính phủ các nước nhận đầu tư.

2.2 Bằng chứng thực nghiệm

Hơn hai thập kỷ gần đây chuyển giá trở thành đề tài tốn nhiều giấy mực không chỉ của
các nhà nghiên cứu, các nhà báo mà còn có cả những nhà làm luật. Rất nhiều nghiên
cứu đã chạm vào vấn đề mới mẻ và khá nhạy cảm này nhưng vẫn có nhiều ý kiến
1
3



chưa đồng thuận. Ta hãy cùng nhìn lại những thành tựu cũng như những vấn đề vẫn
còn bõ ngõ liên quan đến chuyển giá trong giai đoạn những năm cuối thập niên 70 cho
đến nay.

Trước hết ta bắt đầu từ những phát hiện và cáo buộc đầu tiên về hành vi chuyển giá
xuất hiện ở các quốc gia và phản ứng của chính phủ các nước trước hành động này.
Những cáo buộc về lạm dụng chuyển giá đã lan rộng khắp nước Mỹ khi có các bằng
chứng gián tiếp cho thấy có sự chênh lệch lớn giữa giá chuyển giao và giá thị trường
qua các nghiên cứu của Lall 1973; Vaitsos 1974; Jenkins and Wright 1975;
Roumeliotis1977; Bertrand 1981. Để làm sáng tỏ điều này Jean-Thomas Bernard và
Robert J đã tiến hành xem xét vấn đề chuyển giá trong ngành công nghiệp dầu khí của
Mỹ - ngành công nghiệp mũi nhọn với thuế suất đánh gấp đôi so với các ngành công
nghiệp khác. Tuy nhiên kết quả không như dự đoán khi sự khác biệt giữa giá giao
dịch nội bộ và giá chuyển giao thị trường không được giải thích đáng kể bởi hệ thống
thuế suất, tức chưa có dấu hiệu chuyển giá rõ ràng. Điều này được tác giả lý giải do
dầu là sản phẩm không đồng nhất cũng như bản chất và các quy tắc của IRS có thể
phát huy hiệu quả làm ngăn cản các công ty thực hiện nghĩa vụ thuế thông qua chuyển
giá mà thay vào đó họ sẽ tránh thuế thông qua các kênh khác. Sau đó, vào năm 1995,

Ernst & Young đã tiến hành cuộc khảo sát toàn cầu về các công ty đa quốc gia và cho
thấy rằng rõ ràng việc chuyển giá cực kỳ quan trọng đối với các MNC trong tất cả các
nước được khảo sát. Hầu hết các MNC đã quen thuộc với khái niệm thỏa thuận định
giá trước (APA) và họ sẽ tăng sử dụng các điều khoản của nó trong tương lai. Một
năm sau đó, Ernst & Young (1996) tiếp tục thực hiện một cuộc khảo sát tìm kiếm
bằng chứng chuyển giá ở nhiều quốc gia và đưa ra kết luận rằng có thiếu các bằng
chứng yêu cầu về chuyển giá cũng như thiếu các hình phạt có ý nghĩa ở các nước khác
hơn là ở Mỹ. Chính vì sự chưa đồng bộ ấy, Turner (1996) đã tổng kết các hướng dẫn
về định giá chuyển giao do OECD ban hành năm 1995, cung cấp một cái nhìn tổng
quan những quy định về thuế áp dụng cho các giao dịch với các bên liên quan ở các
quốc gia khác nhau và được so sánh với cách tiếp cận trước ở Canada - cách tiếp cận
thay thế cho hệ thống thuế Canada nhằm bảo vệ cơ sở thuế, đơn giản hóa cũng như
14



