Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Giáo trình Mỹ thuật trang phục (Nghề May thời trang Cao đẳng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.59 MB, 103 trang )

`
BỘ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ KỸ THUẬT CƠNG NGHỆ

GIÁO TRÌNH
Mơn học: Mỹ thuật trang phục
NGHỀ: MAY THỜI TRANG
TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG

Ban hành kèm theo Quyết định số: .............ngày.......tháng ...... năm .........
của ..................................

Hà Nội, năm 2021


1
TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN
Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nội bộ nên các nguồn thơng tin có
thể được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và
tham khảo.
Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh
doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.


2
LỜI GIỚI THIỆU
Trang phục là một trong những nhu cầu thiết yếu của con người. Xã hội
ngày càng phát triển thì nhu cầu mặc đẹp của con người cũng ngày một lớn.
Trang phục không những bảo vệ con người trước thiên nhiên mà còn giúp người
mặc đẹp hơn và còn thể hiện được cá tính của bản thân. Giáo trình Mỹ thuật
trang phục được biên soạn nhằm đáp ứng nhu cầu tài liệu, học tập của giáo viên


và sinh viên nghề May thời trang. Giáo trình cung cấp những kiến thức cơ bản
về trang phục, lịch sử trang phục Việt Nam và các kiến thức về thời trang và
mốt.
Ban biên soạn giáo trình Khoa May thời trang - Trường Cao đẳng nghề kỹ
thuật công nghệ đã tiến hành biên soạn giáo trình Mỹ thuật trang phục với thời
lượng 30 giờ.
Giáo trình gồm hai chương:
Chương 1 - Lịch sử phát triển trang phục Việt Nam, giới thiệu khái quát
về nguồn gốc, chức năng của trang phục, lịch sử phát triển trang phục Việt Nam
từ thời Hùng Vương đến giai đoạn thống nhất đất nước (1975- 1990) và các kiến
thức về thời trang và mốt.
Chương 2 - Nghệ thuật phối màu, tạo hình trên trang phục, trình bày các
kiến thức về màu sắc, hình dáng, hoạ tiết, chất liệu và nghệ thuật xây dựng bố
cục trang phục.
Trong quá trình biên soạn giáo trình chắc chắn cịn những vấn đề chưa
hồn chỉnh. Vì vậy rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp quý báu của các
thầy, cô giáo, các bạn học sinh, sinh viên và đông đảo các bạn đọc để giáo trình
ngày càng hồn thiện hơn.
.
Tham gia biên soạn
1. Chủ biên: Phùng Thị Nụ
2. Biên soạn: Đào Thị Thủy
Trần Thị Ngọc Huế


3
MỤC LỤC
CHƯƠNG I ........................................................................................................... 8
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN TRANG PHỤC VIỆT NAM ........................................ 8
1. Khái quát về trang phục ................................................................................ 8

1.1. Nguồn gốc của trang phục...................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm về trang phục ................................................................. 8
1.1.2. Nguồn gốc của trang phục .............................................................. 9
1.2. Chức năng của quần áo ........................................................................ 10
1.3. Phân loại trang phục ............................................................................. 11
1.3.1. Phân loại quần áo theo giới tính, lứa tuổi ..................................... 11
1.3.2. Phân loại quần áo theo mùa khí hậu ............................................. 11
1.3.3. Phân loại quần áo theo chức năng sử dụng ................................... 11
1.3.4. Phân loại theo ý nghĩa xã hội ........................................................ 12
2. Lịch sử phát triển trang phục Việt Nam ...................................................... 12
2.1. Trang phục thời Hùng Vương .............................................................. 12
2.1.1. Kiểu váy áo phụ nữ ...................................................................... 12
2.1.2. Kiểu khố của đàn ông.................................................................... 14
2.1.3. Trang phục lễ hội .......................................................................... 14
2.1.4. Trang phục chiến binh................................................................... 15
2.1.5. Kiểu đầu tóc .................................................................................. 15
2.1.6. Hình thức trang sức và trang điểm ................................................ 15
2.2. Trang phục thời phong kiến ................................................................. 16
2.2.1. Trang phục thời Ngô - Đinh - Tiền Lê .......................................... 16
2.2.2. Trang phục thời Lý........................................................................ 17
2.2.3. Trang phục thời Trần..................................................................... 18
2.2.4. Trang phục thời Nguyễn ............................................................... 20
2.3. Trang phục thời Pháp thuộc ................................................................. 25
2.4. Trang phục thời kỳ chống Pháp ........................................................... 26
2.5. Trang phục thời kháng chiến chống Mỹ .............................................. 27
2.6. Trang phục thời giai đoạn thống nhất đất nước (1975-1990) .............. 27
2.7. Trang phục các dân tộc Việt Nam........................................................ 28
2.7.1. Trang phục dân tộc Thái ............................................................... 28
2.7.2. Trang phục dân tộc Tày ................................................................ 29
2.7.3. Trang phục dân tộc H'mông .......................................................... 29

2.7.4. Trang phục dân tộc Nùng .............................................................. 30
2.7.5. Trang phục dân tộc Mường ........................................................... 31
2.7.6. Trang phục một số dân tộc khác ................................................... 32
3. Thời trang và mốt ........................................................................................ 34
3.1. Khái niệm thời trang và mốt ................................................................ 34


4
3.1.1. Thời trang ...................................................................................... 34
3.1.2. Mốt ................................................................................................ 34
3.1.3. Mốt thời trang................................................................................ 35
3.2. Những tính chất chung của thời trang và mốt ...................................... 36
3.2.1. Tính văn hố - xã hội .................................................................... 36
3.2.2. Tính nghệ thuật ............................................................................. 37
3.3. Đặc điểm của “mốt” ............................................................................. 38
3.3.1. Tính thời sự, mới, lạ ...................................................................... 38
3.3.2. Tính tâm lý - xã hội ....................................................................... 39
3.3.3. Tính chu kì .................................................................................... 40
3.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của thời trang ......................... 43
3.4.1. Luật pháp ....................................................................................... 43
3.4.2. Khơng khí chính trị ....................................................................... 44
3.4.3. Kĩ thuật và cơng nghệ ................................................................... 44
3.4.4. Sự thịnh vượng hay suy thoái kinh tế ........................................... 44
3.4.5. Ảnh hưởng của phương tiện truyền thông .................................... 45
CHƯƠNG II ........................................................................................................ 46
NGHỆ THUẬT PHỐI MÀU, TẠO HÌNH TRÊN TRANG PHỤC ................... 46
Mã chương: MH 13-02........................................................................................ 46
1. Màu sắc đối với trang phục ........................................................................ 46
1.1. Vòng màu cơ bản ................................................................................. 46
1.1.1. Nguồn gốc của màu sắc................................................................. 46

1.1.2. Vòng màu cơ bản .......................................................................... 47
1.2. Các khái niệm cơ bản về màu sắc ........................................................ 49
1.2.1. Màu hữu sắc và màu vơ sắc .......................................................... 49
1.2.2. Màu nóng, màu lạnh...................................................................... 49
1.2.3. Màu tương đồng, màu tương phản ................................................ 49
1.2.4. Màu bổ túc..................................................................................... 50
1.2.5. Sắc độ ........................................................................................... 50
1.2.6. Sắc điệu ........................................................................................ 50
1.2.7. Sắc loại ......................................................................................... 50
1.2.8. Độ thuần màu ............................................................................... 51
1.2.9. Độ sáng, tối .................................................................................. 51
1.2.10. Độ rực (độ tươi, độ chói) ............................................................ 51
1.3. Những tính chất cơ bản của màu sắc ................................................... 51
1.3.1. Tính chất đối sánh màu ................................................................. 51
1.3.2. Tác động tâm lý của màu sắc ........................................................ 52
1.3.3. Tính viễn cận và độ nặng nhẹ ....................................................... 53
1.3.5. Khả năng diễn tả biểu chất ........................................................... 53
1.4. Màu sắc được ứng dụng trên trang phục .............................................. 53
1.4.1. Màu trong lĩnh vực thời trang ....................................................... 53
1.4.1.1. Vòng màu thời trang .............................................................. 53


