Phân tích vai trò tác chiến của lực lợng phòng không-
không quân trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 và
Điện Biên Phủ trên không 12 ngày đêm tháng 12-1972
1.Mở đầu
Một dân tộc muốn đứng vững không những có một tiềm lực kinh tế to
lớn mà còn phải có một nền quân sự hùng mạnh. Lịch sử thế giới đã minh
chứng rằng, các dân tộc dù có phát triển về kinh tế, văn hoá, xã hội đến đâu
mà không đảm bảo đợc về an ninh, quốc phòng thì sớm hay muộn cũng bị
dân tộc hiếu chiến khác thôn tính. Loài ngời đã trải qua rất nhiều cuộc chiến
tranh. Từ xa xa, đó là các cuộc xung đột giữa các bộ lạc. Phơng tiện chiến
đấu hết sức thô sơ, từ giáo mác, gậy gộc, đá...Trong thời kì đầu, các trận
chiến chủ yếu diễn ra trên mặt đất. Chiến trờng đợc mở rộng theo bớc chân
của ngời chiến binh. Theo sự phát triển của xã hội loài ngời, các cuộc chiến
tranh trở nên qui mô hơn và các vũ khí, phơng tiện chiến tranh cũng đợc hiện
đại hoá dần lên. Chiến trờng lúc này không chỉ diễn ra trên bộ mà còn đợc
mở rộng ở trên biển, trên không. Nh vậy, quan niệm về sự thắng bại ở chiến
trờng trên bộ quyết định thắng lợi của cuộc chiến tranh cũng thay đổi. Ngày
nay, cùng với những phát kiến vợt bậc về khoa học, công nghệ, đặc biệt là sự
ứng dụng của công nghệ thông tin vào trong lĩnh vực quân sự thì các nhà
quân sự cũng đề ra các chiến lợc chiến lợc, chiến thuật chiến đấu sao cho đạt
hiệu quả cao nhất. Hiệu quả cao nhất ở đây đợc hiểu tức là làm sao giành
phần thắng nhanh chóng, ít tổn hao sinh lực, thực hiện các mục đích đã đợc
đề ra. Quan sát một số cuộc chiến tranh gần đây ta thấy rằng, các đế quốc
hùng mạnh về kinh tế và quân sự hầu hết đều sử dụng các phơng tiện tiến
công đờng không để oanh kích đối phơng, do đó tạo lợi thế to lớn trên chiến
trờng. Các phơng tiện tiến công đờng không là các vũ khí, trang thiết bị dùng
để tiến công từ trên không vào các mục tiêu mặt đất, mặt nớc...của đối ph-
ơng, gồm: các phơng tiện mang(máy bay ném bom, máy bay chở quân...),
phá huỷ(máy bay, tên lửa...), dẫn đờng đấu tranh điện tử(radar, vệ tinh...)...
phục vụ cho tiến công đờng không. Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai,
những quả tên lửa của Đức đã đợc phóng sang đất Anh. Thời đó, Mỹ cũng đã
có tên lửa phóng từ trên không đợc điều khiển theo lệnh vô tuyến. Cả Mỹ và
Đức đều chế tạo đợc đầu tự dẫn cho ngời và bom ném từ máy bay. Thảm hoạ
bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki của
Nhật Bản trong giai đoạn cuối cuộc chiến tranh, đã cho thấy sức mạnh huỷ
diệt của các phơng tiện tiến công đờng không. Sau chiến tranh, cùng với sự
phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, các phơng
tiện tiến công đờng không cũng đợc phát triển nhanh chóng. Máy bay và tên
lửa là loại vũ khí có thể giải quyết, khắc phục đợc mâu thuẫn giữa sự cơ động
và địa hình, giải quyết mâu thuẫn giữa đột kích hoả lực với thời gian và
1
không gian. Máy bay và tên lửa không bị giới hạn về không gian và thời gian.
Ngoài ra các phơng tiện này còn có thể đánh đợc vào toàn bộ đất nớc đối ph-
ơng chỉ trong thời gian ngắn, dù trong điều kiện địa hình phức tạp mà bộ đội
lục quân không thể làm nh thế đợc. Hỏa lực của máy bay và tên lửa cũng rất
lớn. Do có tính u việt nh vậy nên chúng ngày càng đợc phát triển và ngày
càng chiếm u thế trong chiến đấu. Thực tế các cuộc chiến tranh gần đây cho
thấy ,có trờng hợp phải chống cuộc tiến công bằng hoả lực đờng không đồng
thời với chống tiến công trên bộ ,trên biển .Dù trong trờng hợp nào ,chống
tiến công bằng hoả lực đờng không là rất quan trọng .Trong khi bộ đội lục
quân của hai bên đánh nhau ở ngoài mặt trận thì ở hậu phơng của nớc bị xâm
lợc cũng bị kẻ xâm lợc tiến công bằng hoả lực đờng không .Cũng có trờng
hợp ,kẻ xâm lợc dùng biện pháp tiến công hoả lực đờng không trớc ở giai
đoạn đầu của cuộc chiến tranh nhằm tiêu diệt hậu phơng của đối phơng ,làm
mềm chiến trờng ,sau đó mới dùng biện pháp tiến công trên bộ và trên biển
để xâm chiếm đất đai hòng đạt đợc mục đích cao hơn.
Nh vậy, sự tác động mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật hiện đại đã làm
thay đổi căn bản chiến lợc chiến đấu của các quốc gia. Bài tiểu luận này của
em nhằm mục đích trớc hết là làm rõ một chiến lợc chiến tranh của đối ph-
ơng-chiến tranh đờng không. Tiếp theo là tìm hiểu về lực lợng phòng không-
không quân của quân đội Việt Nam và những thắng lợi vang dội của lực lợng
phòng không-không quân trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 và trong
12 ngày đêm tháng 12-1972.
2.Nội dung chính
2.1.Sự phát triển của các phơng tiện tiến công đờng không và việc sử
dụng chúng trong một số một số cuộc chiến tranh gần đây.
Sau đây là một số mốc quan trọng trong sự phát triển của các phơng
tiện tiến công đờng không.
-Tháng 10/47 Mỹ chế tạo động cơ lớn hơn tốc độ âm thanh
-Năm 1960, xuất hiện máy bay không ngời lái đầu tiên với
nhiệmvụtrinh sát ,chiến đấu.
-Năm 1970 ra đời máy bay tàng hình đầu tiên ở Mỹ .
Kể từ khi Liên Xô tan rã, nớc Mỹ trở thành nớc thống trị trên lĩnh vực
quân sự. Nớc Mỹ hiện nay có lực lợng không quân hùng mạnh với nhiều
chủng loại máy bay chiến đấu .Ví dụ nh máy bay ném bom (A10, A7...)
,máy bay tiêm kích (F4, F5, F117...) ,máy bay ném bom chiến lợc (B52,
B2...) .Bên cạnh đó là nớc Nga cũng có các loại máy bay nh máy bay ném
bom (Su22, Su37...) ,máy bay tiêm kích (Mig21, Mig27...) ,máy bay ném
bom chiến lợc (Tu160...).
-Đêm 14/4/1986 cả nớc LiBi bị rung chuyển. Mỹ sử dụng không quân
hơn 30 máy bay trong đó có 15 máy bay tiêm kích bảo vệ, 18 F111 bất ngờ
2
không kích LiBi. Mỹ đã bắn hơn 20 quả tên lửa, dội 60 tấn bom. Với yếu tố
bất ngờ, cả về thời điểm tấn công và căn cứ xuất kích, LiBi đã đầu hàng chỉ
sau vài chục phút.