tăng cường tính công bằng, đảm bảo rằng tất cả các doanh nghiệp đều sẽ chịu cùng
chi phí cung cấp dịch vụ chính phủ. Ở Ấn Độ, nhận thấy tầm quan trọng của chuyển
giá, tháng 11 năm 1999, chính phủ thiết lập một nhóm chuyên gia dưới sự chủ trì của
ông Raj Narain để kiểm tra các vấn đề liên quan đến chuyển giá. Nhằm cung cấp một
khuôn khổ luật định chi tiết để tính toán hợp lý lợi nhuận và thuế một cách công bằng
cho các MNC Ấn Độ, Luật Tài chính, năm 2001 đã có những thay thế nhất định trong
luật thu nhập. Shah (2001) đã kiểm tra các quy định về chuyển giá được giới thiệu
trong Đạo luật Tài chính 2001. Nghiên cứu chỉ ra ra rằng mục đích của việc giới thiệu
các quy định về chuyển giá là để kiểm tra các thao tác tính giá và thanh toán của các
giao dịch nội bộ. Nhìn chung, chính phủ các nước rất quan tâm đến vấn đề chuyển giá
và đã không ngừng bổ sung, hoàn thiện các quy tắc định giá cũng như các hình phạt
đưa ra để ngăn chặn các hành vi lạm dụng chuyển giá khi nó gây ra thiệt hại cho chính
phủ nước chủ nhà không chỉ ở phần thuế bị thất thu mà còn gây ảnh hưởng tiêu cực
đến thương mại quốc tế. Không còn nghi ngờ gì nữa, chuyển giá là một chào đón cho

những cơn gió của sự thay đổi pháp luật thổi vào tất cả các quốc gia để bảo vệ thị
phần thuế và sự giàu có toàn cầu. Nhưng với tham vọng lợi nhuận công ty đặt lên
hàng đầu, dù luật chuyển giá có không ngừng hoàn thiện thì các MNC vẫn không
ngừng tìm cách “lách luật” bằng việc vận dụng các hình thức chuyển giá ngày càng
linh động và biến tướng dưới nhiều hình thức hơn. Đúng là thuật ngữ “chuyển giá”
nghe có vẻ đã quen thuộc nhưng để hiểu những biểu hiện cũng như bản chất của nó
vẫn là một thách thức, đó là lý do để các nhà nghiên cứu đã và không ngừng đưa nó
lên “bàn mổ”.

Mức độ mà các tập đoàn đa quốc gia chuyển thu nhập từ các quốc gia đánh thuế cao
sang các nước có thuế thấp được trình bày trong một số nghiên cứu thực nghiệm, như
Jenkins và Wright (1975), Grubert và Mutti (1991), Hines và Rice (1994), Swenson
(2001), Clausing (2003), Bartelsman và Beetsma (2003), Reeb và Hansen (2003) và
Bernard et al. (2006). Các nghiên cứu đều cùng có chung quan điểm trên mặc dù mức
độ chuyển giá mỗi giai đoạn khác nhau. Hines và Rice (1994) tập trung vào các công
Mỹ có suất sinh lợi cao vượt bậc trên các khoản đầu tư tài chính cũng như đầu tư thực
1
5



ở các thiên đường về thuế. Quyết định thực hiện ở các thiên đường thuế này sẽ góp
phần làm tăng độ nhạy cảm của thu nhập đối với thuế suất, cho chúng ta kết quả rõ
ràng hơn về hành vi chuyển thu nhập. Bằng phương trình hồi quy của thu nhập đối với
các biến thuế suất và GDP, kết quả cho thấy có độ cong (độ co dãn) đáng kể trong tác
động của thuế suất đối với thu nhập được báo cáo: khi thuế suất tăng 1% sẽ làm giảm
20% thu nhập và tác động biên của thuế giảm xuống bằng 0 khi thuế suất đạt 43%.
Không tập trung ở các thiên đường về thuế, nhưng nghiên cứu của Reeb và Hansen
(2003) đã cho kết quả mang mức ý nghĩa đáng kể. Họ kết luận rằng rằng thu nhập
đuợc chuyển giảm với sự gia tăng quy định của chính phủ trong những năm gần đây