5
1.4.1.2. Con quay màu ....................................................................... 55
1.4.2. Hòa sắc trên trang phục ................................................................. 56
1.4.2.1. Các nguyên tắc phối màu trên trang phục.............................. 56
1.4.2. 2. Một số điểm cần chú ý khi phối màu trên trang phục........... 62
2. Hình dáng, hoạ tiết, chất liệu ...................................................................... 64
2.1. Hình dáng cơ bản của trang phục ......................................................... 64
2.2. Phương pháp tạo hình trên trang phục ................................................. 67

2.3. Thiết kế hoạ tiết trang trí trên trang phục ............................................ 68
2.3.1. Đường ............................................................................................ 68
2.3.2. Nét ................................................................................................. 70
2.3.3. Điểm .............................................................................................. 70
2.3.4. Họa tiết trang trí ............................................................................ 70
2.3.5. Khoảng cách, khoảng trống .......................................................... 72
2.4. Nghệ thuật sử dụng chất liệu ................................................................ 72
3. Bố cục trang phục........................................................................................ 74
3.1. Nghệ thuật xây dựng bố cục trang phục .............................................. 74
3.1.1. Quan hệ tỷ lệ ................................................................................. 74
3.1.2. Quan hệ đối lập ............................................................................. 77
3.1.3. Quan hệ nhịp điệu ......................................................................... 78
3.2. Quan hệ giữa bố cục trang phục và đặc điểm cơ thể người mặc ......... 81
3.3. Phong cách thể hiện ............................................................................. 84
3.3.1. Phong cách cổ điển........................................................................ 84
3.3.2. Phong cách thể thao ...................................................................... 86
3.3.3. Phong cách lãng mạn .................................................................... 88
3.3.4. Phong cách dân gian...................................................................... 89
3.3.5. Phong cách viễn tưởng .................................................................. 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 100


6
MƠN HỌC: MỸ THUẬT TRANG PHỤC
Mã mơn học: MHMTT13
Vị trí, tính chất, ý nghĩa và vai trị của mơn học:
- Vị trí: là mơn học được bố trí học học song song hoặc học sau các mô đun
thiết kế.. Môn học này được bố trí vào học kì I của năm học thứ nhất.
- Tính chất: Mơn học Mỹ thuật trang phục là mơn học cơ sở nằm trong
nhóm các mơn học trong chương trình đào tạo Cao đẳng nghề may thời trang và

là môn học lý thuyết kết hợp với làm bài tập thực hành.
- Ý nghĩa: là kiến thức cơ bản của nghề May thời trang, nhằm trang bị cho
người học những kiến thức cơ bản về trang phục, thời trang, mốt và lịch sử phát
triển trang phục Việt Nam. Sau khi học xong sẽ người học hiểu thêm về thói
quen, thị hiếu thẩm mỹ, tập quán mặc trong q khứ của dân tộc ta. Bên cạnh
đó, mơn học này còn giúp người học hiểu về màu sắc trong lĩnh vực thời trang
và nghệ thuật tạo hình trên trang phục.
- Vai trò: Ở Việt Nam hiện nay ngành công nghiệp thời trang đang cuốn hút
rất nhiều bạn trẻ. Môn học này sẽ giúp người học rất nhiều kiến thức bổ ích về
thời trang.
Mục tiêu của mơn học:
- Trình bày được lịch sử phát triển trang phục Việt Nam qua các thời kỳ,
khái niệm về mốt và xu hướng phát triển của mốt;
- Sử dụng, phối hợp màu sắc và hoa văn hoạ tiết trên trang phục đạt hiệu
quả thẩm mỹ;
- Xây dựng được bố cục trang phục hợp lý phù hợp với đặc điểm cơ thể
người. Tự giác, tích cực học tập và phát huy tính sáng tạo để nâng cao trình độ.


7
Nội dung của môn học:
Thời gian
Số
TT
I

Tên chương/mục

Lịch sử phát triển trang phục
Việt Nam

Khái quát về trang phục
Lịch sử ph át triển trang phục Việt
Nam
Thời trang và mốt
Kiểm tra
II Nghệ thuật phối màu, tạo hình trên
trang phục
Màu sắc trong lĩnh vực thời trang
Hình dáng, hoạ tiết, chất liệu
Bố cục trang phục
Kiểm tra
Thi kết thúc môn học
Cộng

Thực
Tổng

hành, bài
số thuyết
tập
12

11

4
3

4
3


4
1
17

4

7
3
6
1
1
30

16
7
3
6
27

Kiểm
tra*
(LT
hoặc
TH)
1

1
1

1

1
3


8
CHƯƠNG I
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN TRANG PHỤC VIỆT NAM
Mã chương: MHMTT13-01
Giới thiệu:
Mỗi dân tộc đều có cách ăn mặc riêng, vì vậy, trang phục trở thành biểu
tượng của văn hóa dân tộc. Việt Nam bao gồm nhiều dân tộc, mỗi dân tộc mang
đậm nét một bản sắc văn hóa độc đáo. Thơng qua cái nhìn về lịch sử phát triển
trang phục Việt Nam, ta thấy trang phục người Việt, từ dạng kiểu đơn sơ, giản dị,
đẹp như tâm hồn người Việt cổ tiếp tục phát triển, hài hịa với mơi trường khắc
nghiệt của thiên nhiên nhiệt đới, khỏe khoắn với bao cuộc chiến tranh chống
ngoại xâm liên miên. Trang phục người Việt là một trong những gì thân thiết
nhất đối với con người Việt Nam.
Mục tiêu:
 Trình bày khái quát về nguồn gốc, chức năng của trang phục;
 Hiểu về sự phát triển của trang phục Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử;
 Phân tích được các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của thời trang và
mốt;
 Rèn luyện tính cẩn thận, tỉ mỉ, tác phong cơng nghiệp.
Nội dung chính:
1. Khái qt về trang phục
Mục tiêu:
 Trình bày khái quát về nguồn gốc, chức năng của trang phục;
 Phân loại được trang phục.
1.1. Nguồn gốc của trang phục
1.1.1. Khái niệm về trang phục

Trang phục bao gồm tất cả những gì con người mang khốc trên cơ thể, kể
cả đồ đội trên đầu, đồ đi dưới chân, đồ đắp trên mặt và những gì được sử dụng
kèm theo quần áo. Về đại thể trang phục gồm có:
- Quần áo;
- Nón, mũ, khăn;
- Giày, dép, guốc;
- Găng, tất;
- Thắt lưnng, túi sách, ví tay…
- Đồ trang sức;
- Mỹ phẩm.


9
Trong số các trang phục, quần áo là quan trọng nhất vì nó chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong tủ trang phục của mỗi người.
1.1.2. Nguồn gốc của trang phục
Mn lồi động vật, chỉ trừ con người, được thiên nhiên cho một thứ gì đó
để che thân: lơng mao, lơng vũ, lơng thú, tóc, vảy, sừng, hoặc một lớp da dày.
Con người chảng có gì trừ một lớp da mỏng và trong hàng ngàn năm họ đã phải
lang thang trên Trái Đất mà khơng có thứ khác che thân nào khác.
Xuất phát từ nhu cầu bảo vệ cơ thể, chống lại các tác động của thiên nhiên,
người xưa tìm kiếm những tấm phủ, những mảnh da, những mảnh vỏ cây để che
cơ thể. Ngay từ thời kì đồ đá, người xưa đã biết đập bẹt và nạo những tấm da thú
để che thân như là quần áo. Những kiểu “trang phục” ban đầu là các mảnh da
thú, các tấm lá che vai, che ngực… sau này phát triển thành những kiểu áo…
sau này trở thành các kiểu váy, quần. Vật liệu ở vùng giàu thực vật là vỏ, lá, sợi
cây, ở vùng giàu động vật là lôn chim, da thú, da cá..
Người ta phát hiện rằng những người thượng cổ khoác lông thú. Loại quần
áo sớm nhất sinh ra do nhu cầu bảo vệ con người chống lại cái lạnh ghê gớm.
Ban đầu động lực phát triển quần áo là điều kiện tự nhiên. Bằng chứng là

