Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tiểu luận môn lịch sử các học thuyết kinh tế nâng cao những thành tựu nghiên cứu trước c mác về quy luật điều tiết thu nhập ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.54 KB, 20 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Nghiên cứu về lịch sử các học thuyết kinh tế luôn là một trong những công
việc đầu tiên đối với những ai muốn tìm hiểu về kinh tế học. Cũng như vậy, “Lịch
sử các học thuyết kinh tế nâng cao” là môn học chuyên ngành đầu tiên của các học
viên cao học Kinh tế chính trị K25 chúng tôi, sau khi học xong 2 môn chung là Triết
học Mác – Lênin và Ngoại ngữ. Đây là một môn khoa học xã hội nghiên cứu hệ
thống các quan điểm về kinh tế của các giai cấp, các trường phái trong các hình thái
kinh tế - xã hội trong lịch sử.
Như các môn học khác, sau khi học xong môn học, chúng tơi sẽ có một bài
tiểu luận mơn học, với môn học này, đề tài tiểu luận của tôi là: “Những thành tựu
nghiên cứu trước C. Mác về quy luật điều tiết thu nhập. Ý nghĩa lý luận và thực
tiễn”.
Với đề tài tiểu luận này, tơi tìm hiểu với cấu trúc mục lục như sau:
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................................................................3
I. KHÁI NIỆM ĐIỀU TIẾT THU NHẬP VÀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI, ĐẶC ĐIỂM CỦA
CÁC HỌC THUYẾT TRƯỚC CÁC MÁC: .......................................................................................3
1.

Khái niệm “điều tiết thu nhập”:.........................................................................................3

2.

Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của các học thuyết trước C. Mác: ..................................4
2.1. Kinh tế chính trị học cổ điển:..........................................................................................4
2.1.1. Lịch sử ra đời:............................................................................................................4
2.1.2. Đặc điểm của kinh tế chính trị học cổ điển:............................................................5
2.2. Kinh tế chính trị học tầm thường:..................................................................................6
2.2.1. Lịch sử ra đời:............................................................................................................6
2.2.2. Đặc điểm của kinh tế chính trị học tầm thường: ....................................................6


2.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản: ...........................................................................................6
2.3.1. Lịch sử ra đời:............................................................................................................6
2.3.2. Đặc điểm lý luận: .......................................................................................................7

II. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA CÁC HỌC THUYẾT TRƯỚC CÁC MÁC VỀ QUY
LUẬT ĐIỀU TIẾT THU NHẬP: ..........................................................................................................7
1. Lý luận về tiền cơng:...............................................................................................................7
1.1. Kinh tế chính trị học cổ điển:..........................................................................................7
1.1.1. William Petty (1623 – 1687): ....................................................................................7


1.1.2. Adam Smith (1723 – 1790): ......................................................................................8
1.1.3. David Ricardo (1772 – 1823): ...................................................................................9
1.2. Kinh tế chính trị học tầm thường:................................................................................10
1.2.1. Thomas Robert Malthus (1766 – 1844): ................................................................10
1.2.2. Jean Baptiste Say (1767 – 1832):............................................................................11
1.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản – Đại biểu là Sismondi (1773 – 1842): ..........................11
2. Lý luận về lợi nhuận:............................................................................................................11
2.1. Kinh tế chính trị học cổ điển:........................................................................................11
2.1.1. Adam Smith (1723 – 1790): ....................................................................................11
2.1.2. David Ricardo (1772 – 1823): .................................................................................12
2.2. Kinh tế chính trị tầm thường:.......................................................................................13
2.2.1. Thomas Robert Malthus (1766 – 1844): ................................................................13
2.2.2. Jean Baptiste Say (1767 – 1832):............................................................................13
2.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản - Đại biểu là Sismondi (1773 – 1842):...........................14
3. Lý luận về địa tơ: ..................................................................................................................14
3.1. Kinh tế chính trị học cổ điển:........................................................................................14
3.1.1. William Petty (1623 – 1687): ..................................................................................14
3.1.2. Adam Smith (1723 – 1790): ....................................................................................14
3.1.3. David Ricardo (1772 – 1823): .................................................................................15

3.2. Kinh tế chính trị học tầm thường - Jean Baptiste Say (1767 – 1832):.......................16
3.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản - Đại biểu là Sismondi (1773 – 1842):...........................16
III. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN: ....................................................................................16
1. Ý nghĩa lý luận: .....................................................................................................................16
2. Liên hệ thực tiễn: ..................................................................................................................17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................................20


PHẦN NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM ĐIỀU TIẾT THU NHẬP VÀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI, ĐẶC
ĐIỂM CỦA CÁC HỌC THUYẾT TRƯỚC CÁC MÁC:
1. Khái niệm “điều tiết thu nhập”:
Ngày nay, chúng ta có thể hiểu “điều tiết thu nhập” là một bộ phận của hệ
thống thuế, thuế thu nhập cá nhân cũng có tác dụng điều tiết vĩ mơ đối với nền kinh
tế. Thuế thu nhập cá nhân điều tiết trực tiếp thu nhập nên một mặt tác động trực tiếp
đến tiết kiệm, mặt khác làm cho khả năng thanh toán của cá nhân bị giảm, làm cho
cầu hàng hóa, dịch vụ giảm và sẽ tác động đến sản xuất. Đối với nước ta, trong tương
lai, khi mà diện đánh thuế được mở rộng, vai trò điều tiết thu nhập của thuế thu nhập
cá nhân sẽ được phát huy có hiệu quả hơn.
Ta có thể hiểu khái niệm “điều tiết thu nhập” như sau: “Điều tiết thu nhập là
một dạng phân phối lại, khi q trình phân phối khơng mang lại lợi ích cho đời sống
của nhân dân thì việc điều tiết là điều đương nhiên. Điều tiết giúp cho quá trình phân
phối được hồn thiện hơn, tuy nhiên, các vấn đề trong xã hội ln biến động khơng
ngừng, chính vì vậy, việc điều tiết lại rất quan trọng và cần có nhiều thời gian để việc
điều tiết được tồn dân chấp nhận, bởi khi một luật ra đời thì có rất nhiều ý kiến khác
nhau xung quanh vấn đề được đặt ra và cần có thời gian để giải quyết. Vì thế ta phải
tìm hiểu về phân phối khi đó ta mới biết được rằng phân phối đã làm được những gì
và điều tiết mang lại những ích lợi gì khi mà việc phân phối không đạt hiệu quả.
Phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một vấn đề vô
cùng quan trọng để tạo ra động lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất

phát triển, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Ở góc độ vấn đề tiểu luận này, chúng ta sẽ chỉ ra những thành tựu của các học
thuyết trước C. Mác về quy luật điều tiết thu nhập. Như vậy, vấn đề điều tiết thu nhập
của các học thuyết trước C. Mác được thể hiện rõ ở các trường phái: kinh tế chính trị
học cổ điển, kinh tế chính trị tầm thường và kinh tế chính trị tiểu tư sản. Ta sẽ lần
lượt tìm hiểu về các trường phái này.
2. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của các học thuyết trước C. Mác:
2.1. Kinh tế chính trị học cổ điển:
2.1.1. Lịch sử ra đời:
Kinh tế chính trị cổ điển (hay trường phái kinh tế học cổ điển) là một trong
những xu hướng tư tưởng kinh tế tiến bộ, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử phát