và các công ty quốc tế tiếp tục chuyển thu nhập trong suốt những năm1990 nhằm tối
thiểu hóa thuế. Họ cũng tìm thấy bằng chứng rằng chiến lược tối thiểu thuế được các
công ty nhỏ đeo đuổi mạnh mẽ hơn, và những công ty đặt tại các quốc gia có thuế suất
thấp có động cơ chuyển thu nhập từ nước mẹ vào trong khi đó các công ty ở các quốc
gia thuế suất cao thì lại có khả năng chuyển thu nhập ra nước ngoài. Pak và
Zdanowicz (2001) đã ước tính tổng thu nhập chuyển ra khỏi nước Mỹ thông qua
chuyển giá năm 2000 là 131 tỷ dollar với ước tính doanh thu về thuế lỗ tương ứng là
44.6 tỷ dollar.

Nghiên cứu về vấn đề chuyển giá liên quan đến các quyết định đầu tư quốc tế có các
tài liệu tiêu biểu Hartman (1984); Wheeler, David và Ashoka Mody (1992). Tuy
nhiên, những nghiên cứu này thường thấy rằng đầu tư không phản hồi đối với những
thay đổi trong chi phí biên của đầu tư, trong đó có thuế. Nghiên cứu kế tiếp của Hines
và Rice (1994), Grubert và Mutti (1991) đã có những kết luận khá phần khởi. Điểm
khác nhau quan trọng là trong khi Grubert và Mutti phân tích phân bổ vốn đầu tư cho
các chi nhánh sản xuất tại 33 nước chủ nhà của các công ty mẹ thì Hines và Rice thực
hiện xem xét hoạt động của các công ty đa quốc gia Mỹ ở các thiên đường về thuế. Cả
hai đều đi đến kết luận rằng hệ số co dãn của ước lượng cho thấy rằng các quyết định
đầu tư trở nên nhạy cảm hơn với thuế suất nước chủ nhà, tuy nhiên giá trị của các so
sánh này có thể là vấn đề vì hai nghiên cứu bắt nguồn từ các nguồn dữ liệu khác nhau.
Cũng trong khoảng thời gian này, Cummins, Hassett, và Hubbard (1996) đã tiến hành
16



xem xét mối quan hệ giữa thuế và đầu tư ở 14 quốc gia OECD với mô hình không
ngừng hoàn thiện hơn. Bằng việc sử dụng mô hình q hiệu chỉnh thuế mở rộng và đặc
biệt là cải thiện hơn các cách tiếp cận trước khi sử dụng cải cách thuế để xác định yếu
tố quyết định tốt hơn trong lựa chọn đầu tư. Kết quả họ đã tìm thấy bằng chứng mang
ý nghĩa kinh tế và thống kê về phản ứng của đầu tư đối với những thay đổi của thuế


12 trong 14 quốc gia khảo sát. Một năm sau, Grubert và Newlon (1997) đã nghiên cứu
thêm các phát hiện này, và chỉ ra rằng các tác động thực sự của thuế lớn dần qua các
năm. Không ngừng lại ở đó, năm 2008, Célina Azémar và Gregory Corcos tiến hành
nghiên cứu với ý tưởng xây dựng phương trình phân bổ vốn đầu tư dưới tác động so
sánh thuế suất giữa nước mẹ và nước đầu tư, ngoài ra còn có yếu tố chi phí cơ hội của
việc chuyển lợi nhuận từ nước này sang nước khác, có đề cập đến hình thức sở hữu
của công ty mẹ đối với công ty con ở nước đầu tư cũng như thêm vào chi phí R&D,
chi phí chuyển giao công nghệ và chi phí bị phát hiện chuyển giá. Đây là một nghiên
cứu khá toàn diện, xem xét vần đề chuyển giá với nhiều khía cạnh cho đến thời điểm
này. Nghiên cứu đã làm sáng tỏ vấn đề rằng chính sự khác nhau về thuế suất giữa các
nước đã thúc đẩy hành vi chuyển giá. Với giả định về công nghệ và việc phát hiện lạm
dụng chuyển giá, các công ty như thế sẽ đầu tư vào các nước có thuế suất thấp. Ngoài
ra, đặc điểm của công ty mẹ và các chi nhánh đầu tư ở nước ngoài cũng có tương
quan với khả năng chuyển thu nhập lớn hơn. Cụ thể các công ty mẹ mà tập trung vào
cho R&D đầu tư vào các chi nhánh đầu tư được sở hữu toàn phần để có nhiều khả
năng thuận lợi hơn cho việc chuyển giá. Rõ ràng đầu tư vào những công ty như thế sẽ
thực sự trở nên nhạy cảm hơn với thuế suất nước chủ nhà.

