Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

KHả NĂNG GÂY BệNH CủA NấM Metarhizium anisopliae (Metsch.) Sorokin ĐốI VớI RệP SáP GIả (Dysmicoccus sp.) TRÊN CÂY NA (Annona squamosa L.) potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.03 KB, 5 trang )

Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 3/2008

22

KHả NĂNG GÂY BệNH CủA NấM
Metarhizium anisopliae
(Metsch.) Sorokin ĐốI VớI
RệP SáP GIả (
Dysmicoccus
sp.) TRÊN CÂY NA
(
Annona squamosa
L.)

Efficacy of
Metarhizium anisopliae
(Metsch.) for controlling of
mealybug (
Dysmicoccus
sp.) attacking on custard apple fruit

Võ Thị Thu Oanh, Lê Đình Đôn,
Nguyễn Thị Chắt, Bùi Cách Tuyến
Trường Đại Học Nông Lâm TP.HCM

Abstract
Mealybug is a pest colonizing on custard apple fruits causing unsightly and low value. To control
the pest is not easy in term of food safety due to pesticide residue in the fruits and environment. The
aim of this study is to evaluate the control efficacy of Metarhizium anisopliae, a entomopathogenic
fungi, on the mealybug affected on custard apple fruits. Inoculation experiments were laid out in room
and field conditions, at 9x10


8
spores/ml sprayed directly on mealybugs colonized on fruit surfacce.
Result indicated that the fungi was effective on mealybug that means the Metarhizium anisopliae
infected on 77% individuals inoculated in the open fields. It is suggested that M. anisopliae could be
used in IPM programme for controlling the pest of custard apple fruits.

I. ĐặT VấN Đề
Rệp sáp giả (Dysmicoccus sp.) là đối tượng
gây hại phổ biến trên một số loại cây ăn quả
trong đó có cây na (Nguyễn Thị Chắt, 2001,
2005). Loài sâu hại này có chu kỳ sống ngắn và
sức sinh sản cao. Chất thải do rệp sáp giả
(Dysmicoccus sp.) tiết ra là môi trường thích
hợp cho nấm bồ hóng phát triển và bao phủ lên
lá, hoa, quả na làm ảnh hưởng đến quang hợp
của cây, gây giảm năng suất chất lượng, giá trị
thương mại của quả. Tuy nhiên, rệp sáp giả này
thường bị bọ rùa, bọ mắt vàng, ong ký sinh và
nấm gây bệnh tấn công (Nguyễn Thị Chắt,
2005).
Đã ghi nhận được các loài nấm gây bệnh
cho rệp sáp giả (Dysmicoccus sp.) gồm nấm
Beauveria bassiana, Metarhizium anisopliae,
Aschersonia sp. Trong đó, nấm Metarhizium
anisopliae được quan tâm hơn vì có ý nghĩa
rất lớn (Benjamin et al., 2002; Molina Ochoa
et al., 2000). Loài nấm này có khả năng phát
tán rộng, gây bệnh trên nhiều sâu hại khác
nhau. Nấm có thể tấn công ở tất cả các giai
đoạn phát triển của côn trùng.

Bài viết này trình bày một số kết quả sử
dụng nấm Metarhizium anisopliae để trừ rệp
sáp giả trên cây na ở điều kiện ngoại ô Tp. Hồ
Chí Minh.
II. VậT LIệU, PHƯƠNG PHáP
Vật liệu nghiên cứu
Nguồn nấm Metarhizium anisopliae được
phân lập từ rệp sáp bông cúc Icerya
aegyptiaca Dgl. hại sầu riêng thu thập tại
Quận 9, Tp.Hồ Chí Minh; môi trường nhân
nuôi nấm PDA (khoai tây, Dextrose, agar);
môi trường lỏng nhân sinh khối nấm gồm bã
bia khô, mật rỉ đường và nước cất; chất bám
dính Tween 80 0,5%.
Phương pháp nghiên cứu
Dịch bào tử nấm Metarhizium anisopliae
được nuôi cấy trên môi trường PDA, sau 4 ngày
cấy chuyền vào môi trường nhân sinh khối.
Thí nghiệm trong phòng được bố trí hoàn
toàn ngẫu nhiên, 4 lần lặp lại, 4 công thức xử
lý nấm và 1 công thức đối chứng không xử lý
nấm. Các công thức thí nghiệm được xử lý với
4 nồng độ dịch bào tử nấm là 1.10
8
, 5.10
8
,
7.10
8
và 9.10