triển các học thuyết kinh tế. Nhiều quan điểm chủ đạo của trường phái này vẫn còn
lưu giữ ý nghĩa đến tận ngày nay. Xu hướng tư tưởng của trường phái cổ điển bắt
đầu xuất hiện từ giữa thế kỷ XVII và phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XVIII đến nửa
cuối thế kỷ XIX.
Kinh tế chính trị cổ điển ra đời trong bối cảnh:
Về kinh tế, sự phát triển của công trường thủ công, đặc biệt là ngành dệt, sau
đó là ngành cơng nghiệp khai thác, sự trỗi dậy của lực lượng doanh nghiệp trong lĩnh
vực sản xuất, đẩy hoạt động buôn bán và cho vay xuống hàng thứ yếu. Khi trọng tâm
của kinh tế được chuyển từ lĩnh vực lưu thơng sang sản xuất trực tiếp, thì các luận
thuyết của chủ nghĩa trọng thương cũng bị mất sức thuyết phục. Giai cấp tư sản ngày
càng nhận thấy muốn làm giàu, phải sử dụng lao động làm thuê, lao động làm thuê
là nguồn gốc thật sự của sự giàu có. Từ đó, có nhiều vấn đề kinh tế mới nảy sinh địi
hỏi phải được giải thích.
Về xã hội, sự thắng thế của giai cấp tư sản đối với giai cấp phong kiến, cách
mạng tư sản diễn ra ở Hà Lan, ở Anh rồi lan rộng ra các nước châu Âu khác, tạo ra
tình hình mới về kinh tế và chính trị. Cần phải luận giải cơ sở ra đời, tồn tại và phát

triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Về tư tưởng, những thành tựu khoa học tiến bộ như triết học duy vật, toán học,
vật lý học… có tác dụng đấu tranh phá bỏ chế độ phong kiến, mở đường cho phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời, tạo điều kiện cho tư tưởng kinh tế mới của giai
cấp tư sản phát triển, trong đó có tư tưởng kinh tế của trường phái cổ điển.
Kinh tế chính trị học cổ điển là học thuyết kinh tế của giai cấp tư sản trong
thời kỳ hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nghiên cứu về nguồn gốc
của sự giàu có và cách thức làm tăng của cải trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa.
Người đại diện đầu tiên và được xem là thủy tổ của trường phái cổ điển là
William Petty (1623 – 1687), người Anh với những cơng trình khoa học của ông
chuyên về lĩnh vực thuế, hải quan và thống kê. Ông là người được Các Mác đánh giá
cao qua các phát minh khoa học kinh tế.
Những tên tuổi lớn của trường phái này gồm Adam Smith (1723 – 1790),
David Ricardo (1772 – 1823), John Stuart Mill (1806 – 1873). Quan điểm của họ,
giống như các nhà nghiên cứu trước đó, là khoa học về sự giàu có và cách thức nhân
rộng của cải lên.
2.1.2. Đặc điểm của kinh tế chính trị học cổ điển:


Lần đầu tiên trong lịch sử, các nhà kinh tế của trường phái cổ điển chuyển đối
tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang sản xuất, nghiên cứu các vấn đề kinh tế
của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn đầu hay nghiên cứu những vấn đề
của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn tự do cạnh tranh. Điểm
xuất phát trong nội dung nghiên cứu của họ là phạm trù lao động. Nhờ đó, các nhà
kinh tế của trường phái cổ điển đã biến kinh tế chính trị thành một mơn khoa học
thực sự.
Lần đầu tiên các nhà kinh tế của trường phái cổ điển xây dựng hệ thống phạm
trù, quy luật của nền kinh tế thị trường, như: giá trị, giá cả, cung, cầu, lưu thông, cạnh
tranh, tiền công, lợi nhuận, thuế, địa tơ… Trong đó, phạm trù giá trị được xem là

mấu chốt của phân tích kinh tế, là gốc rễ để phát sinh các phạ trù kinh tế khác; và
phạm trù giá trị trao đổi là trung tâm của nghiên cứu kinh tế.
Lần đầu tiên trường phái kinh tế chính trị cổ điển áp dụng phương pháp trừu
tượng hóa trong nghiên cứu các hiện tượng, q trình kinh tế để tìm ra các mối quan
hệ nhân quả, vạch ra bản chất và các quy luật vận động của quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa; đề xuất áp dụng các phương pháp: logic, trừu tượng hóa, nguyên nhân –
kết quả, suy diễn, quy nạp trong nghiên cứu kinh tế. Đây là những phương pháp
nghiên cứu khoa học và tiến bộ. Bằng hệ thống phạm trù, quy luật kinh tế đã được
xây dựng, kinh tế chính trị cổ điển đã đặt nền móng cho khoa học kinh tế sau này.
Các nhà kinh tế của trường phái cổ điển ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế. Tư
tưởng cơ bản của họ là tự do sản xuất, tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh, tôn trọng
quy luật kinh tế và chống lại sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế.
Những quan điểm lý luận của các nhà kinh tế chính trị cổ điển chưa thật nhất
qn, cịn trộn lẫn giữa các xu hướng tư tưởng, một mặt là khoa học muốn đi sâu vào
bản chất các hiện tượng, quá trình kinh tế, mặt khác lại tầm thường chỉ dùng ở việc
liệt kê, mô tả hời hợt các hiện tượng bề ngoài rồi đưa ra kết luận thiếu căn cứ. Học
thuyết cịn mang tính chất siêu hình, phi lịch sử.
2.2. Kinh tế chính trị học tầm thường:
2.2.1. Lịch sử ra đời:
Đầu thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành, cuộc khủng
hoảng kinh tế 1825 mở đầu cho các cuộc khủng hoảng có chu kỳ. Sau nước Anh,
phương thức sản xuất TBCN cũng được xác lập ở các nước khác. Từ năm 1830, sự
thống trị về chính trị của giai cấp tư sản được xác lập ở Anh và Pháp, nhưng giai cấp
vô sản cũng ngày càng lớn mạnh, phong trào công nhân chuyển từ tự phát sang tự
giác, nay mang tính chất chính trị, đe dọa sự tồn tại của CNTB.