quần áo phát trển nhanh ở các vùng khí hậu khắc nghiệt (thường là xứ lạnh) và
phát triển chậm ở các vùng ơn hồ.
Về sau khi kĩ thuật, văn minh phát triển đến trình độ nhất định, nhu cầu vật
chất đa được đáp ứng, con ngưòi sáng tạo ra nhiều chủng loại quần áo nhằm
thoả mãn nhu cầu khác nhau của con người. Theo quan điểm kĩ thuật có 3 cách
tạo dáng quần áo căn bản:
* Tạo dáng quần áo bằng cách quấn, phủ
Tắm da gấu chưa thuộc quấn quanh người là dạng quần áo đơn giản nhất.
Sau đó những tấm da này được khâu và liên kết vói nhau. VD: bộ Sari của người
Ấn Độ.
* Tạo dáng quần áo bằng cách xếp nếp
Lông cừu đã được phát hiện và được xén, quay thành sợi. Vải dệt xuất hiện.
Người dân Ai Cập, La Mã, Hi Lạp đã xếp nếp và gập vải để tạo thành quần áo.
VD: bộ Chiton của người Hi Lạp, bộ Toga của người đàn ông La Mã…
* Tạo dáng quần áo bằng cách cắt, may
Đây là cách tạo dáng quần áo phổ biến nhất trên thế giới. Hầu hết các
chủng loại quần áo được chế tạo theo cách cắt và may. Từ vải cắt thành các chi
tiết với các hình dáng khác nhau, rồi may can với nhau sao cho khi may ráp
xong có sản phẩm có kết cấu và kích thước phù hợp với những đường cong cơ
thể.


10
1.2. Chức năng của quần áo
Chúng ta nhận thấy rằng chúng ta mặc quần áo với nhiều lí do khác nhau.
Phân tích nhu cầu của con người, nhà tâm lý học Abraham Maslow sắp xếp
nhu cầu theo mức độ từ thấp tới cao theo “ tháp nhu cầu”

Tự thể hiện
bản thân

(hiện thực hố các tiềm
năng của mình )
Được kính trọng
( Tự trọng. Được chấp nhận, ủng hộ.
Được kính trọng )
Giao tiếp xã hội
( Yêu và dược yêu, được quý mến, được chia sẻ
tình cảm )
An tồn
( Được bảo vệ, an tồn, có sức khoẻ )
Tồn tại
( Lương thực, nước, ngủ, quần áo, đi lại )

Sơ đồ: Tháp nhu cầu của Abraham Maslow

Nhu cầu để tồn tại: lương thực, nước, ngủ và quần áo phải được đáp ứng
trước hết, đó là nhu cầu vật chất.
Ở cấp độ 2: Quần áo giúp chúng ta bảo vệ an toàn như:
 Trong điều kiện khớ hậu bất lợi, ta cần quần áo để che mưa che nắng.
 Khi xuất hiện các nguy cơ từ mơi trường: trang phục lính cứu hoả, áo
chống đạn…
 Tránh thương tích: mũ bảo hiểm, kính…
Khi nhu cầu ở cấp độ 1, 2 được thoả mãn thì chuyển tới cấp độ cao hơn:
nhu cầu giao tiếp trong quá trình giao tiếp xã hội.
 Trang phục phù hợp lứa tuổi, giới tính
 Trang phục phù hợp hồn cảnh giao tiếp: đám cưới, hội nghị, tôn giáo...
 Trang phục là kênh truyền tải thông tin về người mặc.
Trong giao tiếp nảy sinh nhu cầu được đánh giá, được tôn trọng: mọi người
đều cú quyền tự do lựa chọn quần áo nhưng trong nhiều trường hợp, con người
đều muốn mặc để được chấp nhận, được đánh giá và tơn trọng vì:

 Trang phục giúp người mặc khẳng định mình thuộc cộng đồng nào trong
xã hội.
 Trang phục thể hiện địa vị xã hội


11
Trang phục chính là phương tiện hữu hiệu diễn đạt thân phận của mỗi
người trong xã hội cùng phong tục tập quán, tôn giáo, điều kiện tự nhiên, môi
trường…
Ở thang bậc nhu cầu cao nhất, cấp độ 5, người ta mặc với mục đích thể hiện
bản thân mình
 Trang phục tô điểm, làm đẹp thêm cho người mặc
 Trang phục thể hiện khiếu thẩm mỹ riêng của người mặc
 Trang phục thể hiện tiềm năng kinh tế, cá tính, nhân cách, năng lực,
trình độ văn hóa
 Trang phục biểu lộ sự đồng tình hay phản bác tư tưởng, một lối sống
nào đó trong xó hội
Những phân tích trên cho thấy trang phục cú 3 chức năng cơ bản:
1. Bảo vệ và giữ ấm cơ thể
2. Thể hiện cá tính trong giao tiếp xó hội
3. Được trở nên hấp dẫn hơn
Do đó quần áo đáp ứng cả nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
1.3. Phân loại trang phục
1.3.1. Phân loại quần áo theo giới tính, lứa tuổi
- Quần áo nam
- Quần áo nữ
- Quần áo trẻ em
Quần áo nam, nữ lại đươc chia theo lứa tuổi : thanh niên, trung niên, cao
tuổi..
Quần áo trẻ em được chia theo đối tượng : tuổi mẫu giáo, nhà trẻ, tiểu học,

trung học, phổ thông
Chia quần áo thành nhiều loại để phù hợp với giới tính, lứa tuổi, đặc điểm
tâm sinh lí khác nhau
1.3.2. Phân loại quần áo theo mùa khí hậu
- Quần áo mùa xuân;
- Quần áo mùa thu;
- Quần áo xuân hè;
- Quần áo thu dông;
- Quần áo mùa hè;
- Quần áo mùa dông.
- Quần áo hè thu;
Việc chọn quần áo theo mùa khí hậu vừa tạo cảm giác thoải mái vừa giữ
gìn, bảo vệ sức khoẻ.
1.3.3. Phân loại quần áo theo chức năng sử dụng
- Quần áo mặc lót : là những sản phẩm mặc sát người, thường được làm từ
vải mềm mại, tỉ lệ cotton cao, có độ chun, co dãn cao, vừa ơm khít cơ thể, vừa
bảo đảm vệ sinh.


12
- Quần áo mặc thường : sơmi, quần âu là những thứ mặc thường ngày
chiếm tỉ trọng lớn trong toàn bộ trang phục của mỗi người.
- Quần áo khốc ngồi: áo veston, áo budông, áo jacket, áo măng tô...chúng
được sử dụng phần lớn đê chống rét nhưng khơng ít những trường hợp ngay cả
những ngày hè nóng bức vẫn được sử dụng để tăng vẻ trang trọng , lịch sự...Tuy
nhiên chúng phải được may từ loại vải thích hợp với mùa khí hậu.
1.3.4. Phân loại theo ý nghĩa xã hội
a) Quần áo mặc thường ngày : bao gồm phần lớn tủ quần áo của mỗi
người, dùng thường xuyên trong sinh hoạt, lao động sản xuất hàng ngày. Kiểu
cách, vật liệu, màu sắc trang phục phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện sống, đặc

điểm nghề nghiệp, thu nhập mỗi người.
b) Quần áo lễ hội : có nhiều màu sắc, được may từ những chất liệu đắt tiền
hơn, kiểu dáng cầu kì hơn, thường gồm theo những phụ kiện đắt tiền, quý hiếm.
c) Quần áo lao động sản xuất : là các bộ bảo hộ lao động, đồng phục nghề,
thiết kế phù hợp với điều kiện việc làm, đặc điểm nghề.
d) Quần áo thể dục thể thao, picnic : tuỳ thuộc vào từng môn thể thao,
thường thiết kế ôm gọn cơ thể, để người mặc di chuyển, vận động thoải mái.
e) Quần áo biểu diễn nghệ thuật : là những bộ quần áo dành cho nghệ sĩ
biểu diễn, thiết kế phù hợp với loại hình nghệ thuật: cải lương, chèo, xiếc,
múa…
2. Lịch sử phát triển trang phục Việt Nam
Mục tiêu:
 Hiểu về sự phát triển của trang phục Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử;
 Biết được một số các trang phục của các dân tộc Việt Nam.
2.1. Trang phục thời Hùng Vương
Cách đây khoảng 4.000 năm vào thời đại đồng thau phát triển, nước Việt
Nam thời đó gọi là nước Văn Lang. Người dân ở đây đã sinh sống bằng săn bắn,
hái lượm và trồng trọt. Họ không dùng vỏ cây làm áo nữa mà đã biết trồng gai,
đay, nuôi tằm, ươm tơ, dệt vải. Vào thời kỳ này đồ đồng rất phong phú. Trống
đồng và nhiều tượng phù điêu bằng đồng có khắc họa những cảnh sinh hoạt thời
đó với những hình người, với các loại trang phục khá rõ nét và được thể hiện
bằng phong cách nghệ thuật biến hình, cách điệu cao. Qua những hiện vật khảo
cổ đã tìm được cho thấy trang phục của đàn bà và đàn ơng như sau: Đàn bà mặc
váy (váy kín "váy chui" và váy mở "váy ngắn"), đàn ông thường đóng khố và
cởi trần.
2.1.1. Kiểu váy áo phụ nữ
Phụ nữ tầng lớp trên ngồi khăn vắt thành chóp nhọn trên đầu cịn thấy
trong áo cánh xẻ ngực là yếm, có thắt lưng trang trí quanh bụng. Yếm là đồ mặc



