Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Luận văn thạc sĩ Nghiên cứu dạy học ngoại khóa phần điện lớp 11 trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 83 trang )

MỤC LỤC
Trang phụ bìa.............................................................................................................i
Lời cam đoan............................................................................................................. ii
Lời cảm ơn...............................................................................................................iii
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 3
*Mở đầu...................................................................................................................8
*Nội dung:................................................................................................................ 8
*Phụ lục.................................................................................................................... 8
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG.........................9
NGOẠI KHỐ VẬT LÍ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG..............................................9
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.......................................................................................39
Chương 2. XÂY DỰNG KẾ HOẠCH DẠY HỌC NGOẠI KHÓA.......................40
PHẦN ĐIỆN LỚP 11 THPT...................................................................................40
PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
CNTT
ĐC
GD&ĐT
GV
HĐNK
HS
HTDH
HTDHNK
HTTCDH
PBL
PPDH
PTDH
SGK
THCS


THPT
TN
TNSP

Viết đầy đủ
Công nghệ thông tin
Đối chứng
Giáo dục và đào tạo
Giáo viên
Hoạt động ngoại khóa
Học sinh
Hình thức dạy học
Hình thức dạy học ngoại khóa
Hình thức tổ chức dạy học
Hình thức dạy học dựa trên dự án
(Project Based Learning)
Phương pháp dạy học
Phương tiện dạy học
Sách giáo khoa
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Thực nghiệm
Thực nghiệm sư phạm


DANH MỤC BẢNG, ĐỒ THỊ, HÌNH, SƠ ĐỒ
Trang
Bảng 1.1. Bảng hệ thống hóa phương thức tổ chức hoạt động NK vật lí
31
Bảng 3.1. Số liệu HS các nhóm thực nghiệm và đối chứng ................71

Bảng 3.2. Bảng thống kê điểm số (Xi) của bài kiểm tra ......................76
Bảng 3.3. Bảng phân phối tần suất ......................................................76
Bảng 3.4. Bảng phân phối tần suất luỹ tích .........................................76
Bảng 3.5. Các tham số thống kê ..........................................................76
Hình 2.1. Cách lắp đặt dụng cụ trị Xạ kích qua gương ......................60
Hình 2.2. Một số câu hỏi trong phần thi “Trả lời nhanh” ....................65
Hình 2.3. Một số nội dung trong phần thi “Chân dung thần tượng” ...66
Hình 2.4. Giao diện phần thi “Giải ơ chữ” ..........................................67
Hình 3.1. Lớp thực nghiệm trong buổi NK “Nói chuyện chun đề” .72
Hình 3.2. Một số hoạt động của HS trong buổi NK “Đố vui để học” 73
Đồ thị 3.1. Số % HS đạt điểm Xi .........................................................77
Đồ thị 3.2. Đồ thị phân phối tần suất lũy tích ......................................77
Sơ đồ 2.1. Cấu trúc logic nội dung phần Quang hình học ...................47


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nâng cao chất lượng giáo dục đang là một vấn đề được đặt ra cấp thiết.
Để làm được điều đó, chúng ta đã và đang đổi mới giáo dục một cách toàn
diện về mọi mặt. Xu hướng đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng phương pháp tự
học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn cho học sinh đang là
một yêu cầu bắt buộc đối với các nhà trường ở Việt Nam và đó cũng là một xu
hướng chung của các nhà trường trên thế giới.
Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI đã khẳng định: “Phát triển giáo
dục là quốc sách hàng đầu... Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo,
coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành,
khả năng lập nghiệp”.[2], [20]
Trong Luật giáo dục ở điều 28.2 cũng quy định: “Phương pháp giáo
dục phổ thơng phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học

sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương
pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập
cho học sinh”.[20]
Có thể nói điều cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động
học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Để làm được điều đó,
bên cạnh việc đổi mới nội dung, phương pháp dạy học thì sự phối hợp các
hình thức tổ chức dạy học là một việc làm cần thiết.
Thực tế chương trình học nội khố hiện nay vẫn cịn nặng nề, mang tính
lý thút, chưa có điều kiện đầy đủ (về phương tiện, thời gian...) để học sinh
được hoạt động nhiều, chưa kích thích được hứng thú, nhu cầu, sở thích và
khả năng độc lập, sáng tạo, tích cực tư duy của học sinh. Để khắc phục những
hạn chế đó, một giải pháp hữu ích là phối hợp việc dạy học nội khóa với hoạt
động ngoại khố.


Hoạt động ngoại khóa là một hình thức tổ chức dạy học mà hoạt động
của học sinh được tiến hành ngồi giờ lên lớp chính thức, ngồi phạm vi quy
định của chương trình bộ mơn nhằm hỡ trợ cho dạy học nội khóa. Với điều
kiện mở về thời gian, khơng gian, địa điểm, phương tiện ... hoạt động ngoại
khóa sẽ có tác dụng bổ trợ rất hiệu quả cho dạy học nội khóa, giúp học sinh
củng cố, đào sâu, mở rộng các kiến thức đã học ở nội khố, kích thích sự
hứng thú, phát huy tính tích cực, sáng tạo, góp phần hồn thiện, phát triển
nhân cách và bồi dưỡng năng khiếu cho học sinh.
Tuy nhiên, thực tiễn trong những năm gần đây, ở nhiều nhà trường phổ
thông, hoạt động ngoại khóa Vật lí nói riêng và ngoại khóa các mơn học khác
nói chung cịn ít được tổ chức, lãnh đạo nhà trường và giáo viên bộ mơn chưa
có sự quan tâm, đầu tư đúng mức cho hoạt động này.
Vật lí học là mơn khoa học thực nghiệm nhưng một thực trạng vẫn diễn
ra trong quá trình giảng dạy ở trường phổ thơng nước ta đó là việc đưa các thí

nghiệm vào giờ học, việc để cho học sinh tiếp cận với các hoạt động thực
nghiệm ở nhiều nơi vẫn còn hạn chế. Đổi mới phương pháp dạy học đối với
mơn Vật lí cần phải theo hướng tăng cường thí nghiệm trong dạy học. Hiện
nay, các nhà trường THPT đều đã được cung cấp các thiết bị thí nghiệm Vật lí
cơ bản và khá đầy đủ. Tuy nhiên bên cạnh các thí nghiệm với những dụng cụ
thí nghiệm đã được trang bị sẵn thì thí nghiệm với các dụng cụ thí nghiệm
đơn giản do giáo viên và học sinh tự thiết kế, chế tạo cũng đóng một vai trị vị
trí quan trọng trong dạy học Vật lí và có tác dụng rất lớn đối với việc củng cố,
nâng cao chất lượng kiến thức và rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, hình thành, phát
triển tư duy sáng tạo cho học sinh.
Qua q trình dạy học tơi nhận thấy kiến thức về phần điện Vật lí 11 rất
thú vị và gần gũi với cuộc sống, có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống
và kĩ thuật. Trong dạy học nội khóa về phần này, do điều kiện thời gian,
phương tiện dạy học và một số khó khăn khác, học sinh chưa có cơ hội được
thực nghiệm nhiều, do đó chưa phát huy hết được sự hứng thú, tích cực và


sáng tạo trong học tập. Vì thế tơi đã chọn đề tài luận văn Thạc sỹ là “Nghiên
cứu dạy học ngoại khóa phần Điện lớp 11 trung học phổ thơng”.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Trong quá trình tìm hiểu những thơng tin khoa học có liên quan đến lĩnh
vực nghiên cứu của đề tài, chúng tơi thấy đã có các đề tài nghiên cứu về dạy
học ngoại khóa mơn vật lý ở trường phổ thông như sau:
- Trong luận văn của Kiều Quang Trung với đề tài “Nghiên cứu tổ chức
dạy học ngoại khóa phần Quang hình học Vật lí 11 trung học phổ
thơng”,2011 đã đề xuất quy trình và cách thức tổ chức dạy học ngoại khóa ở
trường trung học phổ thông [28].
- Bài viết "Một số biện pháp quản lí góp phần nâng cao chất lượng hoạt
động ngồi giờ lên lớp ở trường phổ thơng hiện nay", 2007, của Trương
Quang Dũng đã đề ra một số biện pháp quản lí nhằm tạo ra sự chuyển biến về

chất lượng của hoạt động ngoại khóa ở trường phổ thơng [30].
- Bài viết "Về hoạt động ngoại khóa trong nhà trường phổ thông", 2007,
của Nguyễn Thị Ngọc cũng đã nêu lên vai trị, đối tượng của hoạt động ngoại
khóa đồng thời nêu lên một số khó khăn và đề ra một số biện pháp giải quyết
trong phạm vi trường phổ thông [2].
- Tài liệu "Phương pháp tổ chức hoạt động ngoại khóa Vật lí", 2009,
của Nguyễn Quang Đơng đã bàn về thực trạng và giải pháp tổ chức các hoạt
động NK ở trường phổ thông. Hơn nữa, tác giả đã đề xuất được quy trình thiết
kế một số hoạt động NK vật lí ở trường phổ thơng [10].
- Bài viết "Hiệu quả của hoạt động ngoại khóa với việc nâng cao chất
lượng giảng dạy-học tập trong nhà trường phổ thông", 2007, của Phùng Thị
Nguyệt Thu trình bày một số bài học kinh nghiệm của tác giả rút ra từ hoạt
động NK và một số đề xuất để hoạt động ngoại khóa ở trường phổ thơng đạt
hiệu quả cao hơn [30].


Như vậy, hiện nay chưa có các tài liệu và cơng trình nào nghiên cứu xây
dựng một cách hệ thống và đề cập đầy đủ về dạy học ngoại khóa phần Điện
Vật lí 11 THPT.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Xây dựng được kế hoạch một số phương án dạy học ngoại khóa phần
Điện học lớp 11 THPT nhằm bồi dưỡng niềm yêu thích vật lý học, mở rộng
nâng cao tính lịch sử tính lịch sử và tính ứng dụng của kiến thức vật lý cho
học sinh từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học vật lý.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Quá trình dạy học vật lý
- Hoạt động dạy học ngoại khóa Vật lí
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động dạy học phần Điện lớp 11 THPT ở một số trường THPT trên

địa bàn huyện Quảng Điền ,tỉnh Thừa Thiên Huế.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được kế hoạch dạy học ngoại khóa phần Điện lớp 11
THPT có nội dung phù hợp, hình thức phong phú và triển khai đúng kế hoạch
như đề xuất trong luận văn sẽ mở rộng kiến thức, bồi dưỡng niềm u thích
mơn học từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học mơn Vật lý ở trường
THPT.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu lí luận về hoạt động ngoại khóa trong dạy học;
- Điều tra thực trạng dạy học ngoại khóa mơn Vật lí ở một số trường
THPT trên địa bàn huyện Quảng Điền , tỉnh Thừa Thiên Huế;
- Tìm hiểu cơ sở pháp lí, cơ sở nội dung của việc dạy học ngoại khóa
phần Điện học Vật lí 11 THPT;


- Xây dựng kế hoạch dạy học ngoại khóa phần Điện nhằm mở rộng nâng
cao tính lịch sử và tính ứng dụng của kiến thức ,bồi dưỡng niềm yêu thích vật
lý cho học sinh.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nghiên cứu lí thuyết
Nghiên cứu các tài liệu về tâm lí học, giáo dục học, lí luận dạy học vật lí
phổ thơng, đặc biệt là các tài liệu hướng dẫn về ngoại khóa. Qua đó lựa chọn
nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động ngoại khóa vật lí.
7.2. Nghiên cứu thực tiễn
Tiến hành quan sát giờ dạy của đồng nghiệp, phỏng vấn trực tiếp, phát
phiếu điều tra, kiểm tra đánh giá để tìm hiểu thực trạng dạy học phần Điện lớp
11, từ đó đánh giá trình độ nhận thức của HS, phát hiện các sai lầm, nhu cầu
nhận thức từ cuộc sống thực tế của HS.
7.3. Thực nghiệm sư phạm
Đánh giá hiệu quả sư phạm của các phương án dạy học ngoại khóa vật lí

đã đề xuất, kiểm tra tính đúng đắn của giả thuyết đề tài nghiên cứu.
8. Đóng góp của đề tài
- Làm sáng tỏ và góp phần đưa lí luận của dạy học ngoại khóa vật lí vào
thực tiễn dạy học mơn Vật lí ở trường THPT;
- Xây dựng quy trình thiết kế hoạt động ngoại khóa vật lí;
- Xây dựng kho tư liệu dạy học ngoại khóa phần Điện Vật lí 11 THPT
gồm:
+ Hình ảnh: các nhà bác học vật lí
+ Video clip liên quan đến các hiện tượng điện
+ Phần mềm: Phenopt, Crocodile Physics v6.05, Optics Mar.03...,
- Xây dựng kế hoạch dạy học ngoại khóa phần Điện Vật lí 11 THPT theo
hình thức “Nói chuyện chuyên đề” kết hợp “Đố vui vật lý” cho toàn thể học
sinh lớp 11 trong 120 phút.


- Xây dựng kế hoạch dạy học ngoại khóa phần Điện Vật lý 11 THPT
theo hình thức “Đố Vui vật lý” cho toàn thể học sinh khối 11 trong 120 phút.
9. Cấu trúc luận văn
*Mở đầu
*Nội dung:
Chương 1. Cơ sở lí luận tổ chức hoạt động ngoại khóa Vật lí ở trường
phổ thơng
Chương 2. Tổ chức hoạt động ngoại khóa Vật lí phần Điện cho học sinh
lớp 11 Trung học phổ thông
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
*Kết luận
*Tài liệu tham khảo
*Phụ lục



NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG
NGOẠI KHỐ VẬT LÍ Ở TRƯỜNG PHỔ THƠNG
1.1. Các hình thức tổ chức dạy học mơn vật lí ở trường phổ thơng
1.1.1. Định nghĩa hình thức tổ chức dạy học
Trong một số tài liệu về lí luận dạy học đã có nhiều tác giả đưa ra định
nghĩa về HTTCDH:
Theo Nguyễn Quang Đơng thì “HTTCDH là một thành tố trong cấu trúc
của quá trình dạy học. HTTCDH là cách tổ chức sắp xếp và tiến hành quá
trình dạy học. Nó cịn được coi là cách sắp xếp tổ chức các biện pháp sư phạm
thích hợp, nó thay đổi tùy theo mục đích, nhiệm vụ dạy học, mối quan hệ giữa
giáo viên và học sinh, quan hệ giữa học sinh với nhau, theo số lượng người
học, theo không gian diễn ra quá trình dạy học, theo cơ sở vật chất, thiết bị kĩ
thuật phục vụ cho quá trình dạy học [10].
Cịn theo Lê Cơng Triêm thì “HTTCDH là những hình thức lớn của dạy
học, được tổ chức theo những cấu trúc xác định nhằm thực hiện các nhiệm vụ
dạy học. Đó là hình thái bên ngồi của PPDH” [26].
Trong giáo trình Lí luận dạy học của Nguyễn Văn Tuấn thì cho rằng:
“HTTCDH là cách thức tổ chức, sắp xếp và tiến hành các buổi dạy học” [29].
Từ các ý kiến trên có thể đưa ra định nghĩa về HTTCDH như sau:
“HTTCDH là sự biểu hiện bên ngoài của hoạt động dạy học, là sự sắp xếp, tổ
chức và tiến hành quá trình dạy học, ở một thời điểm và tại một địa điểm xác
định, với những phương pháp sư phạm và phương tiện dạy học cụ thể để thực
hiện nhiệm vụ dạy học”.
1.1.2. Mối quan hệ giữa hình thức tổ chức dạy học với các yếu tố khác
của hoạt động dạy học
Việc xác định các HTTCDH phải phù hợp với phương pháp, mục tiêu,
nội dung, điều kiện và PTDH, đối tượng HS. Giữa HTTCDH và các yếu tố



của hoạt động dạy học có tác dụng tương hỡ với nhau nên việc lựa chọn
HTDH phải căn cứ vào những yếu tố này.
1.1.3.1. Căn cứ vào mục tiêu học tập
HTTCDH phải phù hợp với mục tiêu học tập của HS. Có ba nhóm mục
tiêu là: mục tiêu về kiến thức, mục tiêu về kĩ năng và mục tiêu về thái độ.
1.1.3.2. Căn cứ vào nội dung dạy học
Nội dung dạy học quyết định đến PPDH và do đó ảnh hưởng đến việc
xác định hình thức tổ chức dạy học.
Đối với những nội dung dễ vừa sức, GV có thể tổ chức cho HS học cá
nhân bằng cách tự đọc SGK để nắm kiến thức, HS có thể học ở nhà một mình.
Hình thức tổ chức học tập này tiết kiệm được thời gian lên lớp để dành cho
những hoạt động học tập khác ở lớp học. Mặt khác, hình thức này cũng giúp
cho HS rèn luyện được tính tự lực trong học tập.
Đối với những nội dung có thể gây ra nhiều ý kiến khác nhau, GV có thể
tổ chức cho HS học theo nhóm. Hình thức này tạo điều kiện cho HS được trao
đổi thảo luận với nhau. Hình thức này có ưu điểm là rèn luyện cho HS khả
năng trình bày vấn đề và đưa ra lập luận để bảo vệ ý kiến của mình nhưng
cũng có nhược điểm là có thể làm cho tiến trình dạy học diễn ra không đúng
tiến độ.
Đối với những nội dung phức tạp khó, GV nên tổ chức cho HS học theo
lớp. Hạn chế của hình thức này là ít phát huy được tính tích cực của HS và
GV khơng nắm được hết các quan niệm của HS trong quá trình dạy học.
1.1.3.3. Căn cứ vào điều kiện cơ sở vật chất của trường lớp
Điều kiện cơ sở vật chất của trường lớp cũng là một yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến chất lượng dạy học nói chung và việc xác định HTTCDH nói
riêng. Do vậy, yếu tố này cần phải được xét đến trong việc xác định
HTTCDH.
Hiện nay, các trường đều được trang bị tương đối đầy đủ các đồ dùng
dạy học, thiết bị thí nghiệm vật lí, máy vi tính, máy chiếu vật thể 3D,



projector... Đây là điều kiện thuận lợi giúp GV có thể sử dụng các phương
tiện này để trực quan hóa các hoạt động nhận thức cho HS.
1.1.3.4. Căn cứ vào phương pháp dạy học
PPDH có ảnh hưởng rất lớn đến HTTCDH. Đối với mỡi PPDH có thể áp
dụng nhiều HTDH khác nhau và ngược lại. Cả hai yếu tố này có vai trị hỡ trợ
nhau để giúp GV hồn thành tốt các mục tiêu dạy học đã đặt ra.
1.1.3.5. Căn cứ vào đối tượng học sinh
HS trong một lớp học, một trường học thuộc nhiều đối tượng khác nhau
về khả năng học tập, kinh nghiệm thực tiễn, khả năng vận dụng kiến thức…
Do vậy, một HTTCDH nào đó có thể phù hợp với đối tượng HS này nhưng lại
không phù hợp với đối tượng HS kia. Do vậy, việc phân loại đối tượng HS là
để cho việc tổ chức hoạt động dạy học có hiệu quả hơn.
1.1.4. Phân loại các hình thức tổ chức dạy học
Có nhiều cách phân loại các HTTCDH vật lí, tùy theo mối quan hệ của
việc dạy học có tính tập thể hay cá nhân, mức độ tính tự lực nhận thức của
HS, vai trị chỉ đạo của GV, chế độ làm việc, thành phần HS, địa điểm, thời
gian tổ chức.. mà có thể phân loại HTTCDH thành nhiều loại khác nhau: [22],
[23]
- Dựa theo thành phần học sinh, có thể chia HTTCDH thành hình thức
tự học cá nhân, hình thức lên lớp, hình thức dạy học theo nhóm (trong một
lớp có nhiều nhóm), hình thức giúp đỡ riêng…
- Dựa theo mục đích của việc học, có thể chia thành: hình thức nghiên
cứu kiến thức mới, hình thức luyện tập, hình thức thực hành, hình thức thảo
luận và xêmina, hình thức nghiên cứu khoa học,…
- Dựa theo địa điểm, vị trí tổ chức dạy học, có hình thức làm việc ở lớp,
làm việc trong phịng thí nghiệm, hình thức tham quan ở nhà máy, cơng
trường…
- Dựa vào phương tiện tổ chức dạy học, thông qua các phương tiện, công
cụ, thiết bị hỗ trợ việc dạy học, nhất là các phương tiện điện tử, mạng



Internet… có các hình thức như: thực hành, nghiên cứu sáng tạo một sản
phẩm, E-learning…
Cách phân loại các HTTCDH trên đây chỉ mang tính chất tương đối. Mỡi
HTTCDH đều có thể mang một phần nội dung của một số HTTCDH khác.
Chẳng hạn như HTTCDH theo nhóm có thể được thực hiện ở phịng thí
nghiệm, phịng bộ mơn…; HTTCDH theo lớp có thể được thực hiện trong tiết
nghiên cứu kiến thức mới, trong tiết ôn tập củng cố, trong tiết sinh hoạt nói
chuyện chuyên đề… [22], 23].
Để thực hiện nhiệm vụ dạy học ở trường phổ thông, hoạt động dạy học
được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong dạy học vật lí ở trường
phổ thơng hiện nay, người ta thường sử dụng những HTTCDH sau: [22]
- Bài lên lớp: đây là hình thức dạy học cơ bản và phổ biến nhất, GV lên
lớp và trình bày nội dung kiến thức của một tiết, một bài với cùng một thời
lượng, cùng PPDH.
- Tham quan ngoại khóa: hình thức này ít được quan tâm tổ chức ở các
trường phổ thông hiện nay vì địi hỏi kinh phí tổ chức cao, hoạt động này chỉ
phổ biến ở các trường quốc tế, các trường dân lập có cách thức đào tạo tiên
tiến. Qua tham quan ngoại khóa, tổ chức các buổi hội thảo, nghiên cứu các thí
nghiệm vật lí…HS có thể học tập thêm nhiều điều mới mẻ.
- Tự học ở nhà: với hình thức này HS có thể thực hiện được rất nhiều
nhiệm vụ như: học bài, làm bài tập, làm thí nghiệm, nghiên cứu tài liệu, chuẩn
bị bài mới… Hình thức này địi hỏi tính nỡ lực, tự giác, chủ động học tập của
HS rất cao.
Theo quan điểm hiện nay thì việc tổ chức dạy học thực chất là tổ chức
cho học sinh tự lực hoạt động, thơng qua đó mà chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng,
phát triển năng lực và hình thành thái độ. Trong mỡi hình thức dạy học lại có
nhiều cách thức tổ chức hoạt động của học sinh, lựa chọn hình thức tổ chức
hoạt động nào là tùy thuộc vào mục đích, nội dung, phương tiện dạy học và

trình độ của học sinh. Mỡi hình thức tổ chức hoạt động dạy học có một ưu


điểm riêng. Việc phối hợp khéo léo, hài hòa các HTTCDH sẽ mang lại hiệu
quả cao, tạo ra chất lượng tồn diện ở HS.
1.2. Dạy học ngoại khóa mơn vật lí ở trường phổ thơng
1.2.1. Khái niệm
Hoạt động dạy học ngoại khóa là một trong những hoạt động giáo dục
quan trọng ở nhà trường phổ thơng. Hoạt động này có ý nghĩa hỡ trợ cho giáo
dục chính khóa (nội khóa), được tổ chức có kế hoạch và phương hướng xác
định, được tiến hành trên tinh thần tự nguyện của HS dưới sự hướng dẫn của
GV nhằm bổ sung và mở rộng kiến thức vật lí, góp phần phát triển và hoàn
thiện nhân cách, bồi dưỡng năng khiếu và sáng tạo của HS.
Hoạt động ngoại khóa (HĐNK) khơng phải là một khái niệm mới lạ
nhưng có thể nói cho đến nay vẫn chưa có sự đầu tư đúng mức cả về phương
diện lí thuyết lẫn thực tiễn, chưa xác định rõ về vai trị, nhiệm vụ, tính chất,
phân loại, quy trình tổ chức…. Phần nhiều các HĐNK mang tính tự phát,
nặng về hình thức, đối phó, chưa thật sự mang tính khoa học, hiệu quả chưa
cao. Khi chưa có hình thức tổ chức sinh động, phong phú, hấp dẫn, lôi cuốn
HS thì chưa thể phát huy được tính tự giác, chủ động, tích cực tham gia, sáng
tạo của HS cũng như hiệu quả của quá trình đào tạo chưa cao, HS chưa được
học tập và rèn luyện một cách toàn diện.
Ở một số nước người ta chủ trương giảm thời lượng lên lớp và tăng
cường các hoạt động giáo dục ngoại khóa, hoạt động ngồi giờ lên lớp. Cơng
trình nghiên cứu gần đây của các nhà giáo dục Mĩ cho thấy những HS thường
xuyên tham gia vào các HĐNK thường có thành tích học tập tốt hơn, có hành
vi đạo đức tốt hơn, có mối quan hệ và xúc cảm tốt hơn.
Do đó hoạt động ngoại khóa vật lí cũng đóng vai trị quan trọng trong
q trình thực hiện nhiệm vụ đào tạo ở trường phổ thông, nên nghiên cứu và
áp dụng dạy học ngoại khóa vật lí ở trường phổ thơng là u cầu cần thiết

hiện nay.
1.2.2. Vai trị của dạy học ngoại khóa vật lí


Để hồn thành tốt mục tiêu dạy học vật lí, GV cần có sự phối hợp hợp lí
các hoạt động NK bên cạnh các giờ học chính khóa. NK vật lí là một cơng tác
hỡ trợ cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy vật lí ở trường phổ thơng, đặc
biệt là rèn luyện năng lực sáng tạo, hình thành thái độ học tập tích cực. NK
vật lí là phương tiện để phát hiện, phát huy năng lực, năng khiếu của HS, làm
tăng hứng thú và thiên hướng của HS về một hoạt động, kiến thức, lĩnh vực
nào đó. NK vật lí có tác dụng cả 3 mặt của mục tiêu dạy học: giáo dục, giáo
dưỡng và giáo dục kĩ thuật tổng hợp.
1.2.2.1. Vai trò về giáo dục
Hoạt động NK vật lí góp phần đào sâu, củng cố các kiến thức đã học cho
HS. Thông qua hoạt động NK, kiến thức HS sẽ được khắc ghi sâu sắc hơn.
HS sẽ vận dụng được các kiến thức vật lí vào giải quyết các vấn đề trong thực
tế, gắn lí thuyết với thực tiễn, thấy được ứng dụng của các kiến thức trong đời
sống và kĩ thuật.
Trong giờ học chính khóa, vì điều kiện thời gian hạn hẹp nên có những
phần GV không thể giới thiệu một cách cụ thể được. Những phần này sẽ được
bổ sung thông qua các hoạt động NK vật lí, kiến thức của HS sẽ được mở
rộng, nâng cao.
1.2.2.2. Vai trị về giáo dưỡng
Hoạt động NK góp phần giáo dục tính tổ chức, tính kế hoạch, tinh thần
làm chủ và hợp tác trên cơ sở các hoạt động thực tế. Nhất là với cách tổ chức
theo từng nhóm để giải quyết vấn đề đặt ra trong một buổi NK, HS sẽ rèn
luyện được thói quen làm việc theo nhóm, kĩ năng tổ chức, quản lí, điều khiển
hoạt động nhóm.
Ngồi ra, trong hoạt động NK các HS cùng thảo luận, trao đổi, tranh luận
và trình bày ý kiến một cách thoải mái, nâng cao tính hợp tác và chia sẻ giữa

các thành viên với nhau, rèn luyện kĩ năng giao tiếp, kĩ năng sử dụng ngơn
ngữ vật lí, