Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Giới thiệu hệ thống phát hiện-cảnh báo cháy và phun nước cứu hỏa tự động pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.07 KB, 42 trang )

Giới thiệu hệ thống phát hiện-cảnh báo cháy và phun nước
cứu hỏa tự động
Nick Artim, Giám đ
ốc phụ trách mạng lưới chống hoả hoạn, Middlebury
Vermont
Tóm lược
Công tác quản lý các tài sản văn hoá cũng bao gồm nhiệm vụ bảo vệ và gìn giữ
các toà nhà của tổ chức, các bộ sưu tập, các thiết bị vật chất và những người
hoạt động trong tổ chức đó. Do vậy, cần có sự quan tâm thường xuyên để giảm
thiểu những tác động tiêu cực của các yếu tố khí hậu, ô nhiễm, trộm cắp, phá
hoại, côn trùng, ẩm mốc và hoả hoạn.
Trong các yếu tố trên, hoả hoạn được coi là mối đe doạ nguy hiểm hơn cả do
tốc độ và tính tàn phá khủng khiếp của nó. Các vật thể nếu bị con người hoặc
môi trường tàn phá thì còn có thể khôi phục được. Các vật thể bị lấy cắp có thể
được phát hiện thu hồi. Còn những vật thể bị lửa huỷ hoại sẽ vĩnh viễn mất đi.
N
ếu không được kiểm soát một đám cháycó thể tàn phá tất cả các vật thể trong
một căn phòng chỉ trong vài phút và thiêu rụi một toà nhà chỉ trong vài giờ.
Bước đầu tiên để ngăn ngừa hoả hoạn là xác định kịp thời vụ cháy, báo động
cho các nhân viên làm việc trong toà nhà và sau đó báo cho các bộ phận cứu
hoả chuyên nghiệp.
Đây thường là chức năng của hệ thống phát hiện và cảnh báo cháy. Có nhiều
loại hệ thống với những hình thức khác nhau để lựa chọn tuỳ thuộc vào những
đặc diểm cụ thể của khu vực cần bảo vệ.
Các chuyên gia trong lĩnh vực phòng chống hoả hoạn đều thống nhất về cơ bản
rằng một hệ thống vòi phun nước cứu hoả tự động có tác dụng lớn đối với một
chương trình kiểm soát hoả hoạn. Nếu được thiết kế, lắp đặt và duy trì một cách
phù hợp thì những hệ thống này sẽ giúp giảm bớt những nguy cơ trong công tác
quản lý rủi ro, xây dựng nhà và ứng phó với các trường hợp khẩn cấp. Chúng
còn giúp tăng cường tính linh động trong việc thiết kế toà nhà và tăng mức độ
an toàn với hoả hoạn nói chung.


Sau đây là những chi tiết về các hệ thống phát hiện và cảnh báo cháy cũng như
hệ thống vòi phun nưóc cứu hoả tự động bao gồm các thiết bị kèm theo, cách
hoạt động và phần giải đáp những thắc mắc chung.
1. Sự hình thành đám cháy
Trước khi tìm hiểu về hệ thống phát hiện hoả hoạn và vòi phun nư
ớc tự động, ta
cần phải nắm được những kiến thức cơ bản về sự hình thành và diễn biến của
một đám cháy.Với những thông tin này ta sẽ nhận thức rõ hơn về vai trò và
phương thức hoạt động của các hệ thống an toàn hoả hoạn:
Về cơ bản, cháy là phản ứng hoá học trong đó 1 chất gốc carbon (ví dụ như
nhiên liệu) tiếp xúc với oxi (thường có trong không khí), được làm nóng tới
điểm chúng sẽ tạo ra những khí dễ cháy. Những khí này sau đó s
ẽ tiếp xúc với 1
chất nào đó có nhiệt độ cao đủ nóng để bùng phát thành lửa, tạo thành ph
ản ứng
cháy. Nói 1 cách đơn giản là nếu 1 chất dễ cháy tiếp xúc với 1 vật có nhiệt độ
cao thì sẽ gây ra cháy.
Các thư viện, phòng lưu trữ, bảo tàng, các công trình có giá trị lịch sử thư
ờng có
vô số những vật thể được coi là nhiên liệu như sách, các bản chép tay, băng ghi
âm, đồ tạo tác, các vật trang trí dễ cháy, tủ, đồ đạc và các hoá chất trong phòng
thí nghiệm. Cần ghi nhớ rằng bất cứ vật thể nào có thành phần cấu tạo từ gỗ,
nhựa, giấy, vải sợi hoặc các chất lỏng dễ bắt lửa đều là những nhiên liệu tiềm
tàng. Chúng cũng chứa các nguồn phát sinh ra lửa, bao gồm bất kì vật thể, hành
động hay quá trình tạo nên sức nóng. Các yếu tố này là đèn điện, các hệ thống
điện, các thiết bị sưởi và điều hoà không khí, các hoạt động duy tu và b
ảo tồn có
tạo ra hơi nóng và các thiết bị điện trong văn phòng. Các hoạt động như hàn, c
ắt
cũng là những nguồn có thể làm phát sinh ra lửa.Ngoài ra, thật không may là

hành động cố ý gây hoả hoạn cũng là 1 trong những nguyên nhân phổ biến nhất
phá hoại các tài sản văn hoá, và nó cũng cần phải được xem xét trong kế hoạch
phòng chống hoả hoạn.
Khi nguồn đánh lửa tiếp xúc với nhiên liệu thì sẽ tạo ra ngọn lửa và 1 đám cháy
do nguyên nhân khách quan sẽ bắt đầu với tốc độ chậm, âm ỉ trong thời gian từ
một và phút đến vài giờ. Giai đoạn khởi phát này phụ thuộc vào r
ất nhiều yếu tố
như cấu tạo vật chất của loại nhiên liệu và lượng oxi. Trong quá trình này, nhiệt
độ sẽ tăng dần lên, tạo thành ngọn lửa và do đó giảm bớt lượng khói. Mùi khói
đặc trưng là dấu hiệu đầu tiên báo hiệu giai đoạn đầu của đám cháy. Và ở giai
đoạn này, việc phát hiện sớm (do người hay thiết bị tự động) và tiếp sau đó là s

phản ứng kịp thời với các thiết bị khẩn cấp dành cho hoả hoạn có thể giúp kiểm
soát được đám cháy trước khi có những thiệt hại đáng kể.
Khi đám cháy đ
ạt đến giai đoạn cuối của thời kỳ khởi phát sẽ có đủ sức nóng để
tạo thành những ngọn lửa rõ rệt. Một khi những ngọn lửa xuất hiện thì đám
cháy sẽ chuyển từ 1 tình huống tương đối nhỏ thành 1 sự kiện nghiêm trọng do
ngon lửa lan nhanh và sức nóng tăng mạnh. Nhiệt độ có thể lên tới mức tối đa l
à
1000C (1800F) chỉ trong vài phút đầu. Chúng có thể làm b
ốc cháy những đồ vật
dễ bắt lửa và đe doạ tức thì sinh mạng cuả nhiều người trong căn phòng. Trong
vòng từ 3-5 phút, trần nhà sẽ đóng vai trò như thiết bị hướng nhiệt trong lò
nướng, làm nhiệt độ tăng cao đến giai đoạn “bùng cháy”, làm bốc lửa hầu như
cùng lúc tất cả các vật có thể cháy được trong căn phòng. Lúc này, hầu hết các
vật trong phòng đều bị huỷ hoại và con người không còn khả năng sống sót.
Khói với khối lượng vài nghìn m3/phút bốc cao, che phủ tầm nhìn và gây ảnh
hưởng đến các vật thể nằm ngoài đám cháy.
N