Việc xuất hiện những hình thái khác nhau của CNXH không tưởng tiêu biểu
là Saint Simon, M. Fourier và R. Owen đã phê phán kịch liệt chế độ tư bản gây tiếng
vang trong giai cấp công nhân. Giai cấp tư sản cần có một lý luận để chống lại CNXH

khơng tưởng và bảo vệ CNTB. Trước bối cảnh đó, kinh tế chính trị tầm thường xã
hội đã biểu hiện sự phản ứng của giai cấp tư sản đối với phong trào cách mạng và
những tư tưởng của CNXH không tưởng.
2.2.2. Đặc điểm của kinh tế chính trị học tầm thường:
Thứ nhất, nếu các nhà kinh tế học tư sản cổ điển đã tìm tồn bộ hiện thực và
nội tại của những quan hệ sản xuất trong xã hội tư sản thì KTCT tầm thường chỉ xem
xét hệ thống hóa các hiện tượng bề ngồi, khơng nghiên cứu bản chất bên trong của
các hiện tượng kinh tế.
Thứ hai, nếu KTCT cổ điển với phương pháp duy vật (tuy cịn siêu hình), xem
xét khách quan các hiện tượng nghiên cứu, vạch ra quy luật vận động của nền sản
xuất, thì KTCT học tầm thường lại duy tâm chủ quan. Xuất phát từ chỗ bảo vệ lợi
ích cho giai cấp tư sản, biện hộ cho CNTB một cách có ý thức.
2.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản:
2.3.1. Lịch sử ra đời:
Kinh tế chính trị tiểu tư sản ra đời và tồn tại ở châu Âu vào cuối thế kỷ XVIII
đến đầu thế kỷ XIX trong bối cảnh:
Cách mạng công nghiệp nổ ra, nền cơng nghiệp bằng máy móc ra đời. Giai
cấp vơ sản và giai cấp tư sản trở thành hai giai cấp cơ bản trong xã hội tư bản chủ
nghĩa, trong đó giai cấp vơ sản ngày càng phụ thuộc vào giai cấp tư sản. Sự bần cùng,
thất nghiệp, tình trạng sản xuất vơ chính phủ, phân hóa xã hội có xu hướng ngày càng
tăng lên ở các nước công nghiệp phát triển. Ở các nước mới bước vào cách mạng
công nghiệp, nền sản xuất nhỏ cịn chiếm ưu thế, thì những mâu thuẫn xã hội diễn ra
gay gắt hơn.
Đây là miếng đất làm nảy sinh kinh tế chính trị tiểu tư sản.
2.3.2. Đặc điểm lý luận:
Kinh tế chính trị tiểu tư sản là một trường phái muốn phê phán chủ nghĩa tư
bản theo quan điểm tiểu tư sản. Những người thuộc trường phái này cho rằng chủ
nghĩa tư bản là chèn ép, làm phá sản người sản xuất nhỏ, là nguyên nhân gây ra nạn
bần cùng và thất nghiệp. Họ đề nghị chuyển nền sản xuất tư bản chủ nghĩa về với
sản xuất nhỏ.



Đặc điểm nổi bật trong lý luận của họ là đã áp dụng phương pháp chủ quan
trong phê phán chủ nghĩa tư bản; chuyển việc nghiên cứu vào các quan hệ đạo đức,
phẩm hạnh, phẩm giá con người thay cho các quy luật kinh tế khách quan đã được
kinh tế chính trị cổ điển tơn trọng. Họ phê phán chủ nghĩa tư bản theo quan điểm tiểu
tư sản.
Đại biểu của trường phái này là Sismondi (1773 – 1842) và Proudhon (1809 –
1865)
II. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA CÁC HỌC THUYẾT TRƯỚC CÁC MÁC VỀ
QUY LUẬT ĐIỀU TIẾT THU NHẬP:
1. Lý luận về tiền cơng:
1.1. Kinh tế chính trị học cổ điển:
1.1.1. William Petty (1623 – 1687):
Lý thuyết về tiền công của William Petty được xây dựng trên cơ sở lý thuyết
giá trị - lao động. Ông coi lao động là hàng hóa, tiền lương là giá cả tự nhiên của lao
động.
Petty lấy lý luận giá trị làm cơ sở cho lý luận về tiền cơng. Ơng khơng định
nghĩa phạm trù tiền công mà chỉ nêu lên quan điểm về mức tiền cơng. Ơng cho rằng,
tiền cơng khơng thể vượt q những tư liệu sinh hoạt cần thiết. Mức tiền cơng cao
thì công nhân sẽ uống rượu say và không muốn làm việc. Muốn bắt họ làm việc thì
phải hạ mức tiền cơng xuống mức tối thiểu. Ơng kịch liệt phản đối những trường hợp
tăng mức tiền công quá cao. Sở dĩ như vậy bởi vì trong thời đại của Petty, nhà tư bản
chưa có thể bắt cơng nhân lệ thuộc vào công nhân (lệ thuộc vào cung trên thị trường
lao động) mà phải dựa vào sự ủng hộ của nhà nước. Ông là người luận chứng cho
việc đề nghị phải có đạo luật cấm tăng mức tiền công. William Petty là người đầu
tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý thuyết “Quy luật sắt về tiền lương”.
Ông xem xét tiền công trong mối quan hệ với lợi nhuận, giá cả các tư liệu sinh
hoạt với cung – cầu về lao động trên thị trường. Theo ông, nếu mức tiền công cao thì
lượng lợi nhuận giảm và ngược lại; nếu giá cả của lúa mì tăng lên thì sự bần cùng

của công nhân cũng tăng lên (tức là tiền công tỷ lệ nghịch với giá lúa mì); số lượng
lao động tăng lên thì mức tiền cơng sẽ giảm xuống.
William Petty đã nêu được cơ sở khoa học của tiền công là giá trị các tư liệu
sinh hoạt cho công nhân.
1.1.2. Adam Smith (1723 – 1790):
Smith có nhiều điểm đúng đắn về lý luận. Ông cho rằng trong xã hội nguyên
thủy, tiền cơng được xác định bởi năng suất, vì ở giai đoạn khởi đầu ấy, “khi mà chưa


có sự chiếm hữu đất đai và tích lũy vốn, toàn bộ sản phẩm làm ra thuộc về người lao
động. Họ chẳng có chủ đất mà cũng chẳng có chủ xưởng để chia sẻ phần sản phẩm”.
Nhưng trong xã hội tư bản chủ nghĩa, tiền công là thu nhập của công nhân làm thuê,
là một phần giá trị mà lao động của công nhân tạo ra. Cơ sở để xác định mức tiền
công là số lượng giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi nổi công nhân và gia đình
họ. Ơng nghiên cứu mức bình thường của tiền lương và chỉ ra giới hạn tối thiểu của
nó. Theo ông, nếu tiền lương thấp hơn mức tối thiểu này thì thảm họa cho sự tồn tại
của dân tộc.
Adam Smith đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng tới tiền lương. Trước hết, ông
cho rằng, tiền lương phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và phản ánh trình độ
phát triển kinh tế của mỗi nước. Tiền lương thấp hơn mức tối thiểu chỉ có ở những
nước đang diễn ra sự suy thoái về kinh tế. Chẳng hạn, ở Ấn Độ lúc bấy giờ có tiền
lương thấp hơn mức tối thiểu, ở Trung Quốc tiền lương chỉ cao hơn mức tối thiểu
khơng đáng kể, vì ở đó nền kinh tế đang bị đình trệ. Cịn ở các nước có nền kinh tế
phát triển mạnh thì tiền lương lớn hơn mức tối thiểu. Phần lớn hơn này do định mức
tiêu dùng, truyền thống văn hóa, tập quán dân tộc… quy định.
Trong một nước, nhân tố ảnh hưởng tới tiền lương phụ thuộc vào đặc điểm lao
động của con người, điều kiện làm việc, tính chất cơng việc, trình độ chun mơn,
nghề nghiệp.
Ơng đã thấy được mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa chủ và thợ, mâu thuẫn giai
cấp trong vấn đề tiền công, đã phát hiện ra rằng: “Người thợ muốn có càng nhiều

tiền cơng càng hay, nhưng người chủ lại muốn trả cơng càng ít càng tốt. Thợ kết hợp
với nhau để đòi tăng lương; chủ kết cũng hợp với nhau để hạ tiền công lao động”.
Nếu Petty đề nghị trả tiền công thấp hơn mức tối thiểu, thì Smith tán thành trả
tiền cơng cao. Theo ơng, tiền công không thể hạ thấp quá giới hạn nhất định, phải
bảo đảm cho công nhân cuộc sống để họ lao động. Phải để cho “những người nuôi
xã hội nhận được một số thức ăn, quần áo và nhà ở khả dĩ có thể chịu được”. Một xã
hội khơng thể “phồn vinh và hạnh phúc nếu một bộ phận rất lớn những thành viên
của nó nghèo nàn và khổ sở”. Ơng đã chứng minh có sức thuyết phục rằng tiền cơng
cao là sự cổ vũ, khuyến khích sự cần cù và tính siêng năng, và theo bản chất của con
người, sự cần cù siêng năng lại càng cao khi khuyến khích vật chất lại càng lớn. “Khi
nhận được tiền công cao, người thợ làm việc tích cực, chăm chỉ và khẩn trương hơn
khi nhận được tiền công thấp”.
Smith nghiên cứu tiền cơng trong cơ chế thị trường. Cho rằng, có hai yếu tố
quyết định mức tiền công là cầu về lao động và giá cả trung bình của các tư liệu sinh
hoạt thiết yếu. Lượng cầu về lao động quyết định mức tư liệu sinh hoạt, giá cả quy


định số tiền công mà công nhân nhận được. Từ luận điểm này, Smith phân biệt sự
khác nhau giữa tiền công danh nghĩa với tiền công thực tế. Sự khác nhau đó là do
tính chất dễ chịu hay khó chịu của cơng việc, mức độ khó khăn và đắt đỏ trong việc
dạy nghề, tính chất thường xun hay khơng thường xun của cơng việc, mức độ
tín nhiệm, khả năng thành đạt và tình hình di chuyển lao động. Ơng chỉ ra mức tiền
cơng trung bình ở mỗi nước hay mỗi địa phương là do trình độ phát triển kinh tế,
trình độ văn minh và tính chất đặc biệt của kết hợp lao động và tư bản.
Smith không chỉ nghiên cứu tiền công ở tầm vi mô (sự lựa chọn quyết định
giữa chủ và thợ), mà cịn nghiên cứu nó cả ở tầm vĩ mơ. Ơng cho rằng, mức tăng thu
nhập và vốn của mỗi nước là điều kiện để tăng quy mô tiền công, làm tăng thêm cầu
thuê mướn thêm lao động. Nhu cầu này không tăng, nếu của cải quốc dân không
tăng. Mức tiền công cao trong những năm phồn vinh, thấp trong những năm suy
thối. Tiền cơng tăng tất yếu làm cho giá nhiều mặt hàng cũng tăng theo bằng cách

tăng phần cấu thành tiền công trong giá hàng và cho đến nay có xu hướng làm giảm
mức tiêu thụ ở trong nước và ở nước ngoài. Tuy vậy, việc tăng tiền cơng vốn có xu
hướng làm tăng năng suất lao động khiến cho một lượng lao động ít hơn có thể làm
ra một lượng sản phẩm nhiều hơn. Điều này lại thúc đẩy tăng trưởng sản lượng của
nền kinh tế. Ngồi ra, mức tiền cơng cao hay thấp còn phụ thuộc vào sự điều chỉnh
của luật pháp.
1.1.3. David Ricardo (1772 – 1823):
David Ricardo phát triển quan điểm Adam Smith về những thu nhập lần đầu
của ba giai cấp cơ bản trong xã hội. Lý thuyết thu nhập của ông được xây dựng trên
cơ sở lý thuyết giá trị - lao động.
Ông cho rằng, lao động là hàng hóa, tiền cơng là giá cả của lao động. Ơng viết:
“Lao động, giống như các hàng hóa khác có thể mua và bán, có thể tăng giảm về số
lượng, cũng như có giá tự nhiên và giá thị trường. Giá cả tự nhiên của lao động là
giá cần thiết cho phép người lao động tồn tại và duy trì nịi giống mà không gây nên
bất cứ sự gia tăng hay suy giảm nào”. Ông phân biệt giá cả tự nhiên với giá cả của
thị trường lao động. Giá cả tự nhiên của lao động tăng lên khi giá cả lương thực và
các tư liệu sinh hoạt khác tăng lên, và hạ xuống khi giá cả những thứ đó hạ xuống.
Giá cả tự nhiên của lao động còn phụ thuộc vào phong tục tập quán tiêu dùng của
nhân dân. Theo tiến trình phát triển của xã hội, giá cả tự nhiên của lao động có chiều
hướng tăng lên.
“Giá thị trường của lao động là giá thực sự trả cho lao động trên cơ sở hoạt
động bình thường của cung tương xứng với cầu; lao động đắt khi khan hiếm và rẻ
khi dư thừa”. Giá cả thị trường của lao động chịu ảnh hưởng bởi quan hệ cung – cầu


về lao động. Tuy có sự biến động, nhưng giá cả thị trường của lao động sẽ phù hợp
với giá cả tự nhiên của lao động. Nếu không kể đến sự thay đổi trong giá trị của tiền,
thì mức tiền công lên xuống do hai nguyên nhân:
Một là, do sự thay đổi trong quan hệ cung và cầu về lao động;
Hai là, do những biến động trong giá cả của những hàng hóa mà người ta dùng