13
đặc thù của người Việt. Chỉ cần 1 mảnh vải vng đặt chéo trên ngực người mặc,
ở góc trên kht hình trịn làm cổ, 2 góc cạnh sườn buộc dây sau lưng. Tiếp đến
là váy chui (váy kín). Váy dài trùng tới chân có trang trí, ngồi váy có đệm váy
được trang trí phía trước dài hình chữ nhật thả từ dưới thắt lưng trước bụng và
sau mông. Kiểu váy này có hai loại:
- Váy chui (váy kín): có đặc điểm hai mép vải
được khâu lại thành hình ống. Khi mặc chui qua đầu có
phần cạp và thắt lưng. Những pho tượng tìm được ở
Đào Thịnh (Yên Bái) đều mặc váy ngắn đến đầu gối,
có thể lý giải rằng mặc váy này tiện cho thao tác trong
lao động và là của lớp người bình dân. Một số váy
ngắn có thêm đệm váy phủ ngồi ở trước bụng và sau
lưng, có trang trí hình học ở tượng Bảo Vệ, Trành
Kênh, Hà Tây, Thanh Hóa nay cịn thấy ở váy của
người dân tộc Hơ Mông.Váy ngắn chui là loại trang
phục phổ biến của người Việt, còn được gọi trong dân
gian là quần khơng đáy. Váy ngắn chui vẫn cịn được
mặc nhiều ở miền Bắc nước ta cho tới giữa thế kỉ XX.
- Váy mở (váy quấn): có đặc điểm là một hình chữ
nhật, khi mặc quấn quanh hông rồi giắt mép vải vào
Hình 1.1. Váy kín
cạnh sườn hoặc ở hai đầu vải có dây buộc (thường gặp
ở dân tộc Thái ngày nay). Kiểu váy này thấy ở tượng
chuôi kiếm, tượng phụ nữ núi Nưa (Thanh Hóa) và
tượng ở Làng Vạc (Nghệ An). Váy quấn dài xuống tận
chân, trang trí hoa văn ở váy chạy dọc xuống gấu váy
theo lối đăng đối. Phần gấu váy cũng có trang trí những
chấm trịn hoặc kẻ sọc chạy xung quanh. Đệm váy ở cả
phía trước và phía sau trên to, thn nhỏ dần xuống

dưới. Trang trí gấu váy thường có tua hoặc quả bơng,
đệm váy được trang trí hình kỉ hà. Thắt lưng được quấn
gọn, to bản, bao giữa cạp váy và áo nối liền với váy
làm tăng thêm vẻ đẹp hình thể (thắt co) của phụ nữ.
Nhiều dân tộc phương nam có kiểu váy này. Váy quấn
dài thuộc tầng lớp quý tộc, mặc có kiểu cách cầu kì,
trang trí hoa văn vải phức tạp, đa dạng chứng tỏ trang
phục Đông Sơn phát triển.
Người thời Hùng vương ngồi trang phục váy,
khố, quần áo bình thường, trong lễ hội có đội mũ và
Hình 1.2. Váy quấn
mặc áo choàng chung kiểu dùng cho cả nam và nữ. Mũ
làm bằng lơng vũ, có lơng cánh chim cài dựng đứng
thành hình vịng trịn quanh đầu, đai mũ vịng quanh, phần trán lơng cao hơn có


14
ba điểm bơng lau vượt cao lên. Lối áo chồng và mũ bằng lông chim tương tự
thế này phổ biến nhiều ở các dân tộc châu Phi, châu Mỹ và văn hóa Maya. Váy
áo cịn được nhắc đến trong truyện áo lông ngỗng của Mỵ Châu, con gái An
Dương Vương thời Âu Lạc của nước ta. Người Việt ngày nay vẫn còn dùng áo
lá (áo tơi) rất tiện lợi cho việc làm nông nghiệp. Áo tơi được làm bằng lá cọ, loại
cây phổ biến trên đất Phú Thọ nơi đất tổ vua Hùng. Trong một số ngôi mộ khai
quật được đều có những đồ đan, dệt bằng lá cây hoặc cói.
2.1.2. Kiểu khố của đàn ơng
Đàn ơng thời Hùng vương thường cởi trần đóng
khố, xăm mình. Pho tượng ở Đào Thịnh cho thấy một
chiếc khố gồm một dải rất hẹp thắt vịng quanh bụng, từ
đó vắt múi vịng xuống háng, đi khố bỏ lá tọa ở phía
sau chấm mơng. Kiểu khố này cịn thấy ở bức tượng

Đơng Sơn – tượng người cõng nhau thổi khèn, chiếc lá
tọa chấm đất có lẽ chỉ để làm pho tượng có thế tựa ba
điểm. Kiểu khố này được truyền trong huyền thoại Chử
Đồng Tử và người dân Việt còn mặc đến đầu thế kỉ XX
(thể hiện trong tranh Đông Hồ và tranh Hàng Trống).
Khố có nhiều kiểu. Khố kép nghĩa là vịng bụng
được quấn hai vịng để làm tăng diện tích của khố ở
vịng quanh bụng. Kiểu khố kép thấy ở tượng Việt Khê.
Hình 1.3. Khố của
Từ thuở Hồng Bàng tục nhuộm răng, ăn trầu, xăm mình
người Việt xưa
là đặc điểm của người Việt cổ, đây như là truyền thống
để tránh sự đồng hóa của người phương Bắc, bảo tồn phong tục. Kiểu khố kép
mang tính chất tơ điểm và như một kiểu ăn mặc truyền thống. Các tài liệu tranh
ảnh đầu thế kỉ XX cho thấy việc sử dụng loại khố này vẫn rất phổ biến trong
nhân dân, nhất là khi biểu diễn đấu vật, các võ sĩ đều
đóng khố kiểu này.
2.1.3. Trang phục lễ hội
Trang phục lễ hội phản ánh đầy đủ cuộc sống của
cư dân thời Hùng vương. Bộ trang phục ngày lễ hội
được trang bị đầy đủ gồm bộ áo lễ, mũ lơng chim áo
chồng rộng cho cả nam lẫn nữ, có người đội mũ hoặc
chỉ mặc áo chồng lễ hội nhằm tạo ra nhịp điệu trang
trí và phản ánh cuộc sống hiện thực của buổi đi lễ. Bên
cạnh đó có một số hình chạm khắc trong lễ hội là
người cởi trần, đi đất, đó là hình ảnh thật, mộc mạc, ghi
lại cuộc sống chân thực hàng ngày.
Hình 1.4. Trang phục
đội mũ lông chim và
bông lau trong lễ hội



15
2.1.4. Trang phục chiến binh
Những trang phục chiến binh
là những tấm giáp che ngực bằng
đồng hình chữ nhật hoặc vng có
trang trí vịng xoắn hoặc trang trí
kiểu trống đồng, ở 4 góc có 4 lỗ.
Những bao tay bằng đồng để bảo
vệ phần cổ tay. Bao tay có trang trí
và đính theo những lục lạc nhỏ, đai
lưng có khóa đồng to bản được
trang trí tỉ mỉ, đồng thời đính kèm
theo những lục lạc nhỏ như ở bao
tay. Giáp bao tay có tác dụng che
chắn, bảo vệ, chém...
Hình 1.5. Trang phục chiến binh
2.1.5. Kiểu đầu tóc
Do điều kiện khí hậu và sinh sống,
người dân thường lên rừng săn bắn, hái
lượm hay xuống biển bơi lặn đánh cá,
hoặc làm ruộng nước vất vả nên đầu
tóc phải gọn gàng. Vì vậy, đàn ơng và
đàn bà phải cắt tóc ngắn đến ngang vai
hoặc một số ít cắt ngắn đến chân tóc
2.1.6. Hình thức trang sức và
trang điểm
Người Việt cổ thì nam nữ đều xâu
lỗ tai và đeo đồ trang sức. Các loại

vòng tai phổ biến của hai giới là hình
trịn, hình vành khăn, hình khối đặc
biệt là loại vịng hoa tai gắn quả nhạc
hay đơi hoa tai bằng đá, hình con thú.
Hình 1.6. Kiểu đầu tóc nam và nữ
Những chuỗi hạt thường thấy gồm các
của người Việt xưa
loại hạt hình trụ, trái xoan, hình cầu.
Cịn vịng tay với nhiều hình khác nhau như: trịn, vng, chữ nhật, lịng máng,
sóng trâu... có trang trí hoa văn hình lơng chim hay bơng lúa. Ngồi ra cịn nhiều
nhẫn bằng đồng đeo ở ngón tay cũng gắn quả nhạc dài xinh xắn. Tuy đồ trang
sức cịn thơ sơ, nhưng với điều kiện chế tác hạn chế ta thấy con người thời đó đã
có trình độ thẩm mỹ và óc tưởng tượng cao, đã quan tâm đến vấn đề làm đẹp
cho thân thể, đồng thời thể hiện bàn tay khéo léo, cần cù lao động. Đàn ơng
thường vẽ lên mình những hình ngoằn ngo, hình móc câu, đó là tục xâm mình
phổ biến. Đàn ơng và đàn bà đều nhuộm răng đen và có tục ăn trầu.


16
2.2. Trang phục thời phong kiến
Dưới thời phong kiến, nông nghiệp phát triển. Nghề trồng dâu, ni tằm,
dệt vải hình thành. Các vua nhà Lý và sau đó là các triều đại Trần, Lê, Nguyễn...
đều dạy dân chúng trồng dâu ni tằm, dệt vải. Người dân Việt thời đó đã biết
nuôi tằm lấy kén, kéo sợi. Nghề dệt phát triển kéo theo sự phát triển của trang
phục. Trải qua các triều đại phong kiến, trang phục Việt Nam đã nhiều lần thay
đổi, nhưng có nét chung là thể hiện sự phân chia giai cấp rõ rệt.
2.2.1. Trang phục thời Ngô - Đinh - Tiền Lê
Vào nửa sau thế kỷ III trước Công Nguyên, Thục Phán, một thủ lĩnh người
Âu Việt từ miền trên đã tràn xuống đánh chiếm nước Văn Lang, thống nhất hai
lãnh thổ, dựng nên nước Âu Lạc, dời đô từ miền núi xuống đồng bằng. Thời kỳ

này đồ sắt phát triển. Trong thời kỳ đất nước Âu Lạc bị Triệu Đà xâm lược, cai
trị, cộng với ba lần bị phong kiến phương Bắc thống trị hơn một ngàn năm (207
trước công nguyên - 939), nhân dân ta một mặt đấu tranh với kẻ thống trị, nhưng
một mặt vẫn tích cực phát triển sản xuất. Nghề dệt đã có những phát triển quan
trọng. Nghề trồng dâu ni tằm đã phổ biến và còn sản xuất được các loại vải
bông thô, vải đay, vải gai, vải cát bá loại mịn, lụa... Đã biết dùng tơ tre, tơ chuối
dệt thành vải. Vải dệt từ tơ chuối có tên gọi là vải Giao Chỉ. Khăn bông được
thêu thùa rất đẹp gọi là bạch diệp. Ngồi ra, cịn làm nhiều đồ trang sức bằng
vàng, bạc (vòng tay, nhẫn, hoa tai, trâm), bằng ngọc (vòng, nhẫn), bằng hổ
phách, bằng thủy tinh (chuỗi hạt). Đã từng phải cống cho triều đình phương Bắc
loại mũ "đầu mâu" hoàn toàn bằng bạc (khảo cổ học đã phát hiện được nhiều
kiểu khóa thắt lưng, chứng tỏ tục mang tai rất phổ biến).
Đến triều đại nhà Đinh (968 - 980), về trang phục, sử sách đời sau chỉ nhắc
đến một số rất ít hiện tượng như (năm 974) qn lính "đều đội mũ chỏm", bằng,
bốn bên hình vng (Mũ làm bằng da, bốn cạnh khít lại, trên hẹp dưới rộng), gọi
là mũ "tứ phương bình đỉnh". Hoặc "Năm Thái Bình thứ sáu (975) Đinh Tiên
Hồng định phẩm phục của các quan văn võ". Hoặc (năm 980) ở một bức thư
của nhà Tống gửi cho triều đình ta có nói tới việc nhân dân ta thời đó đều cắt tóc
ngắn. Hoặc có nhắc đến mũ của các đạo sĩ là màu vàng, áo của các nhà sư là
màu thâm, các quan được dùng ấn vàng thì thắt lưng dải tím, được dùng ấn bạc
thì thắt dải xanh.
Sang thời (tiền) Lê (981 - 1009), ta thấy: Vua Lê Đại Hành lên ngôi mặc áo
long cổn, về sau áo mặc thường dùng vóc đỏ, mũ trang sức trân châu. Lê Ngọa
Triều, (1006) đổi lại phẩm phục cho các quan văn võ và tăng đạo, theo đúng như
nhà Tống. Như vậy là suốt thời gian dài này, tư liệu và hiện vật về trang phục để
lại rất hiếm. Kể cả về sau, những tài liệu thành văn cũng chỉ chủ yếu nói về
trang phục trong Triều Đình (nhắc đến tên mũ, tên áo, màu sắc... chứ không
miêu tả tỉ mỉ, cặn kẽ). Một số hiện vật bằng gỗ, đá để lại nói chung hình nét
khơng được rõ lắm. Dù sao trong vài chục năm trị vì, các vua Đinh, Lê cũng đã



17
giành sự quan tâm đến lĩnh vực trang phục, đặc biệt là mũ áo Triều Đình. Nhìn
chung, ít nhiều thấy có sự kế thừa hoặc sáng tạo về hình loại, kiểu cách, màu sắc
nhưng đáng trách hơn cả là sự sao chép một cách nô lệ, lười biếng của vua Lê
Ngọa Triều tạo một tiền đề lai căng cho những kiểu mẫu trang phục về sau.
Tuy nhiên, trong những thời kỳ chế độ phong kiến ổn định, thì càng về sau,
trang phục cũng đã dần dần được qui định cho từng thành phần trong xã hội (vua,
quan, dân...) cho mọi nghi thức trong cuộc sống (cưới, tang, lễ, hội...). Căn cứ
trên hình thức, màu sắc, họa tiết... trong trang phục, ở từng giai đoạn, sự phân
biệt mang tính chất giai cấp đã được hình thành rõ rệt.
2.2.2. Trang phục thời Lý
a.Trang phục triều đình
Triều đại nhà Lý (1009 - 1225), kinh đô từ Hoa Lư dời về thành Đại La và
gọi là Thăng Long. Năm 1054, đặt tên nước là Đại Việt. Năm 1029, vua Lý Thái
Tông định quy chế mũ áo của các công hầu và các quan văn võ. Nhưng chắc
việc quy định này còn chưa chặt chẽ kể cả về hình thức trang phục và cách thức
sử dụng. (Theo tư liệu để lại, các quan triều Lý một thời gian vẫn đeo cái túi có
hình cá bằng lụa đỏ và bằng vàng, ít nhiều cịn ảnh hưởng lối trang sức của nhà
Tống).
Năm 1040, nhà vua chủ trương dùng gấm vóc trong nước để may lễ phục
mà khơng dùng gấm vóc của nhà Tống nữa. Số gấm vóc của nhà Tống cịn lại
trong kho thì phát hết ra may áo cho các quan, từ ngũ phẩm trở lên: áo bào bằng
gấm, từ cửu phẩm trở lên, áo bào bằng vóc. Điều này biểu thị chí tự cường, tự
lập của dân tộc đã khá cao.
Năm 1059, vua Lý Thánh Tông định triều phục cho các quan. Vào chầu
vua, các quan phải đi tất, đi hia và đội mũ phác đầu. (Mũ này có 4 góc, 4 tai, sau
làm 2 tai ngang, tức mũ cánh chuồn, có thể là kiểu mũ từ thời Đinh, sau thêm
tai), mặc áo bào tía, cầm hốt ngà, thắt đai da. Lệ đội mũ phác đầu, đi hia bắt đầu
có từ thời này.

Qua võ phục thời Lý, ta bắt gặp những dạng hoa văn, những hình xoắn,
hình móc... thường thấy trong lĩnh vực trang trí, hội họa thời đó. Những biểu
tượng cho thiên nhiên, cuộc sống được khắc lại trên trang phục của những nhân
vật tượng trưng cho sức mạnh là một đặc điểm hài hịa rất có ý nghĩa. Các vũ nữ,
tóc thường búi cao lên đỉnh đầu, trên trán có một điểm trang trí, mái tóc điểm
những bơng hoa, tay đeo vịng, cổ đeo những chuỗi hạt, mặc váy ngắn có nhiều
nếp.
Trang phục của nhạc cơng cũng khá độc đáo. Mũ chùm kín tóc, phía trên
mũ được làm cao lên và trang trí các diềm uốn lượn. áo cánh trong: tay dài và
chít ở cổ tay. Bên ngoài là một chiếc áo, cộc tay. Quanh cổ áo có chiếc vân kiên
(như chiếc yếm dài) chùm cả một phần ngực, lưng và vai. Quanh bụng đeo
những miếng diềm vải rộng có trang trí nhiều đường thêu đẹp. Bụng chân quấn


18
xà cạp và chân đi giày vải mũi nhọn.Thời gian này vẫn cịn tục xăm mình. Từ
vua đến qn sĩ ai cũng xăm mình. Quân cấm vệ xăm vào ngực và chân những
dấu hiệu riêng và được phép xăm hình rồng lên người.
b. Trang phục nhân dân
Thời Lý có lệnh cấm người dân mặc áo màu vàng (1182), con gái dân gian
khơng được bắt chước kiểu búi tóc như cung nhân. Những pho tượng tròn hoặc
tượng đắp nổi bằng đá của thời Lý còn lại cũng chứng minh quần áo thời đó đã
được may theo quy cách, bằng nhiều loại vải tốt và mịn.
Ở thời Lý, đàn bà thường đeo khuyên bạc, vũ nữ thường búi tóc cao và
buộc diềm hoa trên đầu gợi lại hình ảnh trang điểm ở tượng người phụ nữ trên
cán dao găm, trên chuôi kiếm ngắn từ thời Hùng Vương, hoặc các võ tướng cịn
đính nhiều quả nhạc trên áo giáp biểu hiện ý thức "nhớ nguồn", chứng minh tinh
thần tiếp nối và phát huy truyền thống. Cùng với những hoa văn, họa tiết trang
trí trên trang phục, những hoa văn, họa tiết thời Lý ở các hiện vật khác không
chỉ là yếu tố trang trí nghệ thuật mà cịn có nhiều ý nghĩa tượng trưng, như

những hình dạng xoắn ốc đơi, chính là ký hiệu mây mưa mà ông cha ta vẫn cầu
mong mưa thuận gió hịa, mùa màng tươi tốt, như hình tượng con rồng thời Lý
là "rồng rắn" một đồ án trang trí đẹp và độc đáo, tượng trưng cho nguồn gốc lịch
sử dân tộc, vòng uốn lượn mềm mại của thân rồng tượng trưng cho nguồn nước
và mây mưa, là niềm mơ ước của cư dân lúa nước.
Nghiên cứu trang phục và hoa văn, họa tiết thời Lý như trên, ta thấy một ý
nghĩa đặc biệt là nó đã phản ánh được mối tương quan thống nhất trong đời sống
kinh tế, quân sự, văn hóa... của xã hội thời đó khá rõ nét.
2.2.3. Trang phục thời Trần
Triều Lý suy vong, triều Trần nối tiếp (1225 - 1400). Đất nước Đại Việt
thời Trần, với ý chí sắt đá tự lập tự cường của triều đình và của tồn dân, xây
dựng trên nền tảng truyền thống dân tộc, trên những chiến công ba lần chống
xâm lược Nguyên - Mông, đã phát triển mạnh mẽ nhiều mặt. Về nghề dệt, thời
gian này nhân dân ta đã có nhiều loại vải bơng, vải gai, lụa, lĩnh, sa, the, nái, sồi,
đoạn, gấm, vóc... Nghề thêu cũng phát triển.
a. Trang phục triều đình
Năm Hưng Long thứ 8 (1300), quan võ dùng kiểu mũ áo mới. Quan văn
đội mũ chữ đinh màu đen. Trong quân đội mũ toàn hoa (mũ hoa thủng có hai
vịng vàng đính ở hai bên) màu xanh như kiểu cũ. Cửa tay áo các quan văn, võ
rộng từ 9 tấc đến 1 thước 2 tấc, kiểu hẹp từ 8 tấc trở xuống thì khơng được dùng.
Các quan văn võ khơng được mặc xiêm.
Sau đó (1301) lại cho phép các quan đội mũ chữ đinh, thêm miếng lụa bọc
tóc màu tía pha màu biếc (bịt lên đầu dùng để buộc chân tóc lại, bỏ thừa về đằng
sau). Vương hầu nào tóc dài thì đội mũ triều thiên, người nào tóc ngắn thì đội
bao cân (1303).


19
Đến năm 1395, Lịch Triều tạp kỷ lại quy định mũ áo của các quan văn, võ.
Nhất phẩm thì màu tía, nhị phẩm: màu đại hồng, tam phẩm: màu đào hồng, tứ

phẩm, ngũ phẩm: màu lục, thất phẩm: màu biếc, bát, cửu phẩm: màu xanh.
Người khơng có phẩm hàm và nơ bộc: màu trắng. Người hầu trong cung thì mặc
váy mở, không dùng xiêm. Các quan theo hầu, chức văn từ lục phẩm trở lên
được đội mũ cao sơn (chánh lục phẩm: mũ màu đen, tòng lục phẩm: màu xanh).
Chánh lục phẩm được mang đai, đi hia. Người tôn thất đội mũ phương thắng
màu đen. Chức võ, lục phẩm đội mũ chiết xung, tước cao màu khơng có chức
được mang đai và đội mũ giác đính, thất phẩm đội mũ thái cổ, tịng thất phẩm
đội mũ tồn hoa. Vương hầu đội mũ viên du. Ngự sử đài đội mũ khước phi. Nhà
vua búi tóc, dùng theo bọc và buộc lại, trơng như khăn nhà đạo sĩ, chỉ rộng hơn
một ít, cịn tóc ở hai bên thì vẫn để lộ ra và xõa xuống. Các quan được mặc áo
bào và cầm hốt. Có những trường hợp đi chân đất.
b. Trang phục nhân dân
Triều đình thời Trần mấy lần quy định chế độ mũ áo cho các quan văn,
quan võ, còn đối với nhân dân không thấy nêu những điều lệ cụ thể. Duy chỉ
được biết là trong nhân dân, trừ phụ nữ khơng bị cấm, cịn khơng ai được mặc
màu trắng. Ai mặc màu trắng là phạm pháp. Có thể đây là để giành riêng màu
trắng cho những người tôi tớ trong cung, tránh sự lẫn lộn trong xã hội? Các màu
xanh, đỏ, vàng, tía, cũng khơng dùng.
Đàn bà thường mặc áo tứ thân màu đen, trong lót vải trắng để may viền vào
cổ áo, rộng khoảng 13cm, cắt tóc để lại chừng 10cm rồi buộc túm lên đỉnh đầu,
xong uốn cong đi tóc và buộc lại lần nữa hình giống như cây bút, khơng để
tóc mai, khơng búi tóc phía sau đầu, khơng đeo vịng khun. Những người giàu
thì cài trâm đồi mồi, cịn thì cài trâm bằng xương hoặc sừng, không dùng phấn
sáp hay xoa dầu.
Đàn ông thường cởi trần hoặc mặc áo tứ thân màu đen, cổ áo tròn bằng the,
quần mỏng bằng lụa thâm. Đại đa số cạo trọc đầu (kể cả trẻ em). Có người chùm
đầu bằng khăn lụa. Ngày thường ở nhà, chỉ để đầu trần, khi tiếp khách mới đội
chăn, khi ra đường mang khăn theo, đều đi đất, cũng có người đi giầy da, nhưng
khi vào cung vua thì cởi ra. Trong nhân dân vẫn phổ biến tục nhuộm răng đen và
ăn trầu.Tục xăm mình thời Trần rất phổ biến, đạt đến trình độ nghệ thuật, và đã