Các hình thức như chuyển thu nhập hay phân bổ vốn đầu tư nói trên là một số biểu
hiện của chuyển giá, tuy nhiên nhiều nghiên cứu về vần đề này hầu hết đề tập trung

các bằng chứng gián tiếp. Phần lớn các nghiên cứu chọn đại diện như là thu nhập báo
cáo, thuế phải trả, xuất khẩu nội bộ và thấy rằng sự biến động giữa các quốc gia theo
thời gian của các biến này thì phù hợp với động cơ chuyển thu nhập. Một số khác thì
cho thấy các công ty đa quốc gia đã thay đổi các hoạt động thực của họ chẳng hạn như
đầu tư nước ngoài hay thay thế việc phân bổ các khoản nợ để đáp ứng động cơ chuyển
1
7




giá. Tuy nhiên, trong khi các dòng nghiên cứu này cung cấp bằng chứng từ nền kinh
tể tổng thể thì phù hợp với chuyển thu nhập với những thay đổi do thuế gây ra, nhưng
nó vẫn chưa xác định liệu thao túng giá chuyển giao có đóng vai trò chủ yếu. Với sự
ra đời của thỏa thuận định giá trước trong giao dịch giữa các bên và đặc biệt là nguyên
tắc giá thị trường (ALP) của OECD có thực sự khiến cho các giao dịch trở nên trung
thực? Liệu mức giá báo cáo trong của các MNC có phản ánh đúng giá thị trường hay
chúng bị bóp méo chăng? Và nghi vấn này trở thành mục tiêu cho các nhà nghiên cứu
tiếp tục cuộc hành trình của mình. Clausing, Kimberly đã tạo bước ngoặt bằng nghiên
cứu thực nghiệm khi chạm đến vấn đề thay đổi của mức giá báo cáo. Mặc dù chưa
phải là trực tiếp mà thông qua xem xét dòng giao dich nôi bộ nhưng nó đã tạo cơ
s

để các nghiên cứu sau này bổ sung và hoàn thiện. Nghiên cứu cho thấy mối quan hệ
rõ ràng giữa thuế và dòng giao dịch nội bộ và kết quả này phù hợp với kỳ vọng lý
thuyết cho rằng các công ty muốn tổi thiểu gánh nặng thuế tổng thể sẽ định giá thấp
xuất khẩu của Mỹ đến các chi nhánh tại các quốc gia có thuế suất thấp và ngược lại
định giá cao nhập khẩu của Mỹ từ các quốc gia có thuế suất thấp. Bằng cách tiếp cận
trực tiếp, Swenson (2000) đã nghiên cứu xem phản ứng mức giá báo cáo của các
MNC đối với đối với những thay đổi trong thuế hiệu lực cũng như thuế quan đánh vào
hàng hóa nhập khẩu như thế nào. Liệu nếu công ty sử dụng giá chuyển giao để thao
túng thu nhập thì giá báo cáo hải quan sẽ tăng hay giảm trước những thay đổi trong
động cơ về thuế. Và kết quả nghiên cứu cho thấy rằng khi kết hợp cả tác động của
thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế quan đã tạo ra động lực cho các công ty phóng
đại giá của họ. Ông nhận định các kết quả thì có ý nghĩa thống kê nhưng ý nghĩa kinh
tế lại nhỏ, cho thấy rằng 5% sụt giảm trong thuế suất thu nhập nước ngoài có thể gây
nên sự gia tăng 0.024% trong giá nhập khẩu báo cáo của các chi nhánh ở nước ngoài.
Liên quan đến việc định giá báo cáo, nghiên cứu của Bernard, Jensen và Schott (2006)
cho kết quả rằng giá xuất khẩu cho các giao dịch nội bộ thì thấp hơn đáng kể so với