-Năm 1991, dựa vào cớ Irắc xâm lợc Côoét, Mỹ và đồng minh đã sử
dụng chiến thuật tiến công đờng không tấn công Irắc. Liên quân đã oanh kích
Irắc liên tục 38 ngày đêm, tiêu diệt các cứ điểm quân sự quan trọng của Irắc.
Sau đó, Mỹ mới cho bộ binh đổ bộ vào Irắc và chỉ mất có 4 ngày để làm chủ
thế trận.. Trong 5 tuần oanh kích Irắc, Mỹ sử dụng nhiều loại máy bay hiện
đại nh F117-A, máy bay chỉ huy E-8A, máy bay chở quân CH-47, máy bay
AWACS(máy bay trinh sát báo động sớm các mục tiêu trên không, máy bay
trở quân CH-47...Có tới 43% trong tổng số 2665 xe tăng và 32% trong số
2624 xe bọc thép của Irắc bị tiêu diệt trong các đợt tấn công bằng không
quân của Mỹ. Nh vậy, cuộc chiến đấu giữa Mỹ và Irắc trên thực tế chỉ diễn ra
có 42 ngày. Qua cuộc chiến tranh này ta thấy, tiến công trên bộ phụ thuộc
vào kết quả của tiến công hoả lực đờng không. Nếu tiến công hoả lực đờng
không làm cho đối phơng tiêu hao nặng nề thì tiến công trên bộ chỉ là khâu
cuối cùng để giải quyết chiến tranh.
Hình 1.Máy bay tàng hình F111 của Mỹ
-Từ ngày 24/3 đến ngày 10/6/1999 ,tổ chức NATO(North Atlantic
Treaty Organization) đứng đầu là Mỹ tấn công Nam T. Cuộc chiến diễn ra
chủ yếu bằng không quân. Một lần nữa không quân đợc coi nh quyết định tới
thế trận ở chiến trờng. Trong cuộc chiến này Mỹ đã sử dụng nhiều vũ khí,
trang thiết bị hết sức tối tân nh máy bay ném bom B-1, máy bay tàng hình
F117-A ,trực thăng AH-64. Ngoài ra, Mỹ còn sử dụng hai vệ tinh Keyhole
KH-12 để giám sát khu vực chiến sự bằng các camera quang điện tử. Cũng
trong cuộc chiến này, Mỹ đã sử dụng tên lửa Tomahawk, loại tên lửa đánh
mục tiêu đã đợc lập trình sẵn. Mặc dù vậy, không ít lần tên lửa này đánh
nhầm các mục tiêu(trong đó có cả các mục tiêu dân sự) thậm chí còn đánh
3
ngợc trở lại liên quân...Tuy chấp nhận đầu hàng nhng quân đội Nam T không
bị thiệt hại nặng nề. Các điểm yếu của tiến công đờng không công nghệ cao
đã bắt đầu lộ rõ. Tiến công bằng đờng không chỉ đạt đợc mục đích hạn chế vì
không có bộ đôi lục quân chiếm lĩnh đất đai. Bên bị tiến công nếu khéo nguỵ
trang, nghi binh lừa địch thì tiến công hoả lực đờng không lại càng kém hiệu
quả.
Có thể khẳng định rằng, trên thế giới hiện nay cha có một quốc gia
nào chống chọi lại đợc các cuộc tiến công đờng không của Mỹ ngoại trừ Việt
Nam. Đây là một niềm tự hào rất to lớn đối với toàn thể dân tộc cũng nh lực
lợng quân đội của nớc ta. Trong lịch sử dân tộc, chúng ta đã từng đánh bại
nhiều kẻ thù mạnh hơn ta nhiều lần bằng sự mu trí, dũng cảm, tự lực tự cờng,
sáng tạo nghĩ ra các cách đánh mới, đem lại hiệu quả cao. Bài tiểu luận này
nhằm mục đích chính là tìm hiểu thắng lợi vẻ vang của quân đội qua hai cuộc
kháng chiến vĩ đại là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tiêu biểu là
trong chiến dịch Điện Biên Phủ và cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, đỉnh
cao là đập tan cuộc tập kích chiến lợc của địch vào miền Bắc tháng 12-1972.