tiền cơng để mua.
Theo Ricardo, việc đánh giá mức tiền công cao hay thấp phải căn cứ vào số
lượng tư liệu sinh hoạt tối thiểu mà tiền công đem lại cho anh ta, chứ không phải dựa
vào quy mô tiền công. Nhưng ông chủ trương trả tiền công thấp, chỉ đủ những tư liệu
sinh hoạt ở mức tối thiểu và cho rằng tiền công thấp là quy luật tự nhiên trong mọi
xã hội. Chỉ trong điều kiện đặc biệt thuận lợi, khả năng tăng lực lượng sản xuất mới
vượt khả năng tăng dân số, cịn trong điều kiện bình thường, với đất đai hạn chế và
sự giảm sút hiệu quả của đầu tư bổ sung, sẽ làm cho của cải tăng chậm hơn dân số.
Khi đó, cơ chế điều tiết tự phát sẽ hoạt động. Điều đó sẽ kìm hãm tốc độ tăng dân số.
Ông ủng hộ quan điểm của William Petty về quy luật sắt về tiền công. Mặt khác, ông
cũng thừa nhận rằng cơng nhân nhận được mức tiền cơng q ít là một nguy cơ lớn.
Việc thay lao động của con người bằng máy móc đem lại những tổn thất rất lớn cho
lợi ích của giai cấp cơng nhân.
Ơng ủng hộ việc nhà nước không can thiệp vào hoạt động của thị trường lao
động, phê phán sự giúp đỡ đối với người nghèo, vì theo ơng, làm như vậy sẽ ngăn
cản hoạt động của quy luật tự nhiên.
1.2. Kinh tế chính trị học tầm thường:
1.2.1. Thomas Robert Malthus (1766 – 1844):
Malthus đã sử dụng yếu tố tầm thường trong học thuyết của Adam Smith tức
là việc quy định tỷ giá lao động.
Theo Malthus, tiền cơng là chi phí về lao động sống. Tiền công giảm là do dân
số tăng lên nên tăng cung về lao động
1.2.2. Jean Baptiste Say (1767 – 1832):
Lợi dụng yếu tố tầm thường của Smith khi coi tiền công, lợi nhuận và địa tô
là ba nguồn gốc cấu thành giá trị hàng hóa, kết hợp với lý thuyết giá trị ích lợi (tính
hữu dụng) của mình, Say đưa ra lý thuyết “Ba nhân tố sản xuất” và “Ba nguồn thu
nhập”.
Theo Say, tham gia vào sản xuất có ba yếu tố: lao động, tư bản và ruộng đất.
Mỗi nhân tố đó đều có cơng phục vụ, mà cái gì tạo ra sự phục vụ đều là sản xuất. Do



đó, khơng chỉ có lao động, mà cả tư bản và tự nhiên đều tạo ra giá trị. Cả ba yếu tố
đều có cơng phục vụ: lao động tạo ra tiền công, tư bản tạo ra lợi nhuận, ruộng đất tạo
ra địa tơ. Vì vậy, phải có quyền nhận được thu nhập tương xứng: công nhân nhận
được tiền công, nhà tư bản hưởng lợi nhuận, địa chủ nhận được địa tơ.
Từ sự phân tích đó, ơng khẳng định, tiền cơng của cơng nhân tương ứng với
phần đóng góp của cơng nhân vào giá trị sản phẩm, lao động của công nhân giản
đơn, thơ kệch thì sẽ thu được tiền lương thấp hơn lợi nhuận và ngược lại. Từ đó cho
rằng, ai cũng được hưởng phần thu nhập, khơng ai bóc lột ai. Chỉ có tư bản cho vay
mới là bóc lột.
1.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản – Đại biểu là Sismondi (1773 – 1842):
Sismondi theo quan điểm của A. Smith, coi tiền cơng phụ thuộc vào tích lũy
tư bản và số lượng công nhân, cung – cầu về lao động. Đồng thời, ông lại theo quan
điểm của kinh tế chính trị tầm thường, khi cho rằng tiền cơng và sự tăng dân số có
quan hệ trực tiếp với nhau; từ đó khẳng định thất nghiệp là hiện tượng thường xuyên.
Ông chống lại luận điểm cho rằng việc dùng máy hơi nước làm giảm nhu cầu
lao động ở ngành này, nhưng lại tăng nhu cầu lao động ở ngành khác.
2. Lý luận về lợi nhuận:
2.1. Kinh tế chính trị học cổ điển:
2.1.1. Adam Smith (1723 – 1790):
Smith đã chỉ rõ nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. Theo ông, lợi nhuận là
“phần khấu trừ thứ hai từ sản phẩm của người lao động”. Nó khơng chỉ xuất hiện
trong nông nghiệp (điều mà chủ nghĩa trọng nông đã vạch ra), mà cịn có cả trong
ngành cơng nghiệp. Đây là phát hiện đúng và là thành tựu cao nhất của kinh tế chính
trị tư sản cổ điển vì đã nêu lên được quan hệ kinh tế cơ bản nhất trong xã hội tư bản.
Các Mác đã đánh giá cao phát hiện này, cho rằng “Smith đã nắm được nguồn gốc
thực sự của giá trị thặng dư”.
Smith còn cho rằng mức lợi nhuận tăng hay giảm tùy thuộc vào những nguyên
nhân làm giảm hay tăng tiền công, mức độ cạnh tranh hay độc quyền trên thị trường
và tình trạng tăng, giảm của cải của xã hội. Ông đã thấy xu hướng hình thành tỷ suất

lợi nhuận bình quân do tác động cạnh tranh giữa các ngành và khuynh hướng tỷ suất
lợi nhuận giảm sút do khối lượng tư bản đầu tư tăng lên.
Từ quan điểm trên, Smith cho rằng lợi tức là một phần của lợi nhuận, được đẻ
ra từ lợi nhuận. Lợi tức của tư bản đi vay được trả bằng cách lấy vào lợi nhuận thuần
túy và do mức lợi nhuận thuần túy quyết định.


2.1.2. David Ricardo (1772 – 1823):
Ricardo khơng có ý định truy tìm nguồn gốc của lợi nhuận mà chỉ đi tìm các
yếu tố ảnh hưởng đến nó mà thơi. Điều này dễ hiểu, bởi vì học thuyết kinh tế mà ông
xây dựng nhằm bảo vệ lợi ích các nhà tư bản cơng nghiệp, nên khơng muốn phân
tích nguồn gốc thật sự của lợi nhuận từ giá trị lao động, mà ơng lại cho rằng nó là
một thuộc tính cố hữu của tư bản, có trước và nằm ngồi q trình sản xuất ra giá trị.
Mặc dù vậy, ta có thể thống qua một số luận điểm của ông về giá trị, về mối quan hệ
giữa các thu nhập “tiền công thấp chỉ là một tên gọi khác đi đôi với các lợi nhuận
cao”, để khẳng định rằng ông đã hiểu lợi nhuận là kết quả lao động, là phần giá trị
lao động do cơng nhân tạo ra ngồi tiền cơng.
Ricardo giải thích khơng đúng yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận, cho rằng do
độ màu mỡ của đất đai ngày càng giảm sút, nên nhà tư bản phải chi phí một lượng
lao động ngày càng lớn hơn để sản xuất ra số lương thực cần thiết phụ thêm, làm cho
tiền cơng tăng và lợi nhuận bị giảm.
Việc tích lũy tư bản có ảnh hưởng gì tới lợi nhuận? Theo Ricardo, nó sẽ khơng
làm giảm lợi nhuận một cách lâu dài, vì tư bản cuối cùng sẽ tìm được những bàn tay
cần thiết cho nó. Tư bản tăng lên thì cơng việc do tư bản thực hiện cũng tăng theo
cùng một tỷ lệ.
Thành công quan trọng trong hệ thống lý luận của Ricardo là luận giải đúng
quy luật tỷ suất lợi nhuận bình qn. Ơng xuất phát từ hai giả định cổ điển về nền
kinh tế thị trường: Các nhà tư bản ln tìm cách tối đa hóa lợi nhuận và tư bản có thể
dịch chuyển hóa tỷ suất lợi nhuận trong điều kiện tự do cạnh tranh. Trên cơ sở đó,
Ricardo cho rằng: “Cái khát khao khơng cùng của các nhà tư bản là rời bỏ chỗ có ít

