Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm, SKKN Tạo hứng thú, phát huy tính tích cực và chủ động của học sinh trong các giờ học Tiếng Anh bằng hoạt động cặp, nhóm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (604.17 KB, 20 trang )

1/15

UBND HUYỆN BA VÌ
PHỊNG GD VÀ ĐT BA VÌ



SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

“Tạo hứng thú, phát huy tính tích cực và chủ động
của học sinh trong các giờ học Tiếng Anh bằng hoạt
động cặp, nhóm.”
Lĩnh vực/Mơn: Tiếng Anh
Cấp học: THCS
Tên tác giả: Nguyễn Thị Duyên
Đơn vị công tác: Trường THCS Thái Hòa
Chức vụ: Giáo viên

Năm học 2020 - 2021


2/15

UBND HUYỆN BA VÌ
PHỊNG GD VÀ ĐT BA VÌ



SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

“Tạo hứng thú, phát huy tính tích cực và chủ động


của học sinh trong các giờ học Tiếng Anh bằng hoạt
động cặp, nhóm.”
Lĩnh vực/Mơn: Tiếng Anh
Cấp học: THCS
Tên tác giả: Nguyễn Thị Duyên
Đơn vị công tác: Trường THCS Thái Hòa
Chức vụ: Giáo viên

Năm học 2020 - 2021


3/15


4/15

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Tên đề tài
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng viết đề tài và phạm vi nghiên cứu
Ý nghĩa về mặt thực tiễn
1. Đối với giáo viên
2. Đối với học sinh
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
I.
Cơ sở lí luận
II. Cơ sở thực tiễn
III. Thực trạng

IV. Cách tổ chức hoạt động theo cặp - nhóm
1. Tổ chức cặp - nhóm
2. Những lưu ý trong quá trình hoạt động cặp - nhóm
3. Một số vấn đề thường gặp trong việc tổ chức hoạt động cặp –
nhóm và cách khắc phục
4. Các hình thức kuyện tập theo cặp
a. Thực hành kĩ năng giao tiếp
b. Thực hành ngữ pháp
c. Puzzles
5. Các hình thức luyện tập theo nhóm
a. Chain games
b. Mindmap
c. Whisper
d. Building beehives
V. Một vài ví dụ minh họa
VI. Kết quả nghiên cứu
VII. Rút ra bài học kinh nghiệm
C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I.
Kết luận
II. Khuyến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO

I.
II.
III
IV
V.

1

1
1
2
2
2
2
3
4
4
5
6
6
6
7
7
7
8
8
8
9
10
10
11
13
14
14
15


5/15


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Tên đề tài
“Tạo hứng thú, phát huy tính tích cực và chủ động của học sinh trong các giờ
học Tiếng Anh bằng hoạt động cặp, nhóm.”
II. Lí do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, Tiếng Anh là một ngôn ngữ giao tiếp quốc tế, sử dụng
rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, khoa học, y học, kỹ thuật trên tồn thế
giới. Chính vì vậy, bộ môn Tiếng Anh đã được đưa vào giảng dạy trong các trường
Tiểu học, THCS, THPT… việc dạy và học ngoại ngữ ngày càng được coi trọng.
Tuy nhiên trong quá trình dạy và học, giáo viên và học sinh gặp khó khăn về
nhiều mặt. Chính vì vậy, chương trình dạy học mới được xây dựng theo hướng
tiếp cận năng lực, phù hợp với xu thế phát triển, nhằm tạo bước chuyển biến căn
bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả của giáo dục phổ thông. Đổi mới dạy
học là một biện pháp then chốt, có tính đột phá trong việc nâng cao chất lượng
dạy và học.
Hiện nay có rất nhiều kỹ thuật, phương pháp dạy học mới, tích cực giúp tạo
sự hứng thú, tích cực và chủ động trong q trình dạy và học. Mỗi phương pháp
đều có những tác dụng, đặc điểm vận dụng khác nhau. Do vậy, người giáo viên
cần phải lựa chọn, kết hợp nhiều phương pháp với nhau để phát huy hết tính tích
cực, niềm say mê học tập và trinh phục kho tàng kiến thức của học sinh. Trong
các hoạt động dạy học đó, hoạt động theo cặp, nhóm phù hợp với đặc thù của bộ
môn Tiếng Anh.
Trong năm học 2020 - 2021, tơi đã từng áp dụng dạy học theo cặp, nhóm
vào giảng dạy môn Tiếng Anh 8 “Tạo hứng thú, phát huy tính tích cực và chủ
động của học sinh trong các giờ học Tiếng Anh bằng hoạt động cặp, nhóm.”
Hoạt động này rèn luyện cho học sinh hình thức học tập kết hợp giữa cá nhân,