ếu khu vực nơi xảy ra đám cháy được xây dựng kiên cố thì sức nóng và lửa sẽ
thiêu huỷ tất cả các vật thể dễ cháy còn lại và sau đó tự tàn lụi. Tuy nhiên, nếu
khả năng chống chịu hoả hoạn của tường hay trần yếu (ví dụ như c
ửa mở những
sai phạm trong xây dựng tường trần, toà nhà có nhiều chất dễ cháy) thì đám
cháy có thể lan đến các khu vực lân cận và quá trình trên lại bắt đầu. Nếu như
đám cháy vẫn không được kiểm soát thì cuối cùng nó sẽ thiêu rụi toàn bộ toà
nhà và các vật thể bên trong.
Việc dập tắt thành công đám cháy phụ thuộc vào việc dập tắt những ngọn lửa
trước khi, hoặc ngay khi ngọn lửa bùng phát. Nếu không, thiệt hại sẽ rất nghi
êm
trọng và khó có thể phục hồi. Trong giai đoạn khởi phát của đám cháy, 1 người
được huấn luyện tốt có thể dùng các thiết bị dập lửa cầm tay có tác dụng như
bước hữu hiệu đầu tiên.
Tuy nhiên, nếu bước này không được thực hiện hoặc ngon lửa lan quá nhanh th
ì
các thiết bị này sẽ tỏ ra bất lực ngay trong phút đầu tiên. Ta phải cần đến các
phương pháp dập lửa nhanh hơn như vòi cứu hoả trong toà nhà hoặc các hệ
thống cứu hoả tự động.
Một đám cháy sẽ không chỉ gây thiệt hại cho các toà nhà, các vật thể bên trong
toà nhà cũng như hoạt động của tổ chức đó. Các hậu quả nói chung có thể xảy
ra là:
+ Các bộ sưu tập bị huỷ hoại: Hầu hết các viện bảo tồn di sản đều lưu giữ các
vật thể độc nhất vô nhị và không thể thay thế được. Đám cháy sẽ tạo sức nóng
và khói gây ảnh hưởng nghiêm trọng hoặc huỷ hoại hoàn toàn những vật thể đó
mà không thể khôi phục được.
+ Gây ảnh hưởng đến những hoạt động và nhiệm vụ của tổ chức: Các tổ chức
này thường có những thiết bị cho giáo dục, các phòng thí nghiệm về bảo tồn,
các dịch vụ về thư mục, các văn phòng dành cho nhân viên quản lý và phục vụ,
các dịch vụ ăn uống, bán lẻ và hàng loạt các hoạt động khác. Một đám cháy sẽ

làm chúng ngưng trệ và gây ảnh hưởng tiêu cực đến các nhiệm vụ của một tổ
chức cũng như khách hàng của nó.
+ Huỷ hoại về cơ sở hạ tầng: các toà nhà là nơi mà các bộ sưu tập được bảo vệ,
nơi diễn ra các hoạt động và nơi các nhân viên làm việc mà không bị ảnh hư
ởng
của các yếu tố về thời tiết, ô nhiễm, phá hoại cũng như hàng loạt các yẻu tố môi
trường khác. Một đám cháy có thể phá huỷ các bức tường, sàn nhà, các kết cấu,
trần/ mái nhà cũng như các hệ thống chiếu sáng, điều chỉnh nhiệt độ và độ ẩm,
cung cấp điện gây hư hại đến các vật thể bên trong toà nhà và làm phát sinh
các chi phí lớn.
+ Gây thiệt hại về mặt tri thức: sách vở, các bản chép tay, phim ảnh, băng ghi
âm và các tài liệu được sưu tập khác chứa đựng khối lượng thông tin khổng lồ
mà đám cháy có thể thiêu huỷ.
+ Gây thương tích hay ảnh hưởng đến tính mạng con người: đe doạ mạng sống
của các nhân viên và khách tham quan.
+ ảnh hưỏng xấu đến các mối quan hệ cộng đồng: Các nhân viên và khách tham
quan tin tưởng và những điều kiện an toàn của các toà nhà bảo tàng. Những
người trao tặng hoặc cho mượn các bộ sưu tập thường mong rằng chúng được
bảo vệ cẩn then. Một đám cháy lớn sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến l
òng tin
của công chúng và gây hậu quả nặng nề với quan hệ cộng đồng của tổ chức.
+ An ninh của toà nhà: hoả hoạn là mối đe doạ an ninh lớn nhất. Trong cùng
một khoảng thời gian, một vụ hoả hoạn do nguyên nhân khách quan hay chủ
quan có thể gây huỷ hoại cho các bộ sưu tập nhiều hơn bất cứ vụ trộm cắp nào.
Lượng khói và các loại khí độc hại lớn có thể gây lộn xộn và hoảng loạn, là cơ
hội tốt cho việc đột nhập bất hợp pháp và trộm cắp. Do đó, cần thiết phải có
những hoạt động cứu hoả không hạn chế trong chương trình b
ảo vệ an ninh. Các
v
ụ cố ý gây hoả hoạn nhằm che giấu tội ác cũng khá phổ biến. Nhằm giảm thiểu

nguy cơ và hậu quả của nó, các viên bảo tồn nên thiết lập và thực hiện các
chương trình phòng chống hoả hoạn toàn diện, bao gồm các nỗ lục phòng ch
ống
cháy, cải thiện kết cấu xây dựng của toà nhà, các phương pháp phát hiện một
đám cháy ở giai đoạn đầu và cảnh báo cho những nhân viên chiệu trách nhiệm
về các trường hợp khẩn cấp và các phương tiện để dập tắt đám cháy một cách
hiệu quả. Mỗi yếu tố này có vai trò quan trọng để thực hiện thành công mục ti
êu
an toàn hoả hoạn của tổ chức. Nhà quản lý cần chỉ ra những mục tiêu cần phải
được bảo vệ nếu xảy ra cháy và lập ra một chương trình để thực hiện yêu cầu
đó. Bởi vậy, câu hỏi cơ bản dành cho nhà quản lí tài sản là: “Tổ chức có thể
chịu được đám cháy lớn tối đa và thiệt hại tối đa là bao nhiêu?”. Trả lời được
câu hỏi này thì chương trình bảo vệ mục tiêu sẽ được xác lập.
2. Các hệ thống phát hiện và cảnh báo cháy
2.1. Giới thiệu
Vai trò một chương trình chống hoả hoạn là xác định kịp thời đám cháy và c
ảnh
báo cho các nhân viên trong toà nhà và cho các tổ chức cứu hoả. Đó là chức
năng của các hệ thống phát hiện và cảnh báo cháy. Tuỳ thuộc tình huống hoả
hoạn, kiến trúc nhà, loại hình và số lượng nhân viên, t
ầm quan trọng của các vật
thể lưu trữ và nhiệm vụ của của tổ chức mà các hệ thống này có thể thực hiện
các chức năng khác nhau. Trước hết, chúng cung cấp 1 phương tiện xác định
đám cháy bằng phương pháp thủ công hoặc phương pháp t
ự động.Sau đó, chúng
cảnh báo cho mọi người trong toà nhà về tình trạng đám cháy và yêu cầu mọi
người di tản khỏi toà nhà. Một chức năng phổ biến khác trong hệ thống là
truyền tín hiệu báo cháy tới phòng bảo vệ hoặc các tổ chức phản ứng nhanh
khác. Chúng cũng có thể đóng các thiết bị điện, thông gió và dừng các hoạt
động đặc biệt khác hoặc khởi động các thiết bị dập lửa tự động.