lợi nhuận sang chỗ có nhiều lợi nhuận hơn tạo nên một khuynh hướng mạnh mẽ san
bằng tỷ suất lợi nhuận ở mọi nơi, hay là cố định chúng ở một tỷ lệ nhất định cho
phép, theo dự tính của các bên, loại trừ mọi lợi thế có hoặc dự tính là có khả năng
xuất hiện trong một ngành nào đó”. Với mức tỷ suất lợi nhuận được san bằng, các
nhà tư bản trong mọi lĩnh vực đều nhận được mức “lợi nhuận thơng thường” hay “lợi
nhuận bình qn”.
2.2. Kinh tế chính trị tầm thường:
2.2.1. Thomas Robert Malthus (1766 – 1844):
Malthus cho rằng chi phí để tạo ra hàng hóa gồm chi phí mua lao động vật
hóa, chi phí mua lao động sống và lợi nhuận tư bản ứng trước. Như vậy, lợi nhuận là
khoản dơi ra ngồi chi phí lao động sống, tách lợi nhuận ra khỏi lao động sống.


Ông khẳng định lợi nhuận không liên quan đến lao động của cơng nhân, nó
được coi như một yếu tố cấu thành của giá trị. Công nhân không tạo ra lợi nhuận cho
nhà tư bản, khơng bị tư bản bóc lột.
Theo Malthus, lợi nhuận không thể xuất hiện trong việc trao đổi giữa các nhà
tư bản. Malthus nhận định trong phạm vi khả năng những người đảm nhiệm sản xuất
(tức là nhà tư bản và cơng nhân) khơng thể tìm ra lượng cầu có khả năng thanh tốn
phần lượng cung do lợi nhuận đại biểu. Do đó, tình trạng thừa hàng hóa sẽ xuất hiện.
Xã hội chỉ có nhà tư bản và cơng nhân thì khơng thể tránh khỏi tai họa đó.
Theo Malthus, lối thốt của CNTB là phải tăng mức tiêu dùng của giai cấp
không sản xuất như quý tộc, tăng lữ, nhân viên Nhà nước… những người chỉ mua,
khơng bán, “những người thứ ba” phải hoang phí hơn để tạo nên lượng cầu đầy đủ
cho nhà tư bản.
2.2.2. Jean Baptiste Say (1767 – 1832):
Trong lịch sử, cho đến thời của Say, đã có ba quan niệm về lợi nhuận:
Một là, lợi nhuận do lưu thông tạo ra, là kết quả của việc mua rẻ, bán đắt;
Hai là, lợi nhuận do sự tiết dục, nhịn ăn tiêu của nhà tư bản;
Ba là, lợi nhuận là hiệu suất đầu tư do tư bản mang lại.

Say ủng hộ quan niệm thứ ba và cho rằng đầu tư thêm tư bản vào sản xuất, thì
sẽ làm tăng thêm sản phẩm, tăng thêm giá trị. Máy móc tham gia vào sản xuất cũng
làm tăng thêm giá trị, tăng lợi nhuận. Từ đó, ơng giải thích lợi nhuận dựa vào hiệu
suất đầu tư của tư bản.
Say phân biệt nhà tư bản với nhà kinh doanh. Theo ơng, nhà tư bản chính là
người có tư bản cho vay để thu lợi tức, còn nhà kinh doanh là người mạo hiểm, dám
chấp nhận nguy hiểm trong cuộc chơi. Họ vay tư bản, thuê nhân công, sản xuất ra
hàng hóa bán trên thị trường. Vì vậy, họ cũng lao động như công nhân, lợi nhuận mà
họ thu được cũng giống tiền cơng của cơng nhân. Đó là một hình thức đặc biệt của
tiền cơng mà nhà tư bản tự trả cho mình. Cho rằng, chỉ có lợi tức của kẻ sở hữu tư
bản mới là con đẻ của bản thân tư bản.
Say cho rằng, tiến bộ kỹ thuật có vai trị đặc biệt. Việc sử dụng máy móc đem
lại “hậu quả” tốt lành khơng chỉ cho giai cấp tư sản mà cịn cho cả giai cấp cơng
nhân. Tuy trong thời kỳ đầu, việc sử dụng máy móc mới gây ra “điều bất tiện” là gạt
bỏ một bộ phận cơng nhân, khiến cho họ “tạm thời” khơng có việc làm, nhưng về
sau do việc sử dụng máy móc tăng lên, việc làm cũng tăng lên. Việc sử dụng máy
móc sẽ làm ra sản phẩm có giá rẻ hơn, cơng nhân là người “có lợi nhất” và điều này


cũng làm cho lợi nhuận tăng lên. Thực chất, Say muốn chứng minh sự hịa hợp lợi
ích giữa nhà tư bản và người lao động.
2.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản - Đại biểu là Sismondi (1773 – 1842):
Sismondi phát triển quan điểm của Adam Smith, coi lợi nhuận là khoản khấu
trừ thứ tư vào giá trị sản phẩm và cho rằng đó là khoản thu nhập khơng lao động, là
kết quả của sự cướp bóc cơng nhân, là tai họa kinh tế của giai cấp vơ sản.
Từ đó cho rằng, việc san bằng lợi nhuận chỉ đạt được bằng cách phá hủy những
tư bản cố định bằng sự tiêu vong của công nhân trong các ngành bị suy sụp.
3. Lý luận về địa tơ:
3.1. Kinh tế chính trị học cổ điển:
3.1.1. William Petty (1623 – 1687):

Theo ông, địa tô là số chênh lệch giữa thu nhập bán hàng và chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất bao gồm tiền cơng và tiền giống. Trong phân tích về địa tơ, William
Petty một mặt, đã đồng nhất nó với lợi nhuận; mặt khác, lại cho rằng đó là kết quả
của sự bóc lột. Thực ra, ơng khơng rút ra được lợi nhuận của kinh doanh ruộng đất,
không trực tiếp đề cập đến vấn đề bóc lột. Nhưng theo phân tích logic của ơng, chúng
ta có thể rút ra được kết luận rằng, công nhân chỉ nhận được tiền công tối thiểu, số
còn lại là lợi nhuận của địa chủ. Logic bên trong của quan niệm đó là sự thừa nhận
có bóc lột.
Từ luận điểm này, Mác nhận xét cơng lao của Petty là đã dự đoán đúng bản
chất của giá trị thặng dư, là người đầu tiên nêu ra mầm mống của lý luận về bóc lột
theo lối tư bản chủ nghĩa.
3.1.2. Adam Smith (1723 – 1790):
Smith có nhiều luận điểm đúng đắn và khoa học về địa tô. Theo ông, địa tô do
chế độ độc quyền về đất mà có, nó là: (1) Khoản khấu trừ thứ nhất vào sản phẩm lao
động, là kết quả của việc bóc lột người sản xuất trực tiếp; (2) Giá phải trả cho việc
sử dụng đất, nó là giá cao nhất mà người thuê có khả năng trả trong những điều kiện
đất đai hiện nay.
Hai luận điểm đó đã phải ánh được mối quan hệ giữa ba giai cấp: địa chủ, tư
bản kinh doanh nông nghiệp và công nhân nông nghiệp trong quan hệ ruộng đất tư
bản chủ nghĩa.
Smith đã chứng minh quan hệ giữa địa tô và giá cả nông phẩm. Cho rằng, quy
mơ địa tơ nhiều hay ít là kết quả của giá cả nông phẩm. Địa tô phụ thuộc vào tình
hình giá cả nơng phẩm có vượt q số tiền đủ để bù lại tiền công và lợi nhuận hay