6/15


cặp, nhóm, tương tác giữa các nhóm, phát triển kỹ năng làm việc nhóm. Khuyến
khích mọi học sinh tham gia vào các hoạt động của bài học, phát huy tính chủ
động, tích cực, sáng tạo và u thích với mơn học.
III. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ tình hình thực tế giảng dạy Tiếng Anh ở trường THCS , bản
thân tôi thấy được hạn chế của học sinh trong việc học Tiếng Anh, từ khâu lĩnh
hội từ mới, ngữ liệu mới cho đến việc rèn luyện các kỹ năng giao tiếp bằng ngoại
ngữ các em học. Để giúp các em dễ dàng, hồn nhiên tiếp cận với một ngôn ngữ
mới đó, đề tài “Tạo hứng thú, phát huy tính tích cực và chủ động của học sinh
trong các giờ học Tiếng Anh bằng hoạt động cặp, nhóm.” Là sự kết hợp các
phương pháp quan sát, nghiên cứu sản phẩm, nghiên cứu tài liệu, tổng kết kinh
nghiệm để xác định và đề xuất những biện pháp, thủ thuật nhằm nâng cao chất
lượng dạy Tiếng Anh cho học sinh ở trường THCS. Trên cơ sở những biện pháp
đề xuất, lựa chọn những biện pháp cơ bản mấu chốt, tối ưu mà khả năng và điều
kiện cho phép, tiến hành thực nghiệm, vận dụng phương pháp phù hợp cho từng
bài, từng đối tượng học sinh để đi đến khẳng định tính đúng đắn của những biện
pháp đó.
IV. Đối tượng viết đề tài và phạm vi nghiên cứu
Với đối tượng là học sinh THCS – khối lớp 8. Đa số các em thích học tiếng
Anh, bên cạnh đó phụ huynh cũng nhận thức được tầm quan trọng của bộ môn
tiếng anh nên đã đầu tư cho con đi học thêm để trau rồi thêm kiến thức của học
sinh. Tuy nhiên, kết quả của môn học chưa có được kết quả như mong muốn,
phạm vi tôi tập trung nghiên cứu và áp dụng là học sinh THCS, lớp 8A, 8B theo
phương pháp thực nghiệm đối chứng.
Thời gian nghiên cứu: Năm học 2020 – 2021. Dưới đây là kết quả học tập
đầu học kỳ I của học sinh khối lớp 8 năm học 2020 – 2021
Số hs
Điểm 9, 10
Điểm trên 5

Điểm dưới 5
Lớp

được
kiểm tra

SL

%

SL

%

SL

%

8A

32

5

15,6

12

37,5


20

62,5

8B

32

6

18,8

13

40,6

13

59,4

V. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
1. Đối với giáo viên
Để học sinh hoạt động theo cặp, nhóm có hiệu quả giáo viên - người tổ
chức, điều khiển hoạt động cần làm tốt những yêu cầu sau:
+ Chỉ dẫn bài tập hay nêu ra nhiệm vụ, yêu cầu phải thật rõ ràng
+ Trong q trình học sinh thực hiện giáo viên cần có sự theo dõi, bao quát chung.
Không ngắt lời khi học sinh đang luyện tập, đi quanh lớp lắng nghe và hỗ trợ kịp
thời khi cần thiết. Giáo viên ghi lại những lỗi sai điển hình để chỉ ra cho học sinh
sửa sau đó .