8
bào tử/ml (tương ứng với 100,
Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 3/2008

23
500, 700 và 900 triệu bào tử/ml). Những quả na
bị rệp sáp giả hại được thu thập từ vườn, tiến
hành đếm mật độ, giữ lại 30 con/quả để thí
nghiệm. Dịch bào tử (thêm 0,5% Tween 80 để
tăng khả năng bám dính) được phun trực tiếp
lên rệp sáp giả với lượng 10ml/quả. Sau khi
phun dịch bào tử nấm, từng quả na được để vào
hộp nhựa có lót giấy thấm và theo dõi cho đến
khi rệp sáp giả chết. Thu và đặt xác rệp sáp giả
chết trên một miếng lame đã khử trùng trong
đĩa petri có lót giấy ẩm cho đến khi nấm mọc.
Tỷ lệ chết của rệp sáp giả, tỷ lệ nấm mọc sau
khi rệp sáp giả chết được ghi nhận vào các
ngày 1, 3, 5, 7, 14, 21 sau xử lý nấm. Hiệu lực
được hiệu đính theo công thức Schneider-
Oreilli và xử lý thống kê theo phần mềm
MSTATC.
Thí nghiệm ngòai đồng bố trí hoàn toàn
ngẫu nhiên với 3 lần lặp lại, mỗi lần lặp lại là 1
cây mãng cầu 6 năm tuổi. Các công thức thí
nghiệm với 4 nồng độ dịch bào tử nấm là 1.10
8
,
5.10
8

, 7.10
8
và 9.10
8
bào tử/ml (tương ứng với
100, 500, 700 và 900 triệu bào tử/ml). Công
thức đối chứng không xử lý nấm. Mỗi cây theo
dõi 4 cành theo 4 hướng, cố định từ 3-5
quả/cành, loại bỏ bớt những con rệp sáp nhỏ và
bao quả lại. Đếm số rệp sống trước 1 ngày và
sau khi phun nấm 3, 5, 7, 14 và 21 ngày. Hiệu
lực của nấm được hiệu đính theo công thức
Henderson-Tilton.
III. KếT QUả NGHIÊN CứU
3.1 Hiệu lực của nấm Metarhizium
anisopliae trên rệp sáp giả Dysmicoccus spp.
trong phòng thí nghiệm
Kết quả thí nghiệm cho thấy ở nồng độ 7.10
8

và 9.10
8
bào tử/ml có tỷ lệ rệp sáp giả chết đạt
62,2-82,2% vào thời điểm 5 ngày sau xử lý.
Trong khi đó, ở nồng độ 1.10
8
và 5.10
8
bào tử/ml
rệp sáp giả chết với tỷ lệ thấp và chỉ đạt 27,8-

43,3%. Tỷ lệ chết này có sự khác biệt rất có
nghĩa so với công thức đối chứng không xử lý
nấm. ở 7 ngày sau xử lý, tất cả các công thức xử
lý nấm đều có tỷ lệ rệp sáp giả chết đạt trên 60%.
Tỷ lệ rệp sáp giả chết ở 21 ngày sau xử lý đạt
100% ở cả 4 nồng độ dịch bào tử thí nghiệm.
Công thức đối chứng có tỷ lệ rệp sáp chết khác
biệt rất có nghĩa so với các công thức có xử lý
nấm (bảng 1). Rệp sáp giả chết ở công thức đối
chứng là chết tự nhiên trong quá trình nhân nuôi
và hòan tòan không có nấm mọc trên xác rệp sáp
giả chết.
Theo dõi thí nghiệm cho thấy xác rệp sáp giả
chết thu từ các công thức đối chứng (ở 14 và 21
ngày sau xử lý) không có nấm mọc và bao phủ
bên ngòai; các xác rệp sáp giả này teo lại rồi khô
và bong ra khỏi quả na. Trong khi đó, xác rệp sáp
giả chết thu từ các công thức xử lý nấm đều có
nấm mọc trở lại sau khi được ủ ấm trong các đĩa
petri có lót giấy khử trùng. Vào thời điểm 21
ngày sau chết, xác rệp sáp giả chết mọc nấm với
tỷ lệ rất cao, đạt 66,7-88,9% ở cả 4 nồng độ dịch
bào tử thí nghiệm (bảng 2).
Chết do nhiễm nấm Metarhizium anisopliae,
rệp sáp giả có cơ thể hóa cứng, bên ngòai bao
phủ lớp sợi nấm màu trắng (5 ngày sau chết) và
chuyển sang màu xanh lục (sau khi ủ ẩm 14
ngày). Nấm được kiểm tra dưới kính hiển vi
quang học ở độ phóng đại 400 lần và được nuôi
cấy trở lại trên môi trường PDA đã xác nhận là