có thợ chun vẽ hình. Trong khi quân đội thời Trần đều thích lên cánh tay hai
chữ "Sát Thát", thì nhân dân Đại Việt, nhiều người, dù là người đã có con cháu,
cũng xăm lên bụng những chữ "Nghĩa dĩ quyên khu, hình vu báo quốc" thể hiện
tinh thần vì việc nghĩa liều thân, báo đền ơn nước. Xăm mình, thích chữ vừa là
truyền thống, vừa là thi hành lời thề thiêng liêng, vừa thể hiện một tinh thần
thượng võ. Đồng thời, đó cũng là một hình thức trang điểm trên thân thể phản
ánh quan niệm về cái đẹp của người đương thời.
Nhìn nhận chung, trang phục thời Trần có những sắc thái đặc biệt, nó


20
không tách rời ảnh hưởng của một nguyên lý thẩm mỹ xuất phát từ tinh thần
thượng võ Đông A, bắt nguồn từ truyền thống dựng nước, giữ nước oanh liệt
của dân tộc. Trong vòng 30 năm ba lần so gươm, đọ dáo với một kẻ thù khét
tiếng hung hãn đang "làm cỏ" nhiều nước trên thế giới, quân dân Đại Việt, với
lịng u nước nồng nàn, với sức mạnh đồn kết chặt chẽ, với trí thơng minh
sáng tạo, đã phải thường xuyên cảnh giác, thường xuyên rèn luyện, liên tục
chiến đấu ngoan cường và đã giành được thắng lợi huy hồng. Thực tế khách
quan ấy khơng cho phép một sự cầu kỳ, phức tạp, tản mạn... trên mọi hình thái
đời sống xã hội thời ấy, trong đó có phần trang phục, trang sức. (Ví dụ như phụ
nữ khơng trang điểm diêm dúa cho tới về sau khá lâu, vua quan đều ăn mặc giản
dị...).
2.2.4. Trang phục thời Nguyễn
Triều Nguyễn (1802 - 1945), vương triều cuối cùng của giai cấp phong kiến
nước ta, càng về sau càng phản động với bộ máy thống trị lạc hậu, hoàn toàn
phụ thuộc vào sự chỉ huy của thực dân Pháp.
Đầu thời Nguyễn, trang phục của vua quan cũng được quy định tỉ mỉ như ở
những triều đại phong kiến trước và có một cơ quan chun trách: Bộ lễ, song
nó đã khơng mang được sắc thái riêng của dân tộc. Sự pha tạp những yếu tố
Đơng Tây, Âu Á trong hình dáng và họa tiết, nhằm mục đích phơ trương hình

thức, thể hiện uy quyền của đẳng cấp thống trị, cho nên không thể nào tránh
được sự lố bịch, lai căng.
a) Trang phục triều đình
Vua Gia Long lên ngơi năm 1802. Trang phục của vua, có mũ miện, áo
long cổn, xiêm, đai, hia, hốt...
- Mũ miện, thân mũ hình trịn ống, đan bằng dây thau, rộng hẹp tùy cỡ đầu,
mặt ngoài bọc lụa màu huyền, trong lót lụa màu đỏ. Đặt lên trên thân mũ là một
ván gỗ mỏng hình chữ nhật, cạnh trước và cạnh sau đeo 24 dây tua bằng vàng,
xâu 300 hột san hô, trân châu, pha lê và 400 hạt vàng. Đỉnh mũ đính hai chữ vạn
thọ bằng vàng. Xung quanh thân mũ có 12 hình rồng vàng, 6 hình ngọn lửa cũng
bằng vàng. Lại dát hình hoa sen và đám mây bằng 256 hột vàng. Khi đội mũ,
dùng một khăn chít ở trán để đội cho chặt (võng cân). Khăn dệt bằng tơ vàng.
- Áo long cổn bằng sa tanh màu thanh thiên, cổ tròn bằng đoạn bát ty màu
quan lục, trong lót lụa trắng. Thân áo thêu nhiều họa tiết: mặt trời, mặt trăng, sao,
núi, rồng v.v... Vạt áo thêu rồng, mây, hình sóng nước... Tay áo cũng có họa tiết
hình hai con rồng quay đầu xuống. Bên trong mặc áo đơn màu bạch tuyết, cửa
tay thêu hình rồng mây.
- Xiêm bằng sa màu vàng bóng, dưới viền gấm, thêu các họa tiết: ngọn lửa,
hạt gạo, hình khánh ngọc, ngọc huỳnh, hạt vân mẫu, san hô, hổ phách... Khi đi
lại, các thứ đó va chạm vào nhau, phát ra âm thanh rủng rẻng.
- Đai làm bằng da bọc đoạn màu vàng, giữa đính một miếng ngọc hình


21
vng, xung quanh gắn sáu viên ngọc trắng
hình quả trám, bịt vàng, 392 hạt châu ngọc,
bên trong có sáu khuy để đính vào áo.
- Hia, ngồi bọc đoạn màu đen, trong lót
đoạn màu đỏ. Xung quanh thêu hình rồng,
mây, đính ngọc, kim cương và những miếng

kính cùng nhiều thứ khác.
- Hốt (cầm tay) của vua bằng ngọc, dài
một thước hai tấc (khoảng 40cm), ngang ba
tấc (khoảng10cm), có túi gấm đựng.
Năm 1806, vua Gia Long ban chiếu quy
định phẩm phục đại triều và thường triều cho
Hình 1.7. Trang phục vua
các hàng văn võ, tóm lược như sau:
Minh Mạng
* Phẩm phục đại triều Văn giai: Các
quan từ trên nhất phẩm đến chánh thất phẩm,
tùng thất phẩm đều đội mũ cánh chuồn tròn,
nhưng tùy cấp bậc thấp, cao mà được đính ít
hay nhiều vàng, bạc, đá quý ở trên mũ, áo,
mãng, bào cổ trịn. Chức cao nhất thì màu tía
rồi đến hàng thấp: màu lục, lam, xanh...Đai,
thân màu đỏ, trang sức vàng, ngọc, bạc, đồi.
Hia, màu đen, mũi vuông. Tất viền gấm.
* Phẩm phục thường triều Văn giai: Từ
trên nhất phẩm đến chánh tam phẩm, tùng tam
phẩm: đội mũ văn công, trang sức bằng vàng
có hai dải đính ngọc kim hoa. áo bằng sa đoạn,
màu xanh, lục, lam, đen v.v... hoặc thêu hoa,
cổ chéo, màu trắng. Xiêm thêu chim hạc, xen
hoa màu đỏ. Hia, tất giống như phẩm phục đại
triều Văn giai. Từ chánh tứ phẩm, tùng tứ
phẩm đến chánh, tùng lục phẩm (tán giai): đội
Hình 1.8. Trang phục vua
mũ kiểu Đơng pha. áo bằng sa đoạn, màu
Thành Thái

xanh, lam, lục... Bố tử nền đỏ, thêu chim công,
(cháng, tùng tứ phẩm), thêu vân nhạn (chánh, tùng ngũ phẩm), thêu ngỗng trắng
(chánh, tùng lục phẩm). Chánh thất phẩm, tùng thất phẩm đến chánh cửu phẩm,
tùng cửu phẩm (tán giai): đội mũ văn tú tài. áo: kiểu may, màu sắc và hia tất
giống cấp bậc trên. Bố tử, bậc chánh: nền đỏ, bậc tùng: nền xanh, thêu hình
chim cị. Xiêm màu xanh, lục tùy ý nhưng hai bên khơng thêu hoa chùm.
Trang phục binh lính: Lính trong triều thường mặc áo thân dài. Loại quan ở
cấp bậc trên, áo được may bằng vải tốt, có họa tiết hay trơn. áo có nẹp khác màu