7/15

+ Giáo viên cần qui định thời gian cụ thể cho từng hoạt động.
+ Giáo viên nên linh động phân cặp, nhóm cho hợp lý: Có thể chọn học sinh cùng
trình độ để làm việc với nhau tuỳ theo từng ý đồ và tính chất của từng bài tập,
mẫu câu. Việc phân cặp, nhóm này nên quy định cho học sinh theo thói quen.
+ Sau khi học sinh thực hành bài tập theo cặp, nhóm cần có sự kiểm tra, nhận xét,
góp ý kiến kịp thời từ bạn bè ở nhóm khác, hoặc từ giáo viên để chữa lỗi hoặc
cung cấp mẫu đúng .
+ Một điểm lợi của hoạt động theo cặp hay theo nhóm là giải phóng giáo viên ra
khỏi vai trò của người dạy, người sửa lỗi và người kiểm soát lớp học, cho phép học
sinh đảm nhiệm những vai trò của người giao tiếp tự nhiên.
2. Đối với học sinh
Làm việc theo cặp và theo nhóm là hai hoạt động có rất nhiều điểm lợi:
+ Thứ nhất, làm tăng sự tham gia của học sinh. Nếu một chủ đề trong lớp được
năm hay sáu nhóm thảo luận trong cùng một thời gian thì điều này có nghĩa là số
lượng học sinh được nói và thời gian thảo luận của từng cá nhân được tăng lên từ
năm đến sáu lần. Hơn nữa, sự tham gia vào cặp - nhóm khơng những cuốn hút được
những học sinh tích cực mà cịn lơi kéo được cả những học sinh rụt rè nữa. Học
sinh sẽ thấy thoải mái hơn khi giao tiếp trong các nhóm nhỏ, do đó, có thể tự diễn
đạt những suy nghĩ của mình một cách tự nhiên hơn.
+ Thứ hai, thơng thường học sinh thích hoạt động theo nhóm hơn là phải trả lời
giáo viên trước lớp. Lí do là vì, khi giao tiếp trong nhóm nhỏ, kiểu ngôn ngữ học
sinh dùng để diễn đạt thường cụ thể, thân mật và họ có điều kiện để thử nghiệm
ngơn ngữ mà khơng bị áp lực từ bên ngồi.
+ Điểm lợi thứ ba của hoạt động thảo luận theo cặp và theo nhóm là, trong khi tiến
hành những hoạt động giao tiếp này, học sinh có nhiều điều kiện để giúp đỡ nhau
hơn, các em sẽ học nhau một cách hữu thức hay vô thức thông qua việc chữa lỗi
cho nhau và bổ sung kiến thức cho nhau và cùng nhau phát triển các kĩ năng.

B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
I. Cơ sở lí luận
Với định hướng lấy người học làm trung tâm, việc lựa chọn phương pháp
giảng dạy thường phức tạp hơn việc xây dựng các mục tiêu giảng dạy rất nhiều.
Thơng thường, giáo viên có thể tiến hành công việc này theo hai giai đoạn. Trong
giai đoạn thứ nhất, giáo viên cần tìm kinh nghiệm của người học và các phương
pháp học tập mà họ ưa thích để trên cơ sở đó, với kinh nghiệm sẵn có của mình,
giáo viên có thể lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp. Ở giai đoạn thứ hai,
giáo viên cần thu hút sự tham gia tích cực của học sinh vào việc lập kế hoạch cho
các chương trình học tập của họ. Cơng việc này có thể thực hiện được bằng cách
khuyến khích học sinh suy nghĩ, tham gia vào các hoạt động học tập do giáo viên
tổ chức một cách tích cực, chủ động và sáng tạo. Do đó việc tổ chức hoạt động
học tập trong các giờ học nói chung và trong giờ học ngoại ngữ nói riêng có vai


8/15

trò đặc biệt quan trọng và rất cần được giáo viên chú ý trong việc thiết kế chương
trình, nội dung của bài giảng. Hai hình thức tổ chức lớp học phổ biến là làm việc
theo cặp (Pairwork) và làm việc theo nhóm (Groupwork) để làm cho giờ học thêm
sơi nổi, học sinh hứng thú với bài học, học sinh tự do sáng tạo, thể hiện sự hiểu biết
của mình thơng qua các yêu cầu của hoạt động, học sinh cũng có thể chia sẻ những
hiểu biết của mình về bất kì một lĩnh vực với bạn học đồng thời cũng học được
những cái hay từ bạn học của mình. Thơng qua những hoạt động cặp, nhóm, những
áp lực trong học tập được giảm xuống.

II. Cơ sở thực tiễn
Thế giới ngày nay là thế giới mở với xu thế toàn cầu, vì vậy nền giáo dục
cũng cần tạo ra những cơng dân tồn cầu, có những kĩ năng và kiến thức mở mang
tính tồn cầu, có thể sống và làm việc ở nhiều nơi trên thế giới.