không. Theo ông, dân số tăng lên kéo theo yêu cầu về nông phẩm tăng làm cho giá
nông phẩm “bao giờ cũng có một số dư nào đó dành cho địa tơ của người chủ ruộng”.
Vì vậy, địa tơ là kết quả của giá cả nông phẩm cao chứ không phải là nguyên nhân
của giá cả cao.
Smith đã phân biệt hai hình thái của địa tơ: địa tơ trên những đất có màu mỡ

và địa tơ do vị trí của đất. Cho rằng mức địa tô đương nhiên là giá độc quyền. Các
yếu tố độc quyền liên quan đến việc xác định địa tô là độ màu mỡ và vị trí của đất.
Đất thích hợp với một sản phẩm đặc biệt đều có có độc quyền. Như vậy, ơng đã biết
đến địa tô chênh lệch. Tuy nhiên, ông không chỉ ra được địa tơ chênh lệch do thâm
canh mà có mặc dù đã phân biệt địa tô với tiền thuê ruộng, cho rằng trong tiền th
ruộng có địa tơ và lợi tức của tư bản đã chi phí vào việc cải thiện đất đai.
3.1.3. David Ricardo (1772 – 1823):
Với quyền sở hữu đất đai, địa chủ cho thuê và thu tiền sử dụng đất, gọi là địa
tô. Theo Ricardo, địa tô là phần sản phẩm của đất đai được trả cho địa chủ về việc
sử dụng những lực lượng đầu tiên và chưa bị phá hoại của đất đai.
Khi giải thích nguồn gốc của địa tơ, Ricardo xuất phát từ lý luận giá trị lao
động. Ông phê phán J.B.Say coi địa tơ là do sự phục vụ có tính chất sản xuất của
ruộng đất. Theo ông, địa tô là bộ phận của sản phẩm lao động, là một phần giá trị do
lao động tạo ra, là một hình thức phái sinh của lợi nhuận. Nó là kết quả của phân
phối lại.
Sở dĩ xuất hiện địa tơ như vậy “chỉ vì đất đai có giới hạn về lượng và khơng
đồng đều về chất, vì tiến trình phát triển dân số đã buộc người ta phải canh tác trên
những mảnh đất kém màu mỡ hơn, vị trí giao thơng bất tiện hơn, người ta mới phải
trả tiền cho việc sử dụng đất”. Việc trả loại tiền này là do tồn tại chế độ tư hữu về
ruộng đất. Như vậy, chỉ có những mảnh đất màu mỡ và gần đường giao thông, địa
chủ mới thu được địa tơ này. Ricardo đã giải thích đúng cơ sở của địa tô chênh lệch
I và cho rằng nó là phần lợi nhuận siêu ngạch ngồi lợi nhuận bình quân mà những
người thuê ruộng phải nộp trả địa chủ.
3.2. Kinh tế chính trị học tầm thường - Jean Baptiste Say (1767 – 1832):
Theo Say, địa tô là khoản thu nhập chính đáng của địa chủ vì ruộng đất cũng
tham gia vào quá trình sản xuất, tạo ra giá trị của hàng hóa.
Như vậy, ruộng đất tạo ra địa tơ.
3.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản - Đại biểu là Sismondi (1773 – 1842):



Sismondi cho rằng, địa tô là kết quả của sự cướp bóc cơng nhân. Ơng phê phán
quan điểm của David Ricardo cho rằng ruộng đất xấu khơng có địa tơ và khẳng định
ruộng xấu cũng phải nộp địa tô do chế độ độc quyền sở hữu ruộng đất quy định. Ông
đã thừa nhận địa tô tuyệt đối.
III. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN:
1. Ý nghĩa lý luận:
Nghiên cứu những thành tựu trong nghiên cứu trước C. Mác về quy luật điều
tiết thu nhập có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc xác định thu nhập
của mỗi yếu tố sản xuất sẽ được xác định như thế nào. Hay nói cách khác, theo cách
tiếp cận vĩ mơ, tiêu dùng và tiết kiệm chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong tổng thu nhập.
Các lý thuyết điều tiết thu nhập đã luận giải nguồn gốc của bất bình đẳng và
sự nghèo đói trong xã hội, cho rằng đó là do quy luật tất yếu của thị trường cạnh
tranh.
Mặc dù có những hạn chế, sai lầm, nhưng với tư cách là các trường phái khoa
học trong lịch sử, với những tư tưởng tiến bộ, các học thuyết trước C. Mác là cơ sở,
nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác.
Việc nghiên cứu về quy luật điều tiết thu nhập giúp cho việc mở rộng và nâng
cao hiểu hiểu biết về nền kinh tế thị trường, trang bị những kiến thức cần thiết cho
việc nghiên cứu, xây dựng đường lối, chiến lược phát triển kinh tế của đất nước,
chiến lược kinh doanh…
Tín hiệu thị trường là cơ sở để người sản xuất đầu tư vào đâu thu được nhiều
lợi nhuận, tích cực mở rộng sản xuất và đứng vững trong cạnh tranh. Nó sàng lọc
được yếu tố người và vật trong nền kinh tế.
Trong điều kiện nước ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập, đổi
mới tư duy kinh tế có một ý nghĩa vơ cùng quan trọng để có thể nhận thức và phân
tích những mặt mạnh, mặt yếu của các chính sách kinh tế đã và đang được thực hiện
tại nhiều quốc gia. Từ đó mới có thể đề xuất để hoạch định, nhận thức sâu sắc và vận
dụng sáng tạo những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong
quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.