Phần này sẽ dành để mô tả các khía cạnh cơ bản của các hệ thống phát hiện và
cảnh báo cháy.
2.2. Bảng kiểm soát
Bảng kiểm soát là “bộ não” của hệ thống phát hiện và báo cháy. Nó chịu trách
nhiệm giám sát nhiều thiết bị cảnh báo “đầu vào”, ví dụ như các thiết bị phát
hiện cháy hoạt động thủ công hay tự động, sau đó khởi động các thiết bị cảnh
báo “đầu ra” như còi, chuông, đèn báo, quay số điện thoại khẩn cấp và các thiết
bị kiểm soát toà nhà. Các bảng kiểm soát rất đa dạng, từ đơn giản (thiết bị đầu
vào và 1 thiết bị đầu ra) đến phức tạp (các thiết bị điều khiển bằng vi tính kiểm
soát một vài toà nhà trong cùng một khu vực). Có 2 loại bảng kiểm soát cơ bản
như sau:
- Các hệ thống phát hiện và cảnh báo cháy kiểu “truyền thống”: là phương pháp
được sử dụng từ rất lâu. Trong hệ thống này, 1 hay nhiều hệ thống mạch được
thiết kế chạy trong toà nhà hoặc khu vực bảo vệ. Mỗi mạch điện có 1 hoặc
nhiều thiết bị phát hiện hoả hoạn. Việc lựa chọn và lắp đặt các thiết bị này phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như yêu cầu cảnh báo thủ công hay tự động, điều kiện
nhiệt độ và môi trường xung quanh, dạng hoả hoạn có thể xảy ra và tốc độ phản
ứng mong muốn. Do vậy, một hoặc nhiều thiết bị này thường được đặt dọc theo
mạch điện tuỳ thuộc vào những nhu cầu và mối quan tâm khác nhau.
Khi hoả hoạn xảy ra, một hoặc nhiều thiết bị sẽ hoạt động, làm đóng m
ạch điện.
Bảng kiểm soát chuyển sang chế độ khẩn cấp, kích hoạt một hoặc nhiều mạch
điện báo cháy để rung chuông báo cháy. Bảng kiểm soát này có thể gửi tín hiệu
cháy tới 1 bảng kiểm soát khác để tình trạng này có thể được giám sát từ xa.
Trong dạng hệ thống này, mọi phát hiện và cảnh báo cháy do thiết bị phần cứng
điều khiển. Thiết bị này bao gồm nhiều mạch dây, cầu chì đóng mở và vô số
điốt. Do cách bố trí này, các hệ thống thực sự điều khiển và giám sát các đoạn
mạch của toàn hệ thống chứ không phải từng thiết bị riêng lẻ.
Để giải thích rõ hơn, ta lấy ví dụ 1 hệ thống báo cháy của 1 toà nhà gồm có 5
mạch dây đánh số từ A đến E, mỗi mạch có 10 thiết bị phát hiện khói và 2 hộp

vận hành bằng tay đặt ở nhiều phòng ở mỗi khu vực (A-E ). Nếu đám cháy xuất
hiện ở một trong những phòng thuộc khu vực A, máy phát hiện khói sẽ báo
hiệu. Bảng kiểm soát cháy sẽ thông báo có đám cháy ở đoạn mạch (khu vực) A.
Nhưng nó không ch
ỉ rõ loại máy nào phát hiện hoặc ở vị trí cụ thể nào trong
khu vực. Bộ phận nhân viên bảo vệ sẽ phải kiểm tra toàn bộ khu vực để xác
định thiết bị nào đang báo cháy. Nếu mỗi khu vực có nhiều phòng, hoặc có
nhiều vùng cấm thì sẽ tốn nhiều thời gian và cơ h
ội quý giá kịp thời dập tắt đám
cháy có thể bị bỏ lỡ.
Ưu điểm của những hệ thống này là chúng tương đối đơn giản, phù hợp với các
toà nhà nhỏ và vừa. Nhân viên giám sát không cần phải được đào tạo quá
chuyên sâu.
Hạn chế của nó là đối với những toà nhà lớn, việc lắp đặt sẽ rất tốn kém vì cần
nhiều mạch điện để kiểm soát chính xác các thiết bị báo động.
Các hệ thống này cũng đòi hỏi nhiều nhân lực, chi phí duy trì h
ệ thống cao. Mỗi
thiết bị báo động cần phải được thay thế, lau chùi và kiểm tra định kỳ để tránh
hỏng hóc. Với hệ thống loại này không có cách nào xác định chính xác thiết bị
nào đang cần bảo dưỡng. Do vậy, ta phải tháo và bảo dưỡng từng chiếc một. Vì
thế nó rất tốn thời gian, nhân lực và đòi hỏi nhiều cố gắng. Khi một sai sót xảy
ra, báo động chỉ chứng tỏ là đoạn mạch có vấn đề chứ không chỉ ra cụ thể nơi
nảy sinh vấn đề. Hậu quả là kỹ thuật viên phải kiểm tra lại toàn bộ đoạn mạch
để xác định sai hỏng.
- Các hệ thống “thông minh”: là sản phẩm của công nghệ phát hiện và cảnh báo
cháy hiện đại. Khác với phương pháp báo động truyền thống, những hệ thống
này kiểm soát từng thiết bị báo cháy qua các bộ vi xử lý và ph
ần mềm hệ thống.
Thực ra, mỗi hệ thống báo cháy thông minh là một máy vi tính nhỏ giám sát và
điều khiển một tập hợp các thiết bị đầu vào và đầu ra.