Học - đặc biệt là học ngoại ngữ - chủ yếu là vấn đề giao tiếp liên nhân (giữa
người với người). Ngoài những nỗ lực cố gắng của từng cá nhân ra thì hình thức tổ
chức lớp học cũng đóng một vai trị rất quan trọng. Hai hình thức tổ chức lớp học
được cho là có lợi nhất cho dạy học ngoại ngữ là hoạt động theo cặp và theo nhóm.
Cần phải hiểu rằng hoạt động cặp nhóm khơng phải là phương pháp giảng dạy
mà là các cách thức tổ chức lớp học. Trong hoạt động theo cặp, giáo viên chia lớp
học ra làm các cặp. Mỗi học sinh làm việc với một người bạn của mình và tất cả
các cặp cùng làm việc một lúc. Trong hoạt động nhóm, giáo viên chia lớp thành
các nhóm nhỏ (mỗi nhóm từ 4 đến 5 học sinh). Cũng như hoạt động theo cặp, tất
cả các nhóm cùng làm việc một lúc. Tuy nhiên, nhiệm vụ của mỗi nhóm có thể
khác nhau.
Qua việc giảng dạy thực tế, tơi thấy việc thực hiện các giờ học vừa có thuận
lợi vừa có một số khó khăn:
+ Ngơn ngữ được thực hành nhiều, học sinh có cơ hội nói Tiếng Anh nhiều hơn,
học sinh tập trung nhiều hơn vào nhiệm vụ của mình. Học sinh cảm thấy yên tâm
hơn so với làm việc cá nhân, đặc biệt với học sinh nhút nhát.
+ Khuyến khích học sinh có thể giúp đỡ nhau, chia sẻ ý tưởng và hiểu biết của
mình. Trong hoạt động đọc, học sinh có thể giúp đỡ nhau tìm hiểu nghĩa của bài
khóa. Trong hoạt động thảo luận, học sinh có thể cùng nhau đưa ra nhiều ý tưởng
mới, học sinh cịn có thể chữa lỗi cho nhau. Học sinh cùng hồn thành nhiệm vụ
và sử dụng ngơn ngữ sáng tạo hơn.
+ Học sinh cịn có thể hỗ trợ nhau trong việc học ở nhà.


9/15

+ Thơng thường làm việc theo cặp, nhóm thường gây ra tiếng ồn nhưng chính học
sinh lại khơng quan tâm đến vấn đề này. Tiếng ồn này là tiếng ồn có ích, nó khuyến
khích học sinh thực hành nói Tiếng Anh.
+ Đơi khi có một số học sinh khơng tham gia mà chỉ ngồi không.

+ Mất nhiều thời gian, thậm trí lớp học cịn lộn xộn nếu giáo việ khơng kiểm soát
được.
III. Thực trạng.
Đối tượng nghiên cứu là học sinh THCS của một xã trung du, môi trường
sử dụng tiếng Anh trong giao tiếp gần như khơng có, cơ hội tiếp xúc và sử dụng
Anh ngữ với người bản địa hầu như khơng, bên cạnh đó kiến thức, kỹ năng và
quan trọng hơn cả là tâm lý ngại giao tiếp làm cho việc đưa tiếng Anh vào môi
trường sinh hoạt cịn nhiều hạn chế. Điều này gây ảnh hưởng khơng nhỏ đến chất
lượng dạy và học đồng thời làm cho mục tiêu dạy học ngoại ngữ theo đường
hướng giao tiếp khó có thể thực hiện được.
Trong q trình áp dụng hoạt động theo cặp, nhóm tơi nhận thấy đa số học
sinh chủ động tham gia, đặc biệt là học sinh khá giỏi, cịn học sinh yếu kém thì sao?
Để thu hút học sinh yếu, kém tham gia vào hoạt động thì giáo viên phải khai thác
từ học sinh khá giỏi, phân cặp, nhóm có cả hai đối tượng trên.
Dưới đây là bảng thống kê kết quả đầu năm học (kiểm tra việc nắm
được nội dung bài học)
Lớp

Số hs
được
kiểm
tra

Điểm 9, 10

Điểm trên 5

Điểm dưới 5

SL


%

SL

%

SL

%

8A

32

5

15,6

12

37,5

20

62,5

8B

32


6

18,8

13

40,6

13

59,4

IV. Cách thức tổ chức hoạt động theo cặp – nhóm
1. Tổ chức cặp - nhóm
Tổ chức cặp nhóm như thế nào cho hiệu quả cao là một vấn đề cần được
quan tâm.
Chúng ta nên chọn một trong số các cách tổ chức cặp, nhóm sau:
+ Theo cặp, nhóm bạn bè. Đây là hình thức cơ bản nhất để tạo khơng khí thoải mái
khi làm việc trong các cặp và nhóm. Có hai cách thành lập cặp và nhóm. Thứ nhất
là để các học sinh tự thành lập các cặp và nhóm của mình. Nếu cách làm thứ nhất
gặp khó khăn, giáo viên có thể chọn cách thứ hai là yêu cầu học sinh viết tên các
bạn theo cặp hoặc nhóm, trên cơ sở đó giáo viên sẽ quyết định các cặp hoặc nhóm


10/15

cho luyện tập.
+ Theo khả năng của học sinh. Cũng có hai cách tổ chức cặp, nhóm theo trình độ
học sinh. Thứ nhất là tổ chức cặp, nhóm hỗn hợp giữa học viên khá, giỏi với học sinh

kém hơn. Hình thức này tạo điều kiện cho các học sinh giúp đỡ lẫn nhau trong học
tập. Cách thứ hai là tổ chức các cặp, nhóm học sinh có cùng trình độ. Hình thức này
có ưu điểm là giáo viên có thể giao các loại hình bài tập phù hợp với trình độ từng
loại học sinh, mặt khác giáo viên có điều kiện giúp đỡ học sinh kém hơn.
+ Tổ chức cặp, nhóm ngẫu nhiên. Giáo viên có thể tổ chức cặp, nhóm một cách
ngẫu nhiên, khơng theo một quy định cụ thể nào. Ví dụ: tổ chức cặp, nhóm theo chỗ
ngồi như các học sinh ngồi sát nhau, theo bàn học, theo hai bàn học, theo cặp, nhóm
ngồi xa nhau, theo tháng sinh trong năm, theo màu sắc của áo các học sinh đang
mặc, theo cùng hoặc khác nhau về quốc tịch, giới tính,…
Cần lưu ý rằng sự thay đổi giữa các hình thức thành lập cặp, nhóm là hết sức
cần thiết để tránh sự nhàm chán trong luyện tập. Sự thay đổi các hình thức thành lập
cặp, nhóm cần được thực hiện thường xuyên, liên tục qua mỗi ngày, mỗi tiết học
thậm chí qua mỗi bài tập
2. Những lưu ý trong q trình hoạt động cặp - nhóm
Mỗi giáo viên có thể có những cách thức tổ chức lớp khác nhau tuỳ thuộc vào
từng điều kiện cụ thể cũng như trình độ thực tế của học sinh. Dưới đây chỉ là một
vài gợi ý đưa ra nhằm giúp cho việc tổ chức của giáo viên có thêm hiệu quả:
+ Thứ nhất, giáo viên cần chuẩn bị kỹ nội dung để học sinh thảo luận bằng cách
thành lập hệ thống những câu hỏi và cả những đáp án gợi ý có thể.
+ Thứ hai, giáo viên cần đưa ra những ví dụ và phân tích ví dụ thật cụ thể để đảm
bảo tất cả học sinh đều biết và hiểu rõ nhiệm vụ mình cần làm. Giáo viên cũng có
thể làm mẫu cùng một vài học sinh hoặc gọi một số học sinh khá hơn đứng lên
làm mẫu để đảm bảo tất cả học sinh đều bắt đầu làm việc sau khi đã giao nhiệm vụ
và hướng dẫn kĩ cách làm. Ngoài ra, giáo viên cũng cần quy định rõ thời gian tiến
hành hoạt động để học sinh chủ động trong khi tiến hành hoạt động.
+ Thứ ba, trong khi học sinh tiến hành thảo luận theo cặp - nhóm, giáo viên có thể
đi quanh lớp để kiểm tra việc thực hiện hoạt động của học sinh trong lớp. Giáo
viên cũng có thể dừng lại ở một số nhóm để theo dõi và đưa ra những hướng dẫn
cho học sinh nếu thấy cần thiết.
Sau khi học sinh kết thúc việc thảo luận theo cặp – nhóm, giáo viên có thể yêu

cầu một vài nhóm nhắc lại những gì họ đã thảo luận trước lớp. Những học viên
khác nghe và bổ sung hoặc nhận xét ý kiến. Với hoạt động căp, nhóm, giáo viên
có thể kiểm tra bằng việc gọi một vài đại diện của từng cặp, nhóm thơng báo kết
quả thảo luận trước lớp. Các nhóm khác nghe và cho ý kiến nhận xét.


11/15

Học sinh hoạt động theo nhóm, trình bài của nhóm trước lớp.

3. Một số vấn đề thường gặp trong việc tổ chức hoạt động cặp - nhóm và cách
khắc phục
Hoạt động theo cặp nhóm có nhiều lợi thế, nhưng nếu hai hoạt động này
không được tổ chức một cách phù hợp thì chúng rất dễ phản tác dụng và trong
trường hợp này, thay vì lớp học được tổ chức theo hình thức hoạt động chung,
nó sẽ trở thành một cái “chợ vỡ” vượt ra khỏi tầm kiểm soát của giáo viên. Gặp
trường hợp này, cách khắc phục là giáo viên phải đưa ra những hướng dẫn rõ
ràng để đảm bảo tất cả học sinh đều hiểu và có thể tiến hành hoạt động sau khi
nghe hướng dẫn. Chủ đề thảo luận cũng ảnh hưởng đến hứng thú của học sinh
nên giáo viên cũng cần lựa chọn những chủ đề thảo luận thú vị, phù hợp với nhu
cầu và sở thích của học sinh, lôi cuốn tất cả học sinh đều tích cực tham gia. Hơn
nữa, giáo viên cũng cần phân biệt tính chất “tiếng ồn” được tạo ra bởi hoạt động
cặp – nhóm. Nếu tiếng ồn là do kết quả thảo luận của học sinh tạo nên thì đó
được gọi là thứ âm thanh tốt “good noise” và không nên cố gắng để làm giảm mà
chỉ nên nhắc để học sinh điều chỉnh.
Một vấn đề cũng thường gặp khi tiến hành tổ chức hoạt động cặp – nhóm là
học sinh có thể mắc q nhiều lỗi mà giáo viên khơng thể kiểm sốt được. Tuy
nhiên, giáo viên cũng có thể khắc phục bằng cách đưa ra những hướng dẫn cụ thể
trước khi tiến hành hoạt động và thơng qua hình thức kiểm tra sau khi cho học sinh
tiến hành thảo luận. Việc này có thể giúp giáo viên phát hiện và sửa những lỗi mà

học sinh gặp phải nếu thấy cần thiết. Tuy nhiên việc sửa lỗi cũng cần được giáo
viên cân nhắc theo từng kĩ năng. Ví dụ, nếu đó là giờ nói, giáo viên nên hạn chế
tối đa việc chữa lỗi, đặc biệt là những lỗi nhỏ để khuyến khích học sinh nói trong
trường hợp học sinh khơng dám nói vì sợ sai.
Khi tổ chức cho học sinh hoạt động theo cặp - nhóm, giáo viên có thể khó
kiểm sốt lớp học. Để khắc phục vấn đề này, giáo viên cần đưa ra những hướng
dẫn cụ thể trước khi cho học sinh tiến hành hoạt động như là: khi nào thì bắt đầu,
phải làm những gì và khi nào thì kết thúc hoạt động. Hơn nữa, giáo viên cũng cần
tiến hành những hoạt động này một cách thường xuyên để học sinh coi đó như


12/15

những hoạt động thường ngày và tự giác thực hiện sau khi được giáo viên hướng
dẫn.
4. Các hình thức luyện tập theo cặp.
a. Thực hành kĩ năng giao tiếp: Hỏi và trả lời:
Dạng bài tập này xuất hiện nhiều ở phần Getting started và Skills 1.
Đòi hỏi học sinh phải nắm được nội dung của bài hội thoại hoặc bài đọc để
trả lời các câu hỏi cùng với bạn của mình. Với hoạt động này rèn cho học sinh
khả năng hợp tác chia sẻ thông tin và học hỏi từ bạn.
b. Thực hành ngữ pháp
Ví dụ: English 8 unit 1 A closer look 2: Using verbs of liking + gerunds/ to
infinitives
Giáo viên hướng dẫn và giao nhiệm vụ, học sinh tìm cặp phù hợp với mình
trong thời gian cụ thể mà giáo viên đã đặt ra, học sinh làm việc theo cặp thực hành
cấu trúc với love, like, enjoy, prefer…, ở hoạt động này học sinh của tôi bị cuốn
hút vào và thực hành một cách say sưa, sôi nổi để nói về những hoạt động học
sinh thích làm:
Ví dụ: S1: I like playing table tennis

S2: I love listening to music.
c. Puzzles.
Giáo viên chuẩn bị sẵn các mảnh ghép có liên quan đến nội dung bài học,
cho học sinh chọn cặp, nêu nhiệm vụ cho thời gian để hoàn thành nhiệm vụ.
Ví dụ: English Unit 2 A closer look 2: Comparative forms of adjectives


13/15

5. Các hình thức luyện tập theo nhóm
Tùy thuộc vào từng hoạt động trong bài học mà giáo viên có thể sử dụng
một số hình thức hoạt động theo nhóm như sau:
a. Chain game:
Đối với hoạt động nhóm này, tơi đã áp dụng rất nhiều vào các tiết dạy trong
chương trình Tiếng Anh 8 Unit 1 A closer look 2.
Ví dụ: English 8 unit1 A closer look 2
Giáo viên chia lớp thành 5 nhóm, nêu yêu cầu của hoạt động, đặt thời gian
cụ thể để các nhóm thực hành:
Student 1: I enjoy doing the housework.
Student 2: I enjoy doing the housework and watching TV.
Student 3: I enjoy doing the housework, watching TV and listening to mucis.
b. Mindmap:
Với hoạt động này học sinh làm việc ở lớp hoặc ở nhà dưới sự hướng dẫn
của giáo viên. Giáo viên nêu chủ đề, giao nhiệm vụ của từng nhóm và cho thời
gian cụ thể để các nhóm hồn thành. Sau đó đại diện nhóm lên trình bày, các nhóm
cịn lại lắng nghe và bổ sung nếu thấy cần thiết hoặc đặt thêm câu hỏi. Hoạt động
này áp dụng đối với học sinh khối 8 và 9 sẽ dễ dàng hơn còn học sinh khối 6 và 7
giáo viên phải hướng dẫn cặn kẽ và chi tiết hơn.
Ví dụ: Tiếng Anh 8 hoặc 9 kiểu bài phù hợp là Getting started, A closer look 2,
Skills 1 và Looking back and project.