2.2.Thắng lợi của lực lợng phòng không-không quân Việt Nam qua hai
cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ
2.2.1.Kháng chiến chống Pháp
Ngày 10-12-1910, lần đầu tiên ở Việt Nam xuất hiện một máy bay của
Pháp kiểu Farnan do Wanden Borg lái vào. Từ đó, thực dân Pháp đã tăng c-
ờng sử dụng máy bay để tấn công nhân dân ta. Năm 1917, thực dân Pháp đã
cho sử dụng máy bay nóm bom vào cuộc khởi nghĩa của Lơng Ngọc Quyến.
Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930 cũng bị thực dân đàn áp dã man.
Chúng đã thả bom vào đoàn ngời nổi dậy làm chết hơn 300 ngời và làm bị th-
ơng hàng ngàn ngời. Lúc đó, trong tâm thức ngời Việt Nam, những chiếc
máy bay là con chim sắt hay những chiếc tàu chiến là con ngựa chết tr-
ơng ngay cả khẩu súng đợc coi là cái đanh thổi lửa đem lại nỗi kinh
hoàng, tàn sát đối với ngời nông dân. Cho đến năm 1945, chúng ta vẫn cha
thể và cha biết cách hạ máy bay của thực dân Pháp.
Sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, quân đội ta đã ý
thức rất tốt về mối nguy hiểm của các phơng tiện tiến công trên không của
địch và đã có những chiến lợc đúng đắn để từng bớc xây dựng đội ngũ phòng
không- không quân. Đi đôi với những biện pháp phòng tránh, quân đội ta đã
từng dùng súng trờng, súng máy thiết lập thành những tổ những trung đội,
đại đội trực tiếp chiến đấu với không quân hiện đại của địch và những chiếc
máy bay đầu tiên của quân xâm lợc bị bắn rơi trên bầu trời Việt Nam. Ngày
29-6-1946 quân và dân huyện Đức Hoà(Long An) đã bắn rơi máy bay bằng
súng bộ binh. Ngày 16-8-1946 đồng chí Nguyễn Cao Thơng cán bộ bộ đội
địa phơng tỉnh Vĩnh Trà bắn rơi một máy bay trinh sát Pô-tê bằng súng trung
4
liên. Chúng ta đã tận dụng và kết hợp tất cả những phơng tiện hiện có để
đánh địch nh: mìn tự tạo, những quả không lôi, mìn neo gây cho giặc
lái địch hoang mang lo sợ, không cho máy bay địch xà xuống thấp. Tuy
nhiên do trang thiết bị còn thô sơ, lạc hậu, trình độ của ta cha cao nên hiệu
quả hạ máy bay địch còn thấp. Từ đó đặt ra yêu cầu cấp bách đối với quân
đội ta là phải thành lập ra các binh chủng mang tính chính qui, chuyên
nghiệp hơn.
Ngày 1-4-1953, tại rừng Bộc Nhiêu, Định Hoá, Thái Nguyên, đại tớng
Võ Nguyên Giáp kí sắc lệnh thành lập trung đoàn 367 (6 tiểu đoàn pháo cao
xạ 37 li ). Lớp không quân đầu tiên gồm những cán bộ chiến sĩ đợc tuyển
chọn năm 1953 trở thành nòng cốt xây dựng đội ngũ cán bộ phòng không.
Lực lợng phòng không mới ra đời đã lập công lớn góp phần vào thắng
lợi trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.