Cũng giống như hệ thống truyền thống, hệ thống thông minh gồm có một hoặc
nhiều đoạn mạch chạy xung quanh toà nhà hoặc khu vực. Một hoặc nhiều thiết
bị báo động cũng được đặt dọc theo những đoạn mạch này. Điểm khác biệt chủ
y
ếu giữa 2 hệ thống là ở cách mà mỗi thiết bị này được kiểm soát. Với hệ thống
thông minh, mỗi thiết bị báo động (thiết bị phát hiện tự động, hộp điều khiển
bằng tay, công tắc vòi phun nư
ớc v.v…) đều có một “địa chỉ” cụ thể. Những địa
chỉ này được lập trình từng cái một trong bộ nhớ của bảng kiểm soát với những
thông tin như loại thiết bị, vị trí và chi tiết về cách hoạt động của chúng.
Bộ vi xử lý của Bảng kiểm soát gửi tín hiệu liên lạc thường xuyên đ
ến mỗi đoạn
mạch. Bằng cách này, nó liên hệ đến từng thiết bị báo động để xác định được
trạng thái của chúng (bình thường hay khẩn cấp ). Quá trình giám sát này được
thực hiện liên tục với tốc độ cao, cứ 5-10 giây lại cho thông tin cập nhập của hệ
thống.
Hệ thống này cũng giám sát điều kiện hoạt động của mỗi đoạn mạch, xác định
bất cứ lỗi mạch nào có thể xảy ra. ưu việt của các hệ thống này là khả năng xác
định chính xác vị trí xảy ra lỗi mạch. Vì vậy, thay vì ch
ỉ thông báo có lỗi ở đoạn
mạch, chúng chỉ ra được vị trí sai hỏng, giúp xác định nhanh vấn đề, sửa chữa
nhanh để trở về trạng thái hoạt động bình thường.
Nh
ững ưu điểm của hệ thống báo cháy thông minh là tính ổn định, dễ bảo
dưỡng và nâng cấp. Tính ổn định được bảo đảm bằng các phần mềm hệ thống.
N
ếu một thiết bị báo động phát hiện một dấu hiệu cháy nào đó, thì trước hết
bảng kiểm soát sẽ tự thay đổi chế độ thật nhanh. Với các dấu hiệu giả như sâu
bọ, bụi hay gió thì nó sẽ tự điều chỉnh trong quá trình khởi động lại, nhờ đó
giảm thiểu khả năng báo động nhầm. Nếu như đó là dấu hiệu cháy (ví dụ khói)

thì thiết bị báo động sẽ chuyển ngay chế độ chuông báo sau khi tự khởi động.
Bảng điều khiển sẽ nhận định đây là hoả hoạn và bật chế độ báo động.
N
ếu được bảo dưỡng tốt thì các hệ thống loại này có nhiều ưu điểm vượt trội
hơn so với hệ thống truyền thống. Trước hết, chúng có khả năng giám sát trạng
thái của từng thiết bị cảm ứng. Nếu thiết bị này bị bẩn thì bộ vi xử lý sẽ phát
hiện tình trạng xuống cấp đó và đưa ra yêu cầu bảo dưỡng. Đặc điểm này còn
được gọi là khả năng kiểm tra độ cảm ứng của các thiết bị liên kết, cho phép bộ
phận nhân viên nhận biết và bảo dưỡng các thiết bị cảm ứng cần sửa chữa chứ
không phải mất nhiều thời gian và công sức để làm sạch toàn bộ các thiết bị.
Các hệ thống cao cấp như FCI 72000 có thêm đặc tính tự cân bằng. Phần mềm
hệ thống sẽ điều chỉnh độ cảm ứng để cân bằng với điều kiện môi trường có
lượng bụi thấp. Nó giúp tránh được tình trạng thiết bị cảm ứng bị quá tải khi bị
bụi che phủ phần “mắt đọc” của thiết bị. Khi nó đạt đến ngưỡng không thể tự
điều chỉnh nữa thì Bảng kiểm soát sẽ báo cho nhân viên bảo dưỡng.
Thay đổi các hệ thống này (ví dụ như thêm hay bỏ bớt 1 thiết bị cảm ứng) là
việc kết nối hoặc tháo bỏ thiết bị tương ứng khỏi mạch điện, đồng nghĩa với
việc thay đổi khu vực bộ nhớ tương ứng. Việc thay đổi bộ nhớ có thể được thực
hiện ở bảng kiểm soát hoặc trên máy tính cá nhân bằng những thông tin đư
ợc tải
xuống chứa trong bộ vi xử lý của bảng kiểm soát.
Như
ợc điểm cơ bản của hệ thống này là mỗi hệ thống có những đặc điểm hoạt
động riêng. Do đó, nhân viên kỹ thuật phải được đào tạo kỹ lưỡng về hệ thống
đó. Khoá đào tạo thường kéo dài 3-4 ngày tại cơ sở của nhà cung cấp hệ thống.
Các khoá đào tạo định kỳ cũng rất cần thiết để cập nhật với các phương pháp
mới.
2.3. Các thiết bị báo cháy
N
ếu như có mặt tại toà nhà, con người có khả năng phát hiện cháy tuyệt vời.

Một người khoẻ mạnh có thể cảm thấy nhiều dấu hiệu hoả hoạn như sức nóng,
ngọn lửa, khói và mùi. Do vậy, hầu hết các hệ thống báo cháy được thiết kế với
một hay nhiều thiết bị kích hoạt bằng tay để người phát hiện đám cháy sử dụng.
Nhưng không may là c
on người không phải là một biện pháp phát hiện hoả
hoạn đáng tin cậy vì họ có thể không có mặt tại thời điểm xảy ra đám cháy,
hoặc là họ không báo động một cách có hiệu quả hay họ không hoàn toàn khỏe
mạnh để nhận biết những dấu hiệu của đám cháy. Đó cũng chính là nguyên
nhân các thiết bị báo cháy tự động được chế tạo. Các thiết bị tự động nếu được
lựa chọn và lắp đặt phù hợp sẽ là nguồn cảnh báo hoả hoạn có độ tin cậy cao.
-Thiết bị báo cháy điều khiển bằng tay: là thiết bị dựa trên phương pháp phát
hiện hoả hoạn lâu đời nhất. Nói một cách đơn giản, một người hét to lên cũng l
à
một cách cảnh báo cháy. Nhưng âm thanh đó không phải lúc nào cũng được
truyền đi khắp toà nhà. Vì vậy, các hộp chuông báo cháy vận hành bằng tay
được lắp đặt. Nguyên lý thiết kế chung của chúng là đặt các hộp này trong tầm
tay với, dọc theo các lối thoát hiểm. Do đó mà ta thư
ờng thấy chúng gần các cửa
ra của các phòng lớn và các hành lang.
Ưu điểm của các thiết bị này là chúng trao cho những người trong toà nhà một
phương tiện cụ thể, luôn trong trạng thái sẵn sàng để khởi động hệ thống
chuông báo cháy của toà nhà. Hệ thống này có thể thay thế cho tiếng hét của
con người. Chúng chỉ là những thiết bị đơn giản, có độ tin cậy cao trong trường
hợp có người trong toà nhà. Tuy nhiên, nhược điểm chính của chúng là chúng
sẽ không hoạt động nếu như trong nhà không có người. Ngoài ra, chúng có thể
bị sử dụng để báo động giả với ý đồ xấu. Tuy vậy, chúng vẫn là một bộ phận
quan trọng trong bất kỳ hệ thống báo động hoả hoạn nào.
- Các thiết bị cảm ứng nhiệt: là thiết bị báo cháy tự động cổ nhất, xuất hiện từ
những năm 1850, và hiện nay một vài mẫu vẫn còn được sản xuất. Các thiết bị
phổ biến nhất vẫn là các thiết bị đo lường nhiệt độ, hoạt động khi nhiệt độ căn