14/15

c. Whisper:
Hoạt động này phù hợp vời bài dạy Pronunciation. Sau khi giáo viên đã
thực hiện các bước của bài dạy Pronunciation đến bước production: giáo viên
chuẩn bị các mẩu giấy nhỏ có nội dung liên quan đến âm mà học sinh được học
ngày hơm đó, các nhóm trưởng lên chụm đầu nghe giáo viên nói thầm cho biết
âm nào, sau đó quay về truyền thầm cho các thành viên cịn lại cho tới người cuối
cùng, sau đó lên viết từ mà nghe được, đọc to lên. Cuối cùng giáo viên kiểm tra
và đưa ra đáp án đúng.
Ví dụ: English 8 unit 1, 2, 3 and 4 A closer look 1 Pronunciation
d. Building beehives:


15/15

V. Một vài ví dụ minh họa
1. Tiếng Anh 8 Unit 5 Festivals in Viet Nam skills 1 and skills 2
Giáo viên hướng dẫn học sinh cách tiếp cận nội dung bài học thơng qua
tranh, chia nhóm để học sinh hoạt động:

Where is
the
festival?

When is
it held?


How to
get here?

Name of
festivals
How
long ?
Who is
worship
ped?

What
are
activities
?


16/15

Học sinh làm việc theo nhóm giới thiệu về lễ hội Chùa Hương

Học sinh làm việc theo nhóm giới thiệu về lễ hội Đền Hùng


17/15

Học sinh làm việc theo nhóm trong Tiếng Anh 8 Unit 5 Festivals in Việt Nam

Học sinh làm việc theo nhóm trong Tiếng Anh 8 Unit 4 Our customs and
traditions



18/15

VI. Kết quả nghiên cứu
Sau khi tập trung nghiên cứu đề tài “Tạo hứng thú, phát huy tính tích cực
và chủ động của học sinh trong các giờ học Tiếng Anh bằng hoạt động cặp,
nhóm.” Tơi tiến hành dạy thực nghiệm ở khối 8 và tôi nhận thấy rằng trong thời
gian áp dụng ngoài việc đáp ứng được nhu cầu đổi mới, học sinh còn hứng thú
hơn khi tham gia vào hoạt động học tập hơn nữa các em ngày càng u thích mơn
học, nhiều đối tượng học sinh trong lớp được tham gia vào bài học. Một số học
sinh khác trở nên năng động hơn, giảm thiểu số học sinh nhút nhát, học sinh lười
và ngại giao tiếp. Giờ học trở nên sôi nổi, thú vị hơn, mối quan hệ giữa cô giáo và
học sinh trở nên gần gũi hơn, giờ học có khơng khí thân thiện, khơng có khoảng
cách giữa học sinh khá giỏi và yếu kém. Kết quả được thể hiện sự thay đổi của
học sinh từ đầu học kì I đến giữa học kì II.
Dưới đây là bảng thống kê kết quả đầu năm học (kiểm tra việc nắm
được nội dung bài học)
Lớp

Số hs
được
kiểm
tra

Điểm 9, 10

Điểm trên 5

Điểm dưới 5


SL

%

SL

%

SL

%

8A

32

5

15,6

12

37,5

20

62,5

8B


32

6

18,8

13

40,6

13

59,4

Dưới đây là kết quả giữa học kì II

Lớp

Số hs
được
kiểm
tra

Điểm 9, 10

Điểm trên 5

Điểm dưới 5


SL

%

SL

%

SL

%

8A

32

10

31,3

28

87,5

4

12,5

8B


32

10

31,3

27

84,4

5

15,6

VII. Rút ra bài học kinh nghiệm
Giáo viên trước hết phải có lịng u nghề và có kiến thức sâu về chun
mơn. Vì vậy, các thầy cơ cần phải dạy học trị khơng chỉ bằng cả trái tim mà cả
khối óc. Dạy bằng trái tim là để truyền sự dung cảm. Dạy bằng khối óc là để truyền
đạt tri thức.
Làm cho học sinh thấy được tầm quan trọng của môn tiếng Anh đối với
cuộc sống thực tại và tương lai ở thời đại công nghệ 4.0.
Khi dạy học các thầy cô không nên quá cứng nhắc về phương pháp mà phải
có sự linh hoạt trong giờ dạy. Để học sinh thực sự nhập cuộc vào bài học, chủ
động trong lối suy nghĩ và cách nghĩ.