2. Liên hệ thực tiễn:
Các học thuyết của trường phái kinh tế chính tị tư sản cổ điển cho rằng, phân
công lao động sẽ làm tăng hiệu suất lao động, tăng năng suất lao động, từ đó làm
tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp. Nguyên nhân dẫn đến phân công lao động là


trao đổi hàng hóa trên thị trường, mức độ phân công lao động phụ thuộc vào quy mô
thị trường. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, vấn đề phân cơng lao động là
thước đo trình độ phát triển của nền kinh tế đó, ở đâu có phân cơng lao động thì ở đó
có một nền kinh tế phát triển. Phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa cũng đang hướng theo quan điểm này, không chỉ phân công lao động trong
phạm vi quốc gia, mà phân công lao động đã và đang hướng ra phạm vi quốc tế,
nhằm khai thác tối đa mọi nguồn lực ở mọi nơi.
Ở nước ta, phân công lao động đã diễn ra một cách rộng rãi, để phát triển kinh
tế thị trường khơng chỉ về chiều rộng mà cịn cả về chiều sâu, giữa các ngành, các
lĩnh vực kinh tế. Nước ta có điều kiện để phát triển kinh tế thị trường là tài nguyên,
nguồn lực con người… là cơ sở quan trọng để phát triển kinh tế thị trường.
Vận dụng tư tưởng tự do kinh tế của Adam Smith có ý nghĩa quan trọng đối
với các chủ thể kinh tế trong việc cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Các chủ
thể kinh tế phải luôn tự đổi mới kỹ thuật, trang thiết bị, mẫu mã, chất lượng sản
phẩm… làm cho thời gian lao động cá biệt của mình thấp hơn thời gian lao động xã
hội để thu được lợi nhuận nhiều, tiếp tục mở rộng sản xuất.
So với các nước phát triển trên thế giới, trình độ kỹ thuật của nước ta cịn thấp
kém, trình độ lao động chưa cao, tính năng động của các chủ thể kinh tế cịn yếu. Vì
vậy, phát triển kinh tế thị trường để thừa nhận tính đồng bộ của nền kinh tế: thị trường
vốn, tiền tệ, thị trường sức lao động, thị trường chứng khoán…
Chúng ta phải thừa nhận tự do kinh doanh, sự bình đẳng của các chủ thể trong
nền kinh tế, khuyến khích làm giàu hợp pháp, đi đơi với xóa đói giảm nghèo, có tích
lũy nội bộ.
Tuy nhiên, cũng cần có cái nhìn khách quan, khoa học về cơ chế thị trường.

Khơng nên tuyệt đối hóa vai trị của thị trường trong việc điều tiết nền kinh tế. Sự
điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế là cần thiết để ngăn ngừa, khắc phục những
thất bại của thị trường, để thị trường hoạt động có hiệu quả.
Nền kinh tế Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới, Việt Nam đã
xác định được mục tiêu phát triển bền vững cho nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn
tới. Phát triển bền vững là một khái niệm khơng cịn mới, trong đó địi hỏi q trình
phát triển chú trọng tới cả ba trụ cột: kinh tế, xã hội và mơi trường. Đây mặc dù là
tầm nhìn chung của nhân loại nhưng tùy theo điều kiện từng quốc gia, trong từng
giai đoạn phát triển, nhu cầu và năng lực thực hiện phát triển bền vững không phải
bao giờ cũng thống nhất với nhau.


Về vấn đề điều tiết thu nhập hiện nay, chúng ta không thể bỏ qua việc điều tiết
thu nhập cá nhân. Nhà nước thông qua công cụ là thuế đánh vào thu nhập cá nhân
của người dân để điều tiết nền kinh tế khi mà có những cá nhân lại có mức thu nhập
cao hơn rất nhiều so với những cá nhân khác. Mặt khác, việc đánh thuế vào các cá
nhân này tạo ra cho nhà nước một khoản thu nhập mà từ đó có thể chi tiêu cho những
vấn đề khác cần thiết cho xã hội chẳng hạn như là: trợ cấp, học bổng, xây nhà tình
thương, xóa đói giảm nghèo… Nhìn chung, hiện nay các chính phủ sử dụng chủ yếu
2 cơng cụ là tín dụng chính sách lãi suất ngân hàng và chính sách thuế, nhưng đặc
biệt là cơng cụ thuế.
Những hình thức phân phối, điều tiết thu nhập ở Việt nam trong thời kỳ quá
độ lên CNXH xuất phát từ yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan và tự đặc
điểm kinh tế xã hội của đất nước mà chúng ta vận dụng nhiều hình thức thu nhập.
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, có nhiều hình thức xã hội khác
nhau. Nhà nước thừa nhận và đảm bảo bằng pháp luật khơng chỉ sở hữu tồn dân,
nhà nước mà cả sở hữu tư nhân về tiền vốn, của cải để dành và các tài sản hợp pháp
khác. Phù hợp với mỗi thành phần kinh tế, mỗi hình thức sở hữu là một hình thức
phân phối thu nhập nhất định. Mặc dù các hình thức phân phối thu nhập của nước ta
không tồn tại biệt lập với nhau mà đan xen với nhau và hợp thành cơ cấu kinh tế

quốc dân thống nhất, nhưng chưa thực hiện phân phối thu nhập theo một hình thức
mà phải thực hiện nhiều hình thức. Chỉ có vậy mới giải phóng được năng lực sản
xuất, khai thác triệt để mọi tiềm năng kinh tế của đất nước nhằm phát triển mạnh mẽ
kinh tế xã hội ở nước ta. Trong nền kinh tế nước ta cịn tồn tại nhiều hình thức kinh
doanh khác nhau. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Trong nền kinh tế này, có nhiều chủ thể sản xuất kinh doanh thuộc nhiều
thành phần kinh tế tham gia. Mỗi thành phần kinh tế có phương thức tổ chức sản xuất
– kinh doanh khác nhau. Ngay trong mỗi thời kỳ kể cả thành phần kinh tế nhà nước
cũng có các phương thức kinh doanh khác nhau. Vì vậy, khơng thể có một hình thức
phân phối thu nhập thống nhất mà phải có nhiều thành phần khác.
Việc điều tiết thu nhập đúng đắn và phù hợp với tình hình hiện nay của đất
nước sẽ là động lực mạnh thúc đẩy sản xuất phát triển và cải thiện đời sống nhân
dân. Ngược lại, điều tiết thu nhập khơng đúng sẽ khơng đảm bảo lợi ích kinh tế không
công bằng, chênh lệch quá lớn sẽ ảnh hưởng đến sản xuất. Như vậy, điều tiết thu
nhập ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế và vấn đề xã hội, đặc biệt là cơng bằng xã
hội. Đứng trước tình hình đó, những thành tựu của các học thuyết kinh tế trước C.Mác
về quy luật điều tiết thu nhập được Đảng và Nhà nước phát huy, bên cạnh đó, trước
những hạn chế của các học thuyết này, Đảng và Nhà nước ta có nhiều chính sách
nhằm phát huy vai trị, động lực của phân phối thu nhập đối với nền kinh tế đất nước:


Một là, Nâng cao vai trò điều tiết của nhà nước đối với phân phối thu nhập
Hai là, các giải pháp chống chủ nghĩa bình qn
Ba là, hồn thiện các chính sách tiền cơng, tiền lương và phân phối lại thu
nhập.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] GS.TS. Mai Ngọc Cường, Lịch sử các học thuyết kinh tế. Cấu trúc hệ thống. Bổ

sung. Phân tích và nhận định mới, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005
[2] PGS.TS. An Như Hải, Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế nâng cao, Viện
Kinh tế chính trị học, Hà Nội, 2014.
[3] GS.TS. Phạm Quang Phan – PGS.TS. An Như Hải, Giáo trình lịch sử các học
thuyết kinh tế, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2011
[4] PGS.TS. Trần Bình Trọng, Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế, Nhà xuất
bản thống kê, Hà Nội, 2003.



×