phòng tăng đến nhiệt độ đã định trước (thường là 135-165 độ F hay 57-74 độ
C). Sau đó là loại thiết bị cảm ứng tỷ lệ tăng của nhiệt độ. Thiết bị này nh
ận biết
bất cứ sự tăng nhanh không bình thường nào của nhiệt độ trong một thời gian
ngắn. Hai loại thiết bị trên đều được cố định tại các điểm xác định trên tường
hoặc trần nhà. Loại thiết bị thứ ba là loại cảm ứng theo đường giới hạn nhiệt độ
nhất định. Nó gồm 2 dây dẫn và một dây cách điện. Dây cách điện này được
thiết kế tự động ngắt khi nhiệt độ tăng. ưu điểm của nó là m
ức độ cảm ứng nhiệt
độ cao mà chi phí lại thấp.
Các thiết bị cảm ứng nhiệt có độ tin cậy cao và rất bền với điều kiện môi trư
ờng
bình thường. Chúng cũng rất dễ bảo dưỡng và có chi phí bảo dưỡng thấp. Hạn
chế của chúng là chúng chỉ hoạt động khi nhiệt độ căn phòng đạt đến một mức
nhất định, mà vào thời điểm đó đám cháy có thể đang lan nhanh và gây thiệt
hại. Do đó, thiết bị này thường không được phép dùng trong các ứng dụng bảo
vệ an toàn sinh mạng con người. Ngoài ra, nó cũng không được dùng ở những
nơi đòi hỏi phải xác định được đám cháy trước khi đám cháy lớn xảy ra, ví dụ
như ở những nơi lưu giữ những vật thể có giá trị cao nhưng dễ bị hư hại với
nhiệt độ cao.
- Các thiết bị phát hiện khói: được sản xuất trên công nghệ mới và đư
ợc sử dụng
rộng rãi vào những năm 70 và 80 cho các ứng dụng phục vụ gia đình và bảo vệ
sinh mạng con người. Đúng như tên gọi của nó, các thiết bị này được thiết kế
bắt chước khứu giác con người nhằm phát hiện ra đám cháy ngay ở giai đoạn
đầu. Loại phổ biến nhất là loại được cố định trên trần hoặc tường nhà như các
thiết bị cảm ứng nhiệt. Chúng hoạt động dựa trên nguyên tắc ion hoá hoặc
nguyên tắc quang điện, tuỳ theo từng loại ứng dụng, mỗi nguyên tắc này thể
hiện những ưu điểm vượt trội riêng. Với các không gian rộng như ở các phòng
triển lãm hay sảnh lớn, loại thường được sử dụng là đèn chiếu tia. Thiết bị này

gồm 2 bộ phận, 1 đèn chiếu tia và một máy thu. Chúng được treo cách xa nhau
(khoảng 300 ft hay 100 m). Khi khói xuất hiện trong khoảng cách này, tia chiếu
sẽ bị cản trở và máy thu không nhận được đủ tia sáng. Điều này được coi là dấu
hiệu cháy và tín hiệu báo động sẽ được truyền đến bảng điều khiển.
Loại thiết bị báo cháy thứ ba là hệ thống hút khí, hiện đang được sử dụng rộng
rãi trong các khu vực đặc biệt nhạy cảm. Thiết bị này có 2 phần chính: 1 bộ
phận điều khiển có khoang dò, 1 quạt gió và 1 mạch điều khiển; và 1 hệ thống
ống dẫn. Trên những ống này có nhiều “cổng” để không khí có thể đi vào các
ống dẫn và được truyền đến máy dò. Trong điều kiện bình thường, máy dò đều
đặn chuyển 1 mẫu khí vào khoang dò qua hệ thống ống. Mẫu này sẽ được phân
tích xem có khói hay không, rồi lại được truyền trả vào trong không khí. Nếu
phát hiện khói trong mẫu thử, nó sẽ chuyển tín hiệu báo động tới bảng điều
khiển chính. Loại thiết bị này đặc biệt nhậy cảm, và hiện
nay nó là phương pháp
báo cháy tự động nhanh nhất. Nhiều công ty công nghệ cao như các công ty
truyền thông đã chuẩn hoá các hệ thống hút khí này. Để bảo vệ các tài sản văn
hoá, người ta dùng chúng ở những khu vực lưu giữ các bộ sưu tập, ở các phòng
có giá trị lớn. Ngoài ra, chúng còn thường được dùng ở những khu vực đòi hỏi
tính thẩm mỹ cao vì những bộ phận của chúng dễ ẩn đi hơn so với các phương
pháp khác.
Ưu điểm vượt trội của các thiết bị phát hiện khói là chúng có khả năng xác định
đám cháy ngay khi chúng mới hình thành. Do vậy, chúng tạo cơ hội cho các
nhân viên bảo vệ kịp thời phản ứng và kiểm soát đám cháy trước khi xảy ra tổn
thất nặng nề. Chúng cũng là phương pháp được ưa chuộng cho mục đích bảo vệ
an toàn sinh mạng con người và những vật thể có giá tr
ị lớn. Hạn chế của chúng
là chi phí lắp đặt cao so với các thiết bị cảm ứng nhiệt và dễ bị báo động nhầm.
Tuy nhiên, nếu được lựa chọn và thiết kế phù hợp, chúng vẫn có thể là những
thiết bị đáng tin cậy với khả năng báo động nhầm rất thấp.
- Các thiết bị phát hiện ngọn lửa: Đây là phương pháp thứ ba trong các phương