19/15

Học sinh nắm bắt bài nhanh hơn, học sinh trau rồi kiến thức tự học và chia
sẻ với bạn học cùng cặp, nhóm. Và giờ học khơng q nặng nề và căng thẳng.

C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I. Kết luận
Cách tổ chức cho học sinh hoạt động theo cặp, nhóm có nhiều ưu thế, góp
phần phát triển các quan hệ bè bạn trong môi trường học tập . Các kỹ năng giao
tiếp, lắng nghe, diễn đạt, tranh luận, lãnh đạo, rèn luyện khả năng hợp tác, tương
hỗ giúp cho người học tự tin hơn. Tổ chức cho học sinh hoạt động theo cặp, nhóm
giúp phát triển trí tuệ, rèn kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tư duy, suy luận, giải quyết
vấn đề, phát triển tư duy độc lập, tự chủ sáng tạo của người học.
Tổ chức cho học sinh hoạt động theo cặp, nhóm là phương pháp dạy
học trong đó nhóm lớn (lớp học) được chia thành từng cặp hoặc nhóm nhỏ thích
hợp để tất cả các thành viên trong lớp đều được khuyến khích làm việc, thực hành,
thảo luận về một nội dung công việc cụ thể được giao để cùng hồn thành tốt
nhiệm vụ .
Hình thức tổ chức cho học sinh hoạt động theo cặp, nhóm gồm 3 thành tố
cơ bản của phương pháp dạy học là: Giáo viên - Học sinh và nội dung dạy học.
Ba thành tố này tác động qua lại lẫn nhau trong môi trường xã hội:
+ Học sinh là chủ thể trung tâm tự tìm ra tri thức bằng chính hoạt động của mình.
+ Giáo viên chỉ là người hướng dẫn và tổ chức giúp cho người học tự tìm ra tri
thức, là người đạo diễn, thức tỉnh, trọng tài, cố vấn ...
Hình thức dạy học theo cặp, nhóm phát huy trực tiếp sự tham gia của người
học vào các hoạt động trong giờ học một cách linh hoạt nhằm giúp người học phải
tự lực học tập hình thành thói quen làm việc hợp tác, khả năng giao tiếp. Giúp các
em phát huy tinh thần đoàn kết sự giúp đỡ, tương trợ nhau trong học tập, người
khá giỏi giúp đỡ người yếu kém để người yếu kém cố gắng vươn lên.
Dạy học theo cặp, nhóm cịn đánh thức và khơi dậy tiềm năng, trí tuệ của
người học bằng cách đặt họ vào tình huống, vấn đề cụ thể. Người học phải bằng
suy nghĩ và hành động của chính mình, tự mình tìm ra tri thức, giúp hình
thành những phẩm chất quan trọng cho con người trong thời hiện đại như tính
độc lập, tích cực, tự tin, tinh thần hợp tác và kỹ năng sống và làm việc cùng người
khác trình bày ý kiến của mình và lắng nghe ý kiến của người khác, biết đánh

giá bản thân và thừa nhận giá trị của những người xung quanh, biết học từ người
khác và biết tự khẳng định mình.
Sau một thời gian áp dụng phương pháp dạy học theo cặp, nhóm, đối với
học sinh khối lớp 8, kết quả đạt được rất khả quan, phát huy tích tích cực và tự
giác của học sinh. Học sinh thích thú với mơn học, tích cực phát biểu ý kiến trong
giờ học, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, chuẩn bị bài trước khi đến lớp cẩn
thận hơn, tích cực làm bài tập về nhà. Trong giờ học, cả giáo viên và học sinh đều
cảm thấy thoải mái, vui vẻ, hoàn thành mục tiêu của bài học.


20/15

II. Khuyến nghị
Để việc ứng dụng hình thức dạy học theo nhóm cặp được hiệu quả cao hơn
trong việc dạy và học tiếng anh, tơi có một số đề xuất và khuyến nghị như sau:
+ Triển khai các chuyên đề ở các môn học trong đợt bồi dưỡng hè của giáo viên.
+ Khuyến khích giáo viên sử dụng hoạt động khác nhau trong dạy học.
Trên đây là một số những kinh nghiệm đã được vận dụng trong năm học
2020- 2021 của tôi. Tuy chỉ là ý kiến của cá nhân tơi, song tơi cũng mạnh dạn
trình bày để các đồng chí tham khảo. Trong q trình nghiên cứu và thử nghiệm
khơng tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy rất mong nhận được sự tham gia đóng
góp ý kiến của các đồng chí trong hội đồng khoa học nhà trường, các động nghiệp
để sáng kiến trên được hoàn thiện và đạt được hiệu quả hơn trong những năm học
tới.
Tôi xin cam đoan đề tài này do tôi tự viêt, không sao chép của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Duyên




×