Tơng quan lực lợng của ta và địch lúc đó rất chênh lệch. Lúc đó nớc
Pháp đã là một cờng quốc quân sự, chúng đã sử dụng rất nhiều loại máy bay
hiện đại lúc bấy giờ. Điển hình là các loại : B24, AB.24, P.38, F.6F... Mặc dù
vậy lực lợng không quân của ta không hề sợ hãi, đã dũng cảm, mu trí sáng
tạo lập công. Pháo cao xạ của ta tấn công, bao vây địch dữ dội. Nhiều máy
bay địch thả lính dù và hàng tiếp tế bị ta bắn hạ. Ngoài ra, do bị hoả lực của
ta bủa vây, máy bay Pháp không thể thả hàng tiếp tế vào đúng trận địa của
địch mà chỉ dám thả ở vòng ngoài nên đa số hàng tiếp viện của chúng rơi vào
tay chúng ta,làm cho địch đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Vào lúc 7h30
ngày 13-3-1954, ta bắn rơi chiếc máy bay đầu tiên của Pháp và chiếc máy
bay cuối cùng của Pháp bị ta bắn hạ trong chiến dịch vào ngày 8-5-1954.
Trong 56 ngày đêm chiến đấu ở Điện Biên Phủ, trung đoàn phòng không 367
đã bắn rơi 52 máy bay Pháp, bắn bị thơng 117 máy bay của Pháp và Mỹ can
thiệp.
5
Hình 2. Thực dân Pháp thả lính dù xuống Điện Biên Phủ
Ngày 20-7-1954 Hiệp định Giơnevơ kết thúc sự thống trị của chế độ
thực dân cũ ở Đông Dơng. Cầu Hiền Lơng tạm thời là giới tuyến chia cắt hai
miền Nam, Bắc Việt Nam.
2.2.2.Kháng chiến chống Mỹ
Tiếp nối truyền thống thắng lợi, lực lợng phòng không-không quân,
quân ngày càng đựơc củng cố và hoàn thiện hơn.
-Ngày 21-3-1958: Thành lập Bộ t lệnh Phòng không.
-Tháng 8-1958, quân đội ta tổ chức lớp học về radar đầu tiên (gồm 20
ngời đợc cử sang nớc Trung Quốc học ). Sau đó, quân đội ta đợc trang bị đài
radar đầu tiên do các nớc bạn giúp đỡ. Lúc 0h ngày 1-3-1959 các đài radar
của ta bắt đầu phát sóng đánh dấu sự kiện quan trọng là lần đầu tiên trong
lịch sử, dân tộc Việt Nam quản lí bầu trời bằng sóng điện từ.
-Ngày 22-10-1963: Thành lập Quân chủng Phòng không Không Quân.
-Ngày 5-8-1964: Bộ đội phòng không đánh thắng trận đầu chống chiến
tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ trên miền Bắc Việt Nam.
-Ngày 17-9-1967: Bộ đội phòng không bắn rơi chiếc máy bay B52 đầu
tiên.
Lực lợng pháo phòng không của ta liên tục lập công. Tiêu biểu nh trận
đánh ngày 17-10-1967 trên tuyến đờng số 1 Bắc dới sự chỉ đạo của tiểu đoàn
trởng Nông Văn Dũng bảo vệ cầu Đáp Cầu đã tiêu diệt nhiều máy bay địch.
24 máy bay gồm 20 chiếc F.105 và 4 chiếc F.4 đánh cầu Đáp Cầu thị trấn
6
Bắc Ninh. Năm đại đội pháo 37 (20 khẩu) và một trung đội súng máy PK
14,5mm đã đồng loạt nổ súng bắn rơi 5 chiếc F.105 có 4 chiếc rơi tại chỗ...
Đợc sự giúp đỡ của Liên Xô, năm 1966 đến năm 1967, chúng ta có đ-
ợc 2 súng máy và hai tên lửa X51.