pháp phát hiện cháy tự động, được thiết kế phỏng theo thị giác của con người.
Chúng hoạt động nguyên lý tia hồng ngoại, tử ngoại hoặc kết hợp cả hai nguy
ên
lý này. Nếu nguồn bức xạ có nhiệt độ từ 4.000 đến 7.700 Angstrom xuất hiện,
thiết bị cảm ứng sẽ coi đây là dấu hiệu cháy và gửi tín hiệu báo động đến bảng
điều khiển.
Thiết bị này có ưu điểm là cực kỳ chính xác trong môi trường khắc nghiệt.
Chúng thường được sử dụng trong các ứng dụng vận tải và năng lư
ợng có giá trị
lớn do các loại thiết bị khác rất dễ báo động nhầm. Những nơi sử dụng phổ biến
khác là ở nơi bảo dưỡng máy bay, các trạm bảo dưỡng di động, trong các nhà
máy lọc hoá, các phòng nạp nhiên liệu và hầm mỏ. Tuy nhiên, hạn chế của
chúng là việc bảo dưỡng rất đắt và tốn nhân lực. Các thiết bị này phải được đặt
đối diện với các nguồn có thể gây cháy trong khi các thiết bị cảm ứng nhiệt và
thiết bị báo khói có thể nhận ra các dấu hiệu di chuyển của đám cháy. Do vậy,
việc sử dụng các thiết bị này để bảo vệ tài sản văn hoá là giới hạn.
2.4. Các thiết bị “đầu ra” (các thiết bị báo cháy)
Khi nhận được tín hiệu báo cháy, bảng kiểm soát phải thông báo cho con người
biết rằng đang có tình trạng khẩn cấp. Và đây là chức năng chính của bộ phận
đầu ra trong một hệ thống. Có nhiều loại thiết bị báo động bằng hình và âm
thanh và chúng chính là các thiết bị báo động đầu ra. Trong đó, chuông báo
động là thiết bị báo động bằng âm thanh phổ biến và quen thuộc nhất, phù hợp
với hầu hết các toà nhà. Còi báo động cũng có thể được lựa chọn nhưng nó hay
được dùng ở những khu vực cần âm thanh báo động lớn như kho sách thư viện,
hoặc là ở những toà nhà đòi hỏi cao về mặt thẩm mỹ nên thiết bị báo động cần
phải được che khuất một phần. Các đoạn nhạc được dùng ở những nơi cần âm
thanh nhẹ nhàng như ở các cơ sở y tế hay nhà hát. Loại thứ tư là âm báo động
do người đọc, đây là những đoạn tin được ghi âm và lặp đi lặp lại. Nó rất phù
hợp với các toà nhà lớn, nhiều tầng, cần sơ tán từng khu vực khi có hoả hoạn và
nó góp phần làm tăng tính hiệu quả của những thông báo khẩn cấp nơi công

cộng. Bên cạnh các thiết bị báo động bằng âm thanh, có nhiều loại thiết bị báo
động bằng hình như các loại đèn báo chớp tắt. Loại thiết bị này được dùng
ở các
khu vực quá ồn ào đến nỗi người ta khó có thể nghe được âm thanh báo động
hoặc ở những nơi có người khiếm thính. Những đạo luật như Đạo luật về Ngư
ời
tàn tật Mỹ (ADA) quy định phải lắp đặt thiết bị báo động bằng hình ở nhiều địa
điểm như bảo tàng, thư viện hoặc địa danh lịch sử.
Một chức năng quan trọng nữa của thiết bị đầu ra là chức năng yêu cầu trợ giúp
khẩn cấp. Thường là nó sẽ truyền tín hiệu radio hay tín hiệu điện thoại tự động
đến trung tâm giám sát của nhân viên bảo vệ. Nhận được báo động đó, trung
tâm này sẽ liên hệ với trạm cứu hoả và thông báo cho họ về khu vực xảy ra
cháy. Trong nhiều trường hợp, trung tâm giám sát có thể là đồn cảnh sát, trạm
cứu hoả hoặc trung tâm 911. Ngoài ra, nó cũng có thể là 1 tổ chức giám sát tư
nhân có hợp đồng với tổ chức đó. Còn đối với các tổ chức bảo tồn di sản văn
hoá, phòng an ninh của tổ chức thường đảm nhận nhiệm vụ là trung tâm giám
sát.
2.5. Tổng kết
Có nhiều lựa chọn trong việc thiết kế hệ thống phát hiện và cảnh báo hoả hoạn
cho một toà nhà. Tính tối ưu của loại hệ thống cùng với các thiết bị kèm theo
phụ thuộc vào cấu trúc và giá trị của toà nhà, (các) chức năng của nó, những
người làm việc bên trong toà nhà, các tiêu chuẩn yêu cầu, giá trị của các vật thể
được lưu giữ và chức năng nhiệm vụ của tổ chức đó. Việc liên hệ với một kỹ sư
hoặc chuyên gia về phòng chống hoả hoạn, những người nắm rõ các vấn đề về
hoả hoạn, các loại thiết bị phát hiện và cảnh báo khác nhau thường được coi là
bước cần thiết đầu tiên để xác định được loại hệ thống phù hợp.
3. Hệ thống ống phun nước
3.1. Giới thiệu
Đối với hầu hết các đám cháy, nước là tác nhân dập lửa hữu hiệu nhất. Các vòi
này phun nước trực tiếp vào ngọn lửa, làm nguội bớt đám cháy và ngăn không

cho các vật dễ cháy bên cạnh không bắt lửa. Chúng có hiệu quả nhất khi đám
cháy mới ở giai đoạn hình thành, tương đối dễ kiểm soát. Một hệ thống vòi
phun đúng quy cách sẽ phát hiện ra sức nóng của ngọn lửa, báo động và phun
nước dập lửa chỉ trong một vài phút sau khi ngọn lửa xuất hiện. Trong hầu hết
các trường hợp, hệ thống này kiểm soát ngọn lửa chỉ trong vòng vài phút sau
khi được kích hoạt, và cho hiệu quả tốt, hạn chế thiệt hại hơn nhiều so với
trường hợp không có hệ thống ống phun.
Ưu điểm của hệ thống ống phun là:
- Xác định và kiểm soát tức thì một đám cháy đang lan: Các hệ thống phun
nước luôn trong tư thế sẵn sàng, kể cả khi có ít người trong toà nhà. Phản ứng
của nó với hoả hoạn hầu như tức thời.
- Lập tức cảnh báo: kết hợp với hệ thống báo cháy của toà nhà, hệ thống phun
nước tự động sẽ thông báo ngay cho những người trong toà nhà và nhân viên
bảo vệ về đám cháy.
- Hạn chế thiệt hại do sức nóng và khói gây nên: Hiển nhiên là nếu đám cháy bị
dập tắt ngay ở giai đoạn đầu thì nó sẽ tạo ra ít khói và nhiệt hơn.
- Đảm bảo an toàn cho con người: Do đám cháy được ngăn chặn nên các nhân
viên, khách tham quan và những người cứu hoả sẽ chịu ít nguy hiểm hơn.
- Linh hoạt trong thiết kế: Các hệ thống lối ra và ba-ri-e chống khói/lửa được sử
dụng hạn chế hơn do các biện pháp quản lý hoả hoạn ban đầu đã cho phép giảm
những hệ thống này. Nhiều quy định về xây dựng và phòng chống hoả hoạn đã
cho phép sự linh hoạt trong thiết kế và hoạt động dựa trên sự tồn tại của 1 hệ
thống vòi phun.
- Tăng cường an ninh: Do hệ thống vòi phun kiểm soát được nguy cơ cháy một
cách hữu hiệu, giảm thiểu những cơ hội trộm cắp và đột nhập khi có hoả hoạn
nên nó giúp giảm bớt yêu cầu về lực lượng an ninh.
- Giảm bớt chi phí bảo hiểm: Hoả hoạn ở khu vực có hệ thống ống phun nước
gây thiệt hại ít hơn so với các khu vực không có hệ thống này. Người bảo hiểm
có thể giảm bớt tiền đóng bảo hiểm cho những tài sản được hệ thống này bảo
vệ.