nấm Metarhizium anisopliae.
Bảng 1. Hiệu lực của nấm M. anisopliae đối với nhau rệp sáp giả Dysmicoccus spp.
Nồng độ dịch bào tử
(bào tử/ml)
Tỷ lệ rệp sáp giả chết sau xử lý nấm (%)
1NSXL 3NSXL 5NSXL 7NSXL 14NSXL 21NSXL
Nồng độ 1.10
8
0,0 18,9b 27,8c 64,4b 84,4b 100
Nồng độ 5.10
8
0,0 20,0b 43,3bc 76,7b 86,7b 100
Nồng độ 7.10
8
0,0 31,1ab 62,2ab 85,6a 92,2b 100
Nồng độ 9.10
8

0,0 41,1a 82,2a 92,2a 98,9a 100
Đối chứng 0,0 0,0c 0,0d 0,0c 34,4c 50,0
CV(%) - 18,49 14,18 6,54 6,94 -
Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 3/2008

24

LSD
0,01
- 12,07 14,04 8,629 11,94 -

Ghi chú: * số trung bình của 4 lần lặp lại;

NSXL: ngày sau xử lý;
Số liệu đã chuyển đổi sang arcsin(x)
1/2
trước khi tiến hành phân tích;
Các số theo sau cùng một chữ thì không có sự khác biệt về mặt thống kê ở mức 0,01.
Bảng 2. Tỷ lệ mọc nấm trên xác rệp sáp giả Dysmicoccus sp. chết
do xử lý nấm M. anisopliae
Nồng độ dịch bào tử
(bào tử/ml)
Tỷ lệ xác rệp sáp giả mọc nấm sau khi chết (%)
1NSC 3NSC 5NSC 7NSC 14NSC 21NSC
Nồng độ 1.10
8
0,0 0,0 28,0 38,3 58,4 66,7
Nồng độ 5.10
8
0,0 5,6 30,8 42,2 54,6 71,1
Nồng độ 7.10
8
0,0 7,1 37,5 44,0 79,2 86,7
Nồng độ 9.10
8
0,0 16,2 51,4 67,1 73,3 88,9
Đối chứng 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0
Ghi chú: Số liệu trung bình của 4 lần lặp lại. NSC: ngày sau chết.

Như vậy, nấm Metarhizium anisopliae có khả
năng gây chết cho rệp sáp giả Dysmicoccus sp.
với tỷ lệ rệp chết rất cao 100% và xác rệp sáp giả
chết đã mọc nấm từ 86,7-88,9% vào thời điểm 21

ngày sau khi rệp chết.
Thí nghiệm trong phong cho thấy hiệu lực của
nấm Metarhizium anisopliae đối với rệp sáp giả
Dysmicoccus sp. đạt khá cao và có tác dụng trong
một thời gian dài (đến 21 ngày sau xử lý nấm).
Sau xử lý 3 ngày, các nồng độ 1.10
8
, 5.10
8
, 7.10
8