Mỹ âm mu phá hoại hiệp định Giơnevơ, âm mu chia cắt lâu dài đất nớc
ta. Mỹ hung hăng tuyên bố : ...chúng ta ném bom đẩy lùi miền Bắc Việt
Nam về thời kì đồ đá... . Mỹ huy động các loại máy bay hiện đại bậc nhất
lúc đó nh máy bay AC124, A1E(ném bom phốtpho trên mặt đất),
AC.130H(máy bay ném bom chiến thuật bắn phá mạnh nhất, lớn nhất),
A.6A,A.7,B52, B-57B, F.105F, F111, F4, RS74, EB-66...
Ngày 7-2-1965, bất chấp công ớc quốc tế, tổng thống Mỹ Giônsơn đã
cho máy bay Mỹ đánh phá Vĩnh Linh, Quảng Bình mở màn cho cuộc chiến
tranh bằng không quân và hải quân Mỹ ở miền Bắc Việt Nam. Quân và dân
miền Bắc Việt Nam anh dũng đáp trả lại quân địch. Đầu năm 1965, trận địa
bắn máy bay bằng súng bộ binh của dân quân Vĩnh Linh đã bắn rơi máy bay
phản lực Mỹ. Ngày 31-5-1966, một chiếc C.130 bị ta bắn rơi tại cầu Hàm
Rồng, Thanh Hoá. Ngày 31-5-65, ta bắn rơi F-8U cũng tại cầu Hàm Rồng.
Còn nhiều trận đánh nữa ,lực lợng phòng không của ta đã làm cho địch phải
khiếp sợ và bảo vệ an toàn các mục tiêu đúng nh lời Bác Hồ dạy: ...Ta nhất
định thắng, Mỹ nhất định thua... Dù đế quốc Mỹ có lắm súng nhiều tiền, dù
chúng có B52, B57 hay Bê gì đi nữa ta cũng đánh. Từng ấy máy bay, từng
ấy quân Mỹ chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định
thắng(ngày 19-7-1965 khi Ngời đến thăm trung đoàn tên lửa 236).
Đỉnh cao của thắng lợi của lực lợng phòng không-không quân là vào 12
ngày đêm tháng 12-1972. Trong trận Điện Biên Phủ trên không này, đế
quốc Mỹ huy động 193 máy bay ném bom B.52 (chiếm 46% tổng số B.52
của Mỹ), 1077 máy bay chiến thuật, kể cả F.111( chiếm 31% tổng số máy
bay chiến thuật của Mỹ). Tập trung hải quân lớn nhất :6 tàu sân bay(chiếm
43% tổng số tàu sân bay của Mỹ). Căn cứ xuất phát :không quân chiến lợc ở
Anderson(Guam) và Utapao(Thái Lan), không quân chiến thuật tại 6 sân bay:
Uđon, Ubon, Taili, Cò rạt, Nậm phong, Nakhon-phanom(Thái Lan) và 6 tàu
sân bay (từ đông Hải Phòng đến đông Đà Nẵng). Ngoài ra chúng còn cấp tốc
thiết lập ban chỉ huy tập đoàn không quân chiến lợc số 57 (tại Guam) đặt dới
sự chỉ đạo trực tiếp của Nicxơn.
Phía ta gồm có các s đoàn phòng không 361(Hà Nội), 363(Hải Phòng),
375(Bắc đờng 1), 365(Nam đờng 1). Tên lửa: trung đoàn 257, 261, 274 (Hà
Nội), 285, 238(Hải Phòng), 268(Hà Bắc), 263(Nghệ An). Radar :trung đoàn
290,291,292,293. Cao xạ :trung đoàn 220, 260, 212,245(Hà Nội), 252(Hải
Phòng), 240, 213, 224, 216, 282(Bắc đờng 1), 228, 226, 234(Nam đờng 1).
Không quân: trung đoàn 921, 923, 925, 927. Trung đoàn thông tin 26, tiểu
đoàn vận tải, công binh. Xí nghiệp quốc phòng A31, A34, A38.
7