3.2. Các bộ phận và hoạt động của hệ thống ống phun nước
Hệ thống ống phun nước này là một tập hợp các ống nước với một nguồn cung
cấp nước ổn định. ở những khoảng cách nhất định trên các ống này, người ta l
ựa
chọn và đặt các van độc lập, được kích hoạt khi nhiệt độ lên cao. Chúng có d
ạng
như những vòi hoa sen, có nhiệm vụ phun nước vào đám cháy. Hầu hết các hệ
thống này đều có chuông báo động để cảnh báo cho những người trong toà nhà
và đội bảo vệ khi vòi phun được khởi động (khi đám cháy xảy ra).
Trong giai đoạn đầu của đám cháy, sức nóng tương đối thấp nên chưa thể kích
hoạt hệ thống vòi phun. Tuy nhiên, khi đám cháy mạnh lên, sức nóng tăng
(thường là khi vượt quá 57-107 độ C hay 135-225 độ F) sẽ làm biến d
ạng các bộ
phận cảm ứng của vòi phun. Nếu như đám cháy ngày càng l
ớn, nhiệt độ tiếp tục
tăng thì sau khoảng 30-120 giây, sức nóng sẽ làm giãn bộ phận cảm ứng, mối
hàn ở đầu vòi phun bong ra và nước sẽ phun vào đám cháy. Trong hầu hết các
trường hợp, chỉ cần 1 vòi phun đã có thể kiểm soát được đám cháy. Nhưng với
trường hợp đám cháy bùng phát nhanh (như khi có các chất lỏng dễ bắt lửa) thì
có thể cần đến 12 vòi.
Ngoài nh
ững hoạt động thông thường như trên, hoạt động của hệ thống vòi
phun có thể được liên kết để khởi động các thiết bị báo động trong toà nhà,
dừng máy móc và các thiết bị chạy điện, đóng các cửa và van cứu hoả hay làm
ngừng một số quá trình.
Khi nhân viên cứu hoả đến, họ sẽ xem xét xem hệ thống đã hoàn toàn kiểm soát
được đám cháy hay chưa. Nếu kết quả là tốt thì họ sẽ đóng van nước để hạn chế
những thiệt hại mà nước có thể gây ra. Vào lúc này, các nhân viên khác đã đư
ợc
phép vào khu vực hoả hoạn và làm nhiệm vụ thu dọn.

3.3. Các bộ phận và loại hệ thống
Các bộ phận cơ bản của một hệ thống vòi phun là các vòi phun, hệ thống ống
dẫn, và một nguồn nước đáng tin cậy. Hầu hết các hệ thống đều cần một thiết bị
báo động, các van kiểm soát hệ thống và các phương tiện để kiểm tra các thiết
bị trên.
Các vòi của hệ thống làm nhiệm vụ phun nước vào một khu vực cháy nhất định
(diện tích thường là 14-21m2 hay 150-225ft2), mỗi vòi phun hoạt động ở mức
c
ảm ứng nhiệt thực tế tại khu vực đó. Cấu tạo của nó gồm 1 khung, đầu nối cảm
ứng nhiệt, nắp đậy, lỗ và bộ phận làm l
ệch. Kiểu dáng của mỗi phần có thể khác
nhau nhưng chúng cùng có chung những nguyên tắc cơ bản.
- Khung: là phần cấu trúc có nhiệm vụ cố định vòi phun. ống nước được nối v
ơí
vòi phun ở phần đế của khung.Nó còn có tác dụng cố định bộ phận cảm ứng
nhiệt và nắp đậy, nâng đỡ bộ phận làm lệch khi phun nư
ớc. Có nhiều loại khung
như loại chuẩn, nghiêng, nằm ngang, và loại có mép chìm. Một số loại được
thiết kế để phun trên khu vực lớn hơn các vòi phun thông thường. Các loại vòi
tiêu chuẩn thường có màu đồng, crom, đen và trắng. Vòi trắng được dùng ở
những khu vực đòi hỏi tính thẩm mỹ cao. ở những khu vực có độ ăn mòn lớn,
các bộ phận của vòi phun được phủ 1 lớp bảo vệ đặc biệt. Việc lựa chọn loại
khung nào cần dựa trên kích cỡ, loại hình diện tích của khu vực bảo vệ, những
nguy hiểm có thể xảy ra, đặc điểm về tầm nhìn, và các điều kiện về không khí.
- Đầu nối cảm ứng nhiệt: là bộ phận kiểm soát việc phun nước. Trong những
điều kiện bình thường, đầu nối này giữ cố định bộ phận nắp và ngăn không cho
nước chảy ra. Nhưng khi tiếp xúc với nhiệt độ tăng cao, nó yếu dần và thả lỏng
nắp. Các loại đầu nối phổ biến gồm có loại cần kim loại hàn, bóng đèn thu
ỷ tinh
dễ vỡ, viên nối bằng hợp kim hàn. Các loại này đều có độ an toàn như nhau.

Sau khi nhiệt độ đạt đến mức cần thiết, hệ thống phun sẽ mất từ 30 giây đến 4
phút để có thể hoạt động. Đó là thời gian cần thiết để đầu nối giãn ra và nó phụ
thuộc chủ yếu vào vật liệu của đầu nối. Hệ thống vòi phun thông thường cần
khoảng 3-4 phút trong khi hệ thống phản ứng nhanh cần ít thời gian hơn nhiều.
Việc lựa chọn mức độ phản ứng của vòi phun tuỳ thuộc vào các nguy cơ tiềm
tàng, mức độ thiệt hại có thể chấp nhận và yêu cầu phản ứng mong muốn.
Đối với công tác bảo tồn di sản, hệ thống phun nước phản ứng nhanh có những
ưu thế vượt trội. Phản ứng của vòi phun với đám cháy càng nhanh thì hệ thống
phun càng nhanh được kích hoạt và mức độ thiệt hại càng được giảm bớt. Điều
này đặc biệt có ý nghĩa đối với việc bảo đảm an toàn tính mạng con người và
những vật thể có giá trị cao. ở đó, mục tiêu cứu hoả là càng nhanh và càng sớm
càng tốt. Cần hiểu rằng thời gian phản ứng của vòi phun độc lập với nhiệt độ
phản ứng. Một vòi phun phản ứng nhanh sẽ không hoạt động ở nhiệt độ thấp
hơn nhiệt độ kích hoạt của một vòi phun thông thường.
- Nắp đậy: được đặt ở miệng của vòi phun. Đầu nối cảm ứng nhiệt giữ cố định
nắp đậy và nó sẽ rơi khỏi vị trí này khi đầu nối nóng lên, cho phép nước chảy
ra. Nắp đậy có thể được chế tạo bằng một kim loại duy nhất hoặc kim loại có
phủ men chống dính.
- Miệng vòi phun: là phần mằm ở đáy của khung đỡ, có nhiệm vụ phun nước
dập lửa. Hầu hết miệng vòi phun có đường kính 15mm (1/2inch) với nhiều loại
lỗ to nhỏ khác nhau được sử dụng tuỳ theo nguy cơ cháy là lớn hay nhỏ.
- Bộ phận làm lệch: cũng được đặt trên khung đỡ, đối diện với miệng vòi phun.
Chức năng của nó là làm đổi hướng dòng nước từ miệng vòi phun theo hướng/
hình hiệu quả hơn. Kiểu dáng của bộ phận làm lệch sẽ quyết định việc vòi phun
được lắp đặt thẳng đứng (đặt trên ống), được treo (dưới ống, dưới trần nhà),
hoặc đặt trên sàn nhà. Vòi phun phải được lắp đặt đúng như thi
ết kế để đảm bảo
chúng hoạt động hiệu quả. Việc lựa chọn loại vòi phun nào thường phụ thuộc
vào yêu cầu xây dựng của toà nhà.
Loại vòi phun được sử dụng rộng rãi trong các bảo tàng là loại vòi bật/ tắt.