giá của các sản phẩm tương tự theo nguyên tắc giá thị trường. Nghiên cứu của họ bổ
sung thêm nguyên nhân về chênh lệch giữa giá thị trường và giá giao dịch nội bộ
ngoài yếu tố thuế và thuế quan còn do sự khác biệt trong cấu trúc thị trường. Qua đó
18



cho ta một nhận định rằng, mức giá báo cáo có thể chênh lệch với giá định theo
nguyên tắc giá thị trường và việc định giá cao, định giá thấp hay mức độ bóp méo như
thế nào sẽ bị tác động bởi nhiều yếu tố, trong đó quan trọng là thuế. Vậy ở Việt Nam
thì sao, chúng ta sẽ giải quyết vấn đề này ở phần tiếp theo với mục tiêu tìm kiếm
những bằng chứng thực nghiệm về hành vi chuyển giá trong công ty có vốn FDI

Việt Nam.

3. Phương pháp nghiên cứu

3.1 Mô hình và phương pháp nghiên cứu

Khi quá trình hội nhập ngày càng phát triển, việc mở rộng đầu tư sang môi trường bên
ngoài trở thành chiến lược tất yếu của các công ty. Họ tiến hành thiết lập các công ty
con, các chi nhánh của mình nhằm mở rộng địa bàn kinh doanh, tận dụng các cơ hội
cùng các lợi thế so sánh ở từng quốc gia nơi công ty đặt trụ sở để góp phần gia tăng
lợi nhuận. Dưới sức mạnh toàn cầu hóa, yếu tố thị trường cùng với sự khác biệt trong
các chính sách đầu tư và chính sách thuế đã thúc đẩy gia tăng các giao dịch nội bộ
giữa công ty mẹ và các chi nhánh của mình. Câu hỏi khiến chúng ta băn khoăn là với
các giao dịch diễn ra trong nội bộ của một tập đoàn, nơi mà các bên cùng hướng đến
mục tiêu chung thì liệu có sự dàn xếp nào không, và các giao dịch giữa họ có hoàn
toàn giống với giao dịch với các bên độc lập mà không hề có một sự thiên vị nào
trong chiến lược hướng đến lợi ích chung ấy? Thực tế thì hiện tượng xuất hiện các

khoản lỗ bất thường trong khi nơi khác lại có lợi nhuận vượt trội trong nội bộ công ty
đa quốc gia là tín hiệu cho thấy bất thường từ những giao dịch trên. Bất kỳ sự thay đổi
chính sách từ phía chính phủ quốc gia đầu tư thì các MNC lại có những động thái
phản ứng lại, đặc biệt là thuế suất, yếu tố vốn gây tác động nhạy cảm lên lợi nhuận
của họ. Điều đó gợi cho chúng tôi ý tưởng trong vấn đề định giá giao dịch nội bộ: liệu
có mối tương quan nào giữa giá cả của các sản phẩm nhập khẩu của công ty con từ
công ty mẹ và thuế suất mà công ty đa quốc gia phải chi trả? Chúng có thực sự định
giá một cách công bằng theo quy luật cung cầu của thị trường hay không? Và giả sử
như có mối quan hệ giữa giá cả và thay đổi thuế suất thì mức độ cũng như hướng
1
9