bào tử/ml có hiệu lực đạt thấp là 18,9-31,1% và
chưa thể hiện sự sai khác giữa 3 nồng độ này.
Hiệu lực có sự khác biệt rất có nghĩa giữa nồng
độ 9.10
8
bào tử/ml với nồng độ 1.10
8
và 5.10
8
bào
tử/ml. ở 7 ngày sau xử lý, hiệu lực của nấm khá
cao, đạt 64,4-92,2%% ở cả 4 nồng độ bào tử. Đến
21 ngày sau xử lý nấm, hiệu lực đối với rệp sáp
giả Dysmicoccus sp. là 100% và không có sự
khác biệt về mặt thống kê ở cả 4 nồng độ dịch
bào tử thí nghiệm (bảng 3).
Hiệu lực gây chết cho rệp sáp giả
Dysmicoccus sp. tăng theo nồng độ dịch bào tử

nấm và tăng theo thời gian sau xử lý. Nồng độ
dịch bào tử càng cao thì tỷ lệ rệp sáp giả chết
càng cao điều này có thể có liên quan đến cơ hội
tiếp xúc của bào tử nấm Metarhizium anisopliae
đối với rệp sáp giả do khả năng bào tử được bám
dính nhiều hơn.
Bảng 3. Hiệu lực (%) diệt rệp sáp giả Dysmicoccus spp. của nấm
Metarhizium anisopliae ở các nồng độ huyền phù bào tử khác nhau
Nồng độ dịch bào tử
(bào tử/ml)
Hiệu lực đối với rệp sáp giả ở các thời điểm sau xử lý (%)
1NSXL 3NSXL 5NSXL 7NSXL 14NSXL 21NSXL
Nồng độ 1.10
8
0,0 18,9b 27,8c 64,4c 76,2b 78,6 c
Nồng độ 5.10
8
0,0 20,0b 43,3bc 76,7bc 79,7b 81,2 c
Nồng độ 7.10
8
0,0 31,1ab 62,2ab 85,6ab 88,3ab 89,4 b
Nồng độ 9.10
8

0,0 41,1a 82,2a 92,2a 98,3a 98,5 a
CV(%) - 16,60 12,72 5,86 9,28 2,71
LSD0,01 - 9,818 16,62 10,21 17,83 6,448
Ghi chú: - Số liệu trong một cột có cùng chữ cái theo sau không khác biệt ở mức 0,01.
Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 3/2008


25
- Số liệu đã chuyển đổi sang arcsin(x)
1/2
trước khi tiến hành phân tích.
- NSXL: ngày sau xử lý.

3.2. Hiệu lực của nấm Metarhizium
anisopliae đối với rệp sáp giả Dysmicoccus spp.
trên cây na ở vườn
Hiệu lực của nấm Metarhizium anisopliae đối với
rệp sáp giả trên cây na ở vườn ghi nhận được từ 7
ngày sau xử lý và kéo dài đến 21 ngày sau xử lý. ở 7
ngày sau xử lý, công thức với nồng độ 7.10
8
và 9.10
8

bào tử/ml cho hiệu lực khá là 58,4-63,8% và có sự
khác biệt rất có nghĩa so với công thức ở nồng độ
1.10
8
và 5.10
8
bào tử/ml. Tuy nhiên, không có sự
khác biệt về mặt thống kê ở 2 nồng độ này. ở 14 và
21 ngày sau xử lý, công thức với nồng độ 9.10
8
bào
tử/ml có hiệu lực đối với rệp sáp giả khá cao (75,4-
77,5%) và có sự khác biệt rất có nghĩa so với 3 nồng

độ còn lại (bảng 4). Như vậy, hiệu lực của nấm tăng
dần theo nồng độ dịch bào tử và theo thời gian sau
xử lý. Trong thời gian từ ngày 14 đến ngày 21 sau xử
lý hiệu lực tăng không đáng kể. Do đó việc đánh giá
kết quả thí nghiệm ngòai đồng có thể kết thúc trong
khỏang thời gian từ 14 đến 21 ngày hoặc có thể phun
tiếp lần 2 trong thời gian này.
Bảng 4. Hiệu lực của nấm Metarhizium anisopliae đối với rệp sáp giả
trên mãng cầu ta ở các thời điểm khác nhau (Quận 9, Tp.HCM, 2006)
Nồng độ dịch bào tử
(bào tử/ml)
Hiệu lực đối với rệp sáp giả ở các thời điểm sau xử lý (%)
3NSXL 5NSXL 7NSXL 14NSXL 21NSXL
Nồng độ 1.10
8
8,2 b 25,2 c 34,4 c 53,1 c 55,6 c
Nồng độ 5.10
8
11,3 b 27,6 c 48,8 b 64,7 b 66,9 b
Nồng độ 7.10
8
16,7 a 32,8 b 58,4 a 66,5 b 69,2 b
Nồng độ 9.10
8