Nguyên t
ắc hoạt động của sản phẩm này là khi hoả hoạn xảy ra, quá trình phun
nước dập lửa cũng tương tự như loại vòi phun tiêu chuẩn. Nhưng khi nhiệt độ
căn phòng đã giảm xuống mức an toàn, một chốt lưỡng kim tự động hình đĩa
trong vòi phun sẽ đóng lại và nước ngừng chảy. Nếu sau đó ngọn lửa lại bùng
lên thì vòi phun lại tiếp tục hoạt động. Ưu diểm của loại vòi phun này là chúng
có khả năng tự đóng và về mặt lý thuyết có thể giúp tiết kiệm nước và giảm
mức độ thiệt hại. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là đôi khi thời gian để nhiệt độ trong
phòng giảm xuống đủ để vòi phun tự ngắt rất dài.
ở các khu vực bảo tồn, cấu tạo
toà nhà có độ giữ nhiệt cao khiến cho vòi phun lâu đóng. Trên thực tế, thường
thì các lực lượng cứu hoả sẽ tới và có thể đóng các van điều khiển hệ thống vòi
phun trước khi chúng tự động ngắt.
Giá của hệ thống vòi phun bật tắt tự đồng thường cao gấp 8-10 lần vòi phun
thông thường nên nó chỉ hợp lý khi phía bảo hiểm yêu cầu. Do vậy, trong công
tác bảo tôn, các vòi phun loại này vẫn được sử dụng rất hạn chế
Việc lựa chọn các loại vòi phun phải dựa vào các yếu tố như đặc điểm của nguy
cơ cháy, nhiệt độ trong phòng, yêu cầu về thời gian phản ứng, tính nguy hiểm
và các yếu tố thẩm mỹ. Trong một khu vực bảo tàng có thể sử dụng đồng thời
một số loại vòi phun khác nhau. Mọi hệ thống vòi phun đều cần phải có nguồn
cung cấp nước ổn định. ở các khu vực thành thị, nơi cung cấp nước là các địa
điểm bơm nước công cộng. Trong khi đó các khu vực nông thôn thường sử
dụng các bể chứa nước tư nhân, hoặc nguồn nước ở sông, hồ. Nếu như yêu cầu
về độ ổn định của nguồn nước cao hoặc một nguồn cung cấp nước là không đủ
thì có thể sử dụng đồng thời nhiều nguồn khác nhau.
Các tiêu chuẩn đánh giá nguồn cung cấp nước gồm:
- Nguồn cung cấp nước phải luôn sẵn có vào m
ọi thời điểm. Do hoả hoạn có thể
xảy ra bất cứ lúc nào nên nguồn nước cứu hoả phải luôn trong trạng thái sẵn
sàng. Nguồn nước được đánh giá theo khả năng chống lại các hỏng hóc về

đường ống, áp suất, hạn hán và các yếu tố khác ảnh hưởng đến tính sẵn có của
nguồn nước.
- Hệ thống phải có nguồn cung cấp nước với áp suất phù hợp. Một hệ thống vòi
phun sẽ đặt ra các yêu cầu về lượng nước chảy và áp lực nước đối với hệ thống
cung cấp nước. Nguồn cung cấp nước phải đáp ứng được điều này. Nếu không,
hệ thống phải được trang bị thêm các thiết bị hỗ trợ khác như bơm cứu hoả ho
ặc
bể chứa nước dự phòng.
- Nguồn phải cung cấp đủ nước cho thời gian hoả hoạn dự kiến. Tuỳ theo đám
cháy mà hệ thống cần từ vài phút đến hơn một giờ để dập lửa. Nguồn nước
được chọn phải có khả năng cung cấp đủ nước để vòi phun có th
ể hoạt động đến
khi dập xong đám cháy.
- Hệ thống cũng phải cung cấp đủ nước cho các vòi cứu hoả cùng ho
ạt động với
hệ thống vòi phun. Khi hoả hoạn xảy ra, hầu hết các lực lượng cứu hoả đều sử
dụng vòi rồng cứu hoả để hỗ trợ cho hệ thống vòi phun. Nguồn cung cấp nước
cũng phải đủ khả năng cung cấp cho nhu cầu này mà không gây ảnh hưởng tiêu
cực đến hoạt động của hệ thống vòi phun.

ớc chảy đến vòi phun qua một hệ thống các ống dẫn và khớp nối cố định.
Các ống này có thể được làm từ nhiều loại hợp kim thép, đồng, nhựa chịu lửa
khác nhau. Thép là vật liệu phổ biến nhất. Các ống thép, đồng và nhựa được sử
dụng ở nhiều khu vực nhạy cảm.
Khi lựa chọn loại vật liệu làm ống dẫn cần xem xét các điểm cơ bản sau:
+ Tính dễ lắp đặt: vật liệu càng dễ lắp đặt thì càng ít gây ảnh hưởng đến hoạt
động cũng như nhiệm vụ tổ chức. Khả năng lắp đặt một hệ thống mà gây ít xáo
trộn nhất là một cân nhắc quan trọng, đặc biệt khi lắp thêm các bộ phận vòi
phun ở những khu vực mà hoạt động của nó vẫn tiếp diễn trong quá trình lắp
đặt.

+ So sánh chi phí v
ật liệu với giá trị của khu vực cần bảo vệ: trong một hệ thống
vòi phun, ống dẫn đòi hỏi chi phí lớn hơn cả. Do đó, nhiều nơi thường giảm chi
phí bằng cách sử dụng những ống dẫn làm bằng vật liệu rẻ tiền hơn. Điều đó
hoàn toàn có thể chấp nhận được trong một số trường hợp nhất định như trong
văn phòng hoặc những khu thương mại. Tuy nhiên trong việc bảo tồn di sản, n
ơi
mà giá trị các vật thể cần bảo vệ vượt xa chi phí của hệ thống vòi phun thì ta
cần coi trọng đến sự phù hợp của các ống dẫn hơn là chi phí.
+ Nhà thầu xây dựng phải quen thuộc với loại vật liệu đó: Cần phải tránh trư
ờng
hợp sau khi đã lựa chọn nhà thầu và vật liệu ống dẫn rồi mới phát hiện ra nhà
thầu không có kinh nghiệm với loại ống dẫn đó. Điều này có thể gây ra nhiều

×