tương quan đó như thế nào? Cùng với các bằng chứng thực nghiệm từ các nghiên cứu
trước đây mà đã được đề cập ở phần trên góp phần củng cố thêm niềm tin cho chúng
tôi tiến hành xây dựng mô hình nghiên cứu thực nghiệm về việc ấn định mức giá báo
cáo cho các giao dịch trước vấn đề lợi ích thuế mà công ty đa quốc gia đó nhận được
nếu tiến hành chuyển giá tại Việt Nam. Và đó là ý tưởng để chúng tôi thiết lập mô
hình chuyển giá với nền tảng từ nghiên cứu của Swenson 2001: sự thay đổi trong thuế
suất thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế nhập khẩu sẽ làm cho giá cả sản phẩm mà
công ty định ra thay đổi như thế nào. Trước mô hình này của Swenson, hầu hết các
nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở bằng chứng gián tiếp cho thấy những cuộc cải cách
thuế của các quốc gia thực sự có tác động đến hành vi thao túng chuyển giá. Nhưng
mô hình của Swenson đã có một bước tiến đáng kể khi ông xem xét mối quan hệ trực
tiếp sự thay đổi trong thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế nhập khẩu đối với
giá cả sản phẩm mà công ty báo cáo. Khi chạm trực tiếp đến giá cả, chúng tôi nghĩ
đây sẽ là một lợi thế cho nước ta khắc phục những hạn chế về nguồn dữ liệu so với
cách tiếp cận về thay đổi thu nhập, hay phân bổ vốn mà các nghiên cứu khác đề cập.
Tuy nhiên cũng không dễ dàng đo lường được tác động của những cuộc cải cách thuế

đến hoạt động chuyển giá của các công ty đa quốc gia tại Việt Nam bởi hoạt động
chuyển giá không chỉ bị chi phối bởi thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế quan giữa hai
quốc gia mà còn do các nhân tố vĩ mô khác như cấu trúc thị trường, chu kỳ kinh
doanh, yếu tố địa lý, văn hóa, con người mà dữ liệu có sự khác biệt. Chính hạn chế
này nên trong mô hình Swenson chỉ xem xét mối quan hệ giữa giá báo cáo hàng nhập
khẩu và thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế quan với giả định bỏ qua các yếu tố khác
ảnh hưởng đến giá.

Nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất – kinh doanh, các công ty con ở nước ngoài
thường xuyên nhập khẩu từ công ty mẹ hoặc các công ty con khác các sản phẩm trung
gian cho mục đích gia công lắp ráp hoặc tạo sản phẩm cuối cùng. Đối với các giao
dịch nội bộ như trên, một MNC có chi nhánh tại Việt Nam có thể chuyển thu nhập ra
khỏi Việt Nam về công ty mẹ của nó ở nước ngoài bằng cách tăng giá chuyển giao
báo cáo đối với mặt hàng nhập khẩu đó. Nếu như thuế suất ở Việt Nam cao hơn


20



quốc gia của công ty mẹ thì việc gia tăng giá báo cáo sẽ làm giảm đi tổng mức thanh
toán thuế quốc tế mà công ty phải chi trả do chuyển thu nhập từ nơi có thuế suất cao
đến nơi có thuế suất thấp. Tuy nhiên, bên cạnh việc hưởng lợi do sự chênh lệch thuế
suất thuế TNDN, công ty còn phải chi trả một khoản thuế quan tại Việt Nam nhiều
hơn do việc tăng giá chuyển giao báo cáo khi chuyển thu nhập về công ty mẹ. Do vậy,
lợi ích thực sự mà một công ty đa quốc gia nhận được chính là phần chênh lệch thuế
suất trừ đi khoản mất đi do chi trả thuế quan.

Thu nhập tổng thể của công ty đa quốc gia bao gồm tất cả các thu nhập tạo ra ở quốc
gia sở tại cùng với tất cả thu nhập có được từ các công ty con ở nước ngoài. Đối với