18,9 a 37,6 a 63,8 a 75,4 a 77,5 a
CV% 12,65 4,65 4,24 3,83 2,19
LSD
0,01


3,059 4,355 6,601 7,506 4,450
Ghi chú: - Các số trong cùng một cột có cùng một chữ cái theo sau không
khác biệt có ý nghĩa ở mức 0,01 theo trắc nghiệm LSD.
- NSXL: ngày sau xử lý.

Các công thức thí nghiệm cùng nồng độ dịch
bào tử, thì hiệu lực ở ngòai đồng thấp hơn so với
hiệu lực ở trong phòng. Điều này là tất nhiên, do
ở ngòai đồng có nhiều yếu tố tác động đến bào tử
nấm thí nghiệm, cây na và rệp sáp giả
Dysmicoccus sp. Do vậy, để sử dụng nấm có hiệu
quả cao ở ngòai đồng ruộng cần phải tăng nồng
độ dịch bào tử nhằm tăng cơ hội bám dính của
bào tử nấm lên cơ thể rệp sáp giả Dysmicoccus
sp.
IV. KếT LUậN
Trong điều kiện phòng thí nghiệm, nấm
Metarhizium anisopliae có hiệu lực cao đối với rệp
sáp giả Dysmicoccus sp. ở nồng độ 9.10
8
bào tử/ml,
sau 5 ngày xử lý, rệp sáp giả chết với tỷ lệ là 82,2%
và từ 7 ngày đến 21 ngày sau xử lý, cả 4 nồng độ
dịch bào tử thí nghiệm cho tỷ lệ rệp sáp giả chết là
100%. Trong điều kiện được ủ ẩm, vào thời điểm 5
và 21 ngày sau chết, xác rệp sáp giả chết đã mọc
nấm tương ứng với tỷ lệ 28,0-51,4% và 66,7-88,9%.
Hiệu lực diệt rệp sáp giả tăng dần theo nồng độ dịch
bào tử nấm và theo thời gian sau xử lý. Hiệu quả trừ
rệp sáp giả trên na của nấm Metarhizium anisopliae

ở điều kiện đồng ruộng thấp hơn so với ở phòng thí
nghiệm, nhưng cũng đạt 55,6-77,5%.

TàI LIệU THAM KHảO
1. Benjamin M.A., Zhioua E, Ostfeld R.S.
(2002), Laboratory and field evaluation of the
entomophathogenic fungus Metarhizium
anisopliae (Deuteromycetes) for controlling
Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 3/2008

26

questing adult Ixodes scapularis (Acari: Ixodiae).
Med. Entomol. 39(5): 723 – 728.
2. Nguyễn Thị Chắt (2001), Nghiên cứu sự
phát sinh, phát triển của rệp sáp giả
Pseudococcidae trên cà phê, cây ăn trái chính ở
miền Nam và bước đầu xây dựng biện pháp
phòng trị. Đề tài nghiên cứu Cấp Bộ. Trường ĐH
Nông Lâm, Tp. Hồ Chí Minh, 113 trang.
3. Nguyễn Thị Chắt (2005), Nghiên cứu rệp sáp
Coccinea, phổ ký chủ của chúng và biện pháp
phòng trị trên cây ăn trái, cây công nghiệp dài ngầy
tại địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh
Miền Đông Bộ. Đề tài nghiên cứu Cấp Bộ. Trường
ĐH Nông Lâm, Tp. Hồ Chí Minh, 98 trang.
4. Molina Ochoa J., Rebolledo Domiguez O.,
Pescador A.R. et al., (2000), Virulence of
Metarhizium anisopliae (Deuteromycotina:
Hyphomycetes) on Anastrepha ludens.(Diptera:

Tephritidae) laboratory and field trials. Entomol.,
93(4):1080-1084.



×