22
ở vòng quanh tai, mép tà, gấu áo, cửa tay. Lính hầu vua quan mặc áo cài cúc
giữa, có nẹp hai bên tà từ ngực đến suốt chiều dài của thân áo. Thắt lưng vải
buộc ngoài áo dài nhân dân gọi là lính khố vàng, vì vải màu trắng cháo lịng.
Mặc quần ta, dưới chân bó xà cạp. Chân đi dép da trâu hoặc đi đất. Đầu đội mũ
hay khăn theo phẩm trật. Lính hầu thì đội nón sơn nhỏ có chóp nhọn. Ngồi ra
cịn có lính khố xanh, khố đỏ. Gọi là lính khố xanh vì loại lính này thắt lưng
xanh. Gọi là lính khố đỏ vì loại lính này thắt lưng đỏ. Thắt lưng bằng vải, thắt
phía trong áo và buông xuống trước bụng một đoạn ngắn khoảng 20cm.
Nói chung lính đều mặc áo cánh ngắn, cổ đứng, cao, cài cúc giữa, tay áo
hẹp, ở gần cửa tay áo có đính phù hiệu chữ V bằng màu đỏ hay vàng hoặc kim
tuyến để chỉ cấp bậc là cai, đội hay quản v.v... Quần như quần nhân dân nhưng
phía dưới bó xà cạp. Áo quần màu vàng cỏ úa. Đầu đội nón dấu nhỏ hay nón đĩa
đan bằng tre quang dầu. Nón đĩa rộng như cái mẹt con, đường kính khoảng
25cm, phía sau có đính vải để che gáy và hai bên tai tránh nắng. Chân đi dép da
trâu mỏng, có quai chéo chữ V và một quai quàng. Giai đoạn này, lính người
Việt tham gia quân đội Pháp được trang phục theo kiểu cách quân đội viễn chinh
Pháp quy định.
Nhìn vào hệ thống trang phục của vua, quan nhà Nguyễn như trên, người ta
đã thấy được thực chất tham vọng của những con người mặc nó. Ví dụ như trên

bề mặt nhỏ hẹp của một chiếc áo lai căng, vua Nguyễn đã cho thêu vẽ đầy họa
tiết rồng, mây, hoa, lá, sóng nước, vàng bạc, châu báu... như muốn thu cả đất
trời, của cải về mình. Cái nón dân tộc giản dị, trang nhã được gắn đầy ngọc ngà,
đối lập với đôi "ghệt" Tây phương, trông thật là lố bịch. Còn trang phục các
quan, hầu như là một sự sao chép trang phục triều đình phương Bắc.
Ở thời nhà Nguyễn, càng về sau trang phục của giai cấp phong kiến, đặc
biệt là ở tầng lớp trên, càng biểu hiện một sự lố lăng, pha tạp, nhằng nhịt đến rối
mắt.

Hình 1.9. Vua Khải Định


23
b. Trang phục nhân dân
Đời sống xã hội trong thời kỳ này có ảnh hưởng khơng nhỏ đến trang phục
của người dân. Khơng chỉ vào chốn cung đình với các mệnh phụ cơng nương,
cái yếm cịn ra ruộng đồng “dầm mưa dãi nắng” với người nông dân, và cùng
với chiếc áo tứ thân, cái yếm theo chị em đến với hội đình đám, góp phần tạo
nên bộ “quốc phục” của quý bà thời xưa.
Yếm là trang phục chính của phụ nữ, yếm dùng để che ngực. Cái yếm xuất
hiện trong cuộc sống của người dân Việt Nam từ lâu nhưng mãi tới đời nhà Lý
cái yếm mới “định hình” về cơ bản. Theo dịng lịch sử, cái yếm khơng ngừng
biến đổi, nâng cao tính thẩm mỹ qua những lần cải tiến. Tuy nhiên, “cuộc cách
mạng” của cái yếm chỉ xảy ra vào đầu thế kỷ này khi cái quần kiểu Tây và cái
váy đầm xoè xâm nhập vào Việt Nam. Thế kỷ 19, cái yếm có hình vng vắt
chéo trước ngực, góc trên khoét lỗ làm cổ, hai đầu của lỗ, đính hai mẩu dây để
cột ra sau gáy. Nếu cổ tròn gọi là yếm cổ xây, cổ nhọn đầu hình chữ V gọi là
yếm cổ xẻ, đít chữ V mà sẻ sâu xuống gọi là yếm cổ cánh nhạn.
Bước sang thế kỷ 20, áo yếm càng được sử dụng phổ biến với nhiều kiểu
dáng và mẫu mã phong phú. Dành cho người lao động có yếm màu nâu dệt bằng

vải thô. Người lớn tuổi mặc yếm màu thẫm. Con gái nhà gia giáo mặc yếm
nhiều màu, trang nhã và kín đáo.

Hình 1.10. Trang phục phụ nữ Việt Nam cuối TK 19, đầu thế kỉ 20 vẫn vấn
khăn, mặc yếm, váy và quần chân què
Để trở thành “quốc phục” của quý bà quý cô trước khi chiếc áo dài ra đời,
đi kèm với cái yếm là chiếc áo cánh khoác ngồi khơng cài cúc. Khi ra ngồi
bên ngồi chiếc yếm phải có thêm chiếc áo dài, chiếc váy lưỡi trai bằng lĩnh, dải
lụa đào hoặc màu mỡ gà thắt ngang lưng, cái xà tích bạc lủng lẳng, bộ “độ nghề”
ăn trầu bên phía cạnh sườn, chân mang dép. Chưa hết, phục trang ra đường còn
phải kể đến là hai chiếc khăn đội đầu: khăn nhiễu (quấn bên trong) và khăn mỏ
quạ (trùm bên ngồi). Nếu đúng dịp hội hè đình đám các cơ gái thường trang bị
thêm cho mình chiếc nón quai thao, và tóc thì vấn cao cài lược.


24
Vào dịp lẽ hội, phụ nữ mặc ngoài cùng chiếc áo dài, may từ bốn mảnh vải
nên còn gọi là áo “tứ thân”. Hai mảnh sau của áo ghép liền ở giữa sống lưng.
Hai mảnh trước của áo thường không cài cúc mà buộc hai vạt với nhau hoặc
hoặc buông thõng, dùng dây thắt lưng ngang eo, vừa giữ cho vạt áo không trễ
xuống, vừa để trang điểm, tạo nét duyên dáng cho người phụ nữ “thắt đáy lưng
ong”. Áo tứ thân trở thành trang phục điển hình của phụ nữ Việt Nam thời
phong kiến.

Hình 1.11. Áo tứ thân
Ngồi chiếc áo dài tứ thân, phụ nữ còn dùng áo năm thân tuy không phổ
biến bằng áo dài tứ thân. Áo năm thân cũng được cắt may như áo tứ thân nhưng
thân trước, phía trái được may ghép từ hai thân vải nên rộng gấp đôi. Khi mặc,
vạt trái lớn để bên ngoài, gọi là vạt cả, đè lên
vạt phải nhỏ, để bên trong gọi là vạt con.

Dịp hội hè, trong thời tiết lạnh, phụ nữ
xưa thường mặc kép nhiều lớp áo: ngoài
cùng là chiếc áo màu nâu đỏ (màu gụ), bên
trong là áo màu mỡ gà, trong cùng là áo màu
vàng chanh. Ba lớp áo ba màu (còn gọi là áo
“mớ ba”). Mùa đông rét đậm các bà, các cô
mặc đến 7 chiếc áo mỏng, khoác chồng lên
nhau nên gọi là áo “mớ bảy”, hòa sắc theo
các nguyên tắc: các lớp bên ngoài là màu tối,
trầm; các lớp mặc khuất bên trong gồm các
màu sắc tươi sáng, rực rỡ, kết hợp với màu
xanh của chiếc thắt lưng và màu đỏ hoa hiên
của yếm trên ngực thành một hòa sắc rất ưa
nhìn,vừa rực rỡ sắc màu lại vẫn khiêm
Hình 1.12. Phụ nữ chít khăn
nhường, đoan trang.
hình mỏ quạ


×