những hoạt động tại quốc gia mẹ, công ty kiếm được p
h
và kiếm được p
f
đối với các
hoạt động ở nước ngoài. Nếu công ty chọn giá chuyển giao theo nguyên tắc giá thị
trường (arm’s length standard principle) thì thu nhập thực sự của công ty cũng chính
là thu nhập chịu thuế mà dựa trên đó công ty phải nộp thuế tại quốc gia mẹ và ở nước
ngoài. Tuy nhiên, nếu công ty thao túng giá chuyển giao và chọn mức giá báo cáo P
R
có chênh lệch so với giá thị trường p thì nó sẽ làm thay đổi thu nhập chịu thuế đối với
cả hoạt động trong quốc gia mẹ và quốc tế. Cụ thể, nếu như thuế suất ở quốc gia công
ty con cao hơn thuế suất ở quốc gia mẹ thì công ty có xu hướng định giá P
R
cao hơn
so với giá thị trường p. Bên cạnh việc gia tăng giá báo cáo, công ty cũng có thể tiến
hành định thấp giá báo cáo trong trường hợp thuế suất ở nước ngoài thấp hơn thuế
suất ở quốc gia mẹ. Hơn nữa, Swenson cũng giả định rằng sẽ hợp lý nếu thu nhập của
các công ty con ở nước ngoài đủ lớn để có thể có được lợi ích thuế từ việc thao túng
chuyển giá. Do vậy việc định giá cao hay thấp giá chuyển giao báo cáo và định giá
cao hay thấp hơn bao nhiêu được tác giả chỉ ra thông qua một khái niệm gọi là biên
chuyển giá (transfer pricing margin):




















Nếu

dương cho thấy công ty mẹ đưa ra một mức giá cho các chi nhánh ở nước

ngoài cao hơn giá thị trường P đối với các sản phẩm đầu vào và biên chuyển giá còn
cho biết P
R
định giá cao hơn bao nhiêu so với p trong trường hợp thuế suất đánh vào
2
1



công ty con cao hơn thuế suất đánh vào công ty mẹ và ngược lại. Chính việc định giá
cao hay thấp của công ty đa quốc gia thông qua xem xét ảnh hưởng của thuế TNDN
và thuế quan mà nó ảnh hưởng đến thu nhập của công ty bằng nhiều cách khác nhau.
Giá chuyển giao cao hơn sẽ gia tăng thu nhập chịu thuế của công ty mẹ một khoản








và làm giảm thu nhâp chịu thuế của công ty con với một lượng tương tự.
Ngoài ra công ty còn phải chi trả một khoản là TARf*

*M cho thuế quan với TAR
f
là thuế suất nhập khẩu tại Việt Nam.

Để có thể tiến hành chuyển giá thành công, bên cạnh chi phí do chi trả thuế quan nhập
khẩu, công ty còn phải đối mặt với nhiều loại chi phí khác nhau như chi phí thiết kế,
chi phí tư vấn và đáng chú ý là chi phí phạt mà công ty phải đối mặt khi bị cơ quan
chính quyền phát hiện ra hành vi thao túng chuyển giá của mình. Và trong bài nghiên
cứu này, tác giả đưa ra hai mức phạt a
h
và a
f
lần lượt là các mức phạt mà quốc gia mẹ
và nước ngoài áp dụng đối với các công ty thao túng chuyển giá. Ông còn giả định
thêm rằng các mức phạt này sẽ gia tăng tuyến tính với khối lượng nhập khẩu nội bộ và
mức độ chênh lệch trong giá báo cáo.
Điều quan trọng để xác đinh mức giá báo cáo P
R
là công ty đa quốc gia phải chọn
được biên giá chuyển giao

– tức xác định mức chênh lệch trong giá báo cáo và giá

thị trường sao cho tối đa hóa thu nhập tổng thể E của công ty với các chi phí phải trả
do hành vi chuyển giá là thấp nhất; thu nhập tổng thể bao gồm giá trị thu nhập sau
thuế của công ty mẹ và giá trị thu nhập sau thuế của công ty con.







(

)




Cụm đầu tiên trong [ ] đại diện cho lợi nhuận báo cáo ở công ty mẹ, tất cả các yếu tố
này phụ thuộc vào thuế suất của quốc gia công ty mẹ τ
h
, trong khi cụm thứ hai đại
diện cho lợi nhuận báo cáo ở nước ngoài. Thuế suất đánh trên lợi nhuận công ty con τ
a
phụ thuộc vào hình thức đánh thuế ở quốc gia mẹ, và có khả năng phụ thuộc vào thuế
suất thuế thu nhập doanh nghiệp tương đối áp dụng trong và ngoài nước.

×