Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Những bệnh trẻ sơ sinh dễ mắc potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.51 KB, 10 trang )



Những bệnh trẻ sơ sinh
dễ mắc

Trẻ sơ sinh mới chào đời do hệ miễn dịch còn yếu, sức đề
kháng với các loại vi khuẩn kém nên dễ bị nhiễm một số
bệnh, đặc biệt là các bệnh như ngạt thở, nhiễm trùng
máu, viêm mắt…
Cha mẹ cần chú ý đến những bệnh thường gặp dưới đây để
kịp thời xử lý cho trẻ nhé!
Ngạt thở
Ngạt – một tình trạng bệnh lý của trẻ do thiếu oxy trong máu.
Nguyên nhân gây ngạt thở có thể là:
Thiếu oxy;
Chấn thương nội sọ ;
Miễn dịch không tương thích giữa máu mẹ và thai nhi;
Nhiễm trùng trong tử cung;
Tắc nghẽn một phần hoặc toàn đường hô hấp của bào thai;
Dị tật của thai nhi.
Trong thực tế, ngạt ở trẻ sơ sinh thể hiện ngay lập tức sau khi
trẻ ra đòi không kịp lấy hơi thở hoặc thở không đều. Trong
tình trạng này, trẻ ngay lập tức phải được trợ giúp y tế.
Yêu sức khỏe - Sức khỏe! Chuyên mục về tin tức sức khỏe, tư
vấn trực tuyến, gia đình, tin tức làm đẹp, đời sống, y tế.
Viêm mắt
Viêm mắt ở trẻ sơ sinh, tương tự như viêm kết mạc, là bệnh
thường gặp khi trẻ mới sinh được vài ngày, với các triệu
chứng hai mi sưng nề, đỏ, chảy nước mắt kèm dử mắt, trẻ
khó mở mắt thậm chí không mở được mắt…
Nguyên nhân chủ yếu gây viêm kết mạc ở trẻ sơ sinh là do


trẻ bị nhiễm khuẩn từ đường sinh dục của người mẹ khi sinh
(hay gặp nhất là do lậu, chlamydia…), do nhiễm khuẩn từ
trong bụng mẹ (thường gặp trong những trường hợp vỡ ối
sớm) hoặc do trẻ không được chăm sóc, vệ sinh tốt trong
những ngày đầu sau sinh…
Do tính chất cấp tính của bệnh cho nên ngay sau khi sinh trẻ
cần được theo dõi, chăm sóc mắt và vệ sinh thân thể tốt. Nếu
thấy có biểu hiện viêm kết mạc trẻ cần được điều trị ngay tại
cơ sở y tế chuyên khoa để tránh ảnh hưởng đến thị lực của
trẻ, nặng hơn có thể dẫn đến mù lòa.

Yêu sức khoẻ! Trang tin tức sức khoẻ tổng hợp, đem lại kiến
thức sức khoẻ, mẹo vặt phòng bệnh chữa bệnh cho gia đình,
những bài thuốc chữa bệnh nhân gian.
Trẻ sơ sinh mới chào đời do hệ miễn dịch còn yếu, sức đề
kháng với các loại vi khuẩn kém nên dễ bị nhiễm một số
bệnh.
Bệnh huyết tán
Bệnh huyết tán – một căn bệnh gây ra do sự không tương
thích giữa máu mẹ và thai nhi. Thông thường, bệnh phát triển
không do sự không tương thích của yếu tố Rh trong máu mẹ
và thai nhi. Bệnh xuất hiện khi các kháng thể máu của người
mẹ phá hủy tế bào máu của thai nhi.
Bệnh huyết tán ở trẻ sơ sinh do nguyên nhân này thường phát
triển sau lần mang thai thứ hai của người mẹ. Có nhiều biểu
hiện bệnh khác nhau, nhẹ thì có thể được điều trị bằng thuốc,
nhưng nặng thì trẻ cần phải được truyền máu suốt đời.
Vẹo cổ
Vẹo cổ bẩm sinh do cơ ức đòn chũm bị co rút là bệnh thường
gặp ở trẻ sơ sinh. Nguyên nhân chủ yếu của chứng này có thể

do tư thế xấu của thai nhi trong tử cung; người mẹ khi mang
thai thiếu vận động dẫn đến nuôi dưỡng cơ ức đòn chũm bị
hạn chế; hoặc trong khi sinh nở cơ ức đòn chũm bị chấn
thương, mạch máu trong cơ bị xuất huyết, từ cục máu đông bị
xơ hoá kích thích nhóm cơ này co rút.
Trong 2 tuần đầu tiên sau sinh, cha mẹ có thể phát hiện bệnh
nếu quan sát thấy đầu của trẻ nghiêng xuống một bên vai
trong khi cằm lại quay về hướng khác. Rõ hơn, cha mẹ có thể
sờ thấy rên cơ ức đòn chũm có một khối u cơ rắn chắc, khác
với phản ứng hạch trong các chứng viêm nhiễm. Y học chưa
tìm được nguyên nhân của căn bệnh này song theo các
nghiên cứu, những trẻ sinh ngược thường mắc bệnh.
Nếu được phát hiện và điều trị sớm bệnh có thể khỏi hoàn
toàn, càng để muộn sẽ dễ dàng gây nhiều biến chứng và khó
khăn cho việc điều trị, thậm trí gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến thẩm mỹ và sức khỏe.
Thoát vị rốn
Thoát vị rốn là một dị tật khá phổ biến ở trẻ nhỏ. Nó xảy ra
khi nội tạng trong ổ bụng chui ra ngoài, tạo thành một khối
lồi tại vùng rốn. Khối thoát vị có thể chứa dịch, một phần nội
tạng ví dụ như ruột, hoặc các tổ chức khác từ ổ bụng. Thoát
vị rốn xảy ra thường xuyên nhất ở các bé sinh non hoặc có
cân nặng khi sinh thấp. Dị tật này xảy ra nhiều hơn ở các bé
gái.
Trẻ được sinh ra với dây rốn gắn ở bụng. Dây này đưa chất
dinh dưỡng tới nuôi bé trong suốt thời gian trong bụng mẹ và
nó được cắt sau khi bé chào đời. Trong vòng 1-2 tuần sau khi
sinh, cuống rốn teo dần và rụng đi, vết thương tự lành và tạo
nên rốn của trẻ.
Lỗ ở thành bụng nơi dây rốn đi qua sẽ tự đóng lại khi bé lớn

lên. Thoát vị rốn xảy ra khi các cơ bụng đóng không kín.
Những trường hợp nhẹ (lỗ thoát vị có đường kính dưới 2cm,
không làm trẻ đau đớn khi khóc, vận động), lỗ thoát vị có thể
tự liền lại trong vài năm đầu. Đối với những trường hợp thoát
vị lớn, các cơ quan trong khoang bụng có thể thoát ra nhiều
và gây nguy hiểm (nghẹt ruột, dẫn đến hoại tử, nếu chậm
được giải thoát có thể phải cắt bớt ruột, thậm chí tử vong) thì
giải quyết càng sớm càng tốt bằng cách mổ để khâu kín chỗ
hở, vừa giải quyết triệt để vừa phòng nghẹt ruột. Nếu thấy
rốn lồi to lên một cách bất thường, có sự thay đổi về màu sắc,
trẻ đau, khóc, nôn nhiều… thì nên đưa trẻ đi khám bệnh.
Nhiễm trùng huyết
Nhiễm trùng huyết sơ sinh là bệnh gây tổn thương nhiều cơ
quan kèm du khuẩn huyết, xảy ra trong tháng đầu sau sinh.
Tác nhân gây nhiễm trùng huyết nguyên phát thường là:
Streptococcus nhóm B, E.coli, Listeria Vi khuẩn gây nhiễm
trùng bệnh viện thay đổi theo từng đơn vị chăm sóc trẻ,
thường là: Staphylococcus epidermidis, Staphylococcus
aureus, Klebsiella…
Đây là một bệnh nặng, nguy hiểm đến tính mạng trẻ và
thường có kèm theo viêm màng não mủ. Bệnh có thể xảy ra
trước, trong và sau khi sinh.
Trẻ mới sinh dễ nhiễm trùng vì trong lúc sinh nếu không thực
hiện đỡ đẻ sạch (bàn tay người đỡ sạch, dụng cụ sạch, nơi đẻ
sạch…) thì vi trùng đi qua da, dây rốn và vào máu, lan tràn
khắp cơ thể, trong đó có não, gây viêm não – màng não, rất
dễ để lại di chứng kể cả khi đã được điều trị tích cực.
Nhiễm trùng máu ở trẻ liên quan nhiều đến bà mẹ trong thời
kỳ mang thai, điều kiện và môi trường nuôi dưỡng trẻ, thời
gian chuyển dạ, thời gian vỡ ối, tình trạng can thiệp trong lúc

sinh…
Vì vậy, mỗi bà mẹ cần nâng cao kiến thức về chăm sóc thai
nghén, khám thai định kỳ; nếu có viêm nhiễm âm đạo hoặc
bệnh lây qua đường tình dục… thì phải được chữa trị triệt để.
Khi đẻ, phải đến cơ sở y tế để được nữ hộ sinh theo dõi và
đỡ. Dụng cụ đỡ phải tiệt trùng, bàn tay người đỡ phải được
rửa sạch bằng nước chín, đi găng vô trùng. Nếu thai phụ vỡ
ối sớm, phải dùng ngay kháng sinh để phòng nhiễm khuẩn.
Tùy loại vi khuẩn xâm nhập vào máu mà trẻ có các biểu hiện
lâm sàng sớm hoặc muộn khác nhau, tiên lượng bệnh và thời
gian sử dụng kháng sinh cũng khác nhau. Để việc điều trị đạt
kết quả cao, nhất thiết phải làm kháng sinh đồ để tìm loại
thuốc đặc trị với loại vi trùng gây bệnh.
Trường hợp nhiễm trùng máu có kèm theo viêm màng não
mủ thì thời gian dùng kháng sinh đặc trị phải kéo dài ít nhất 3
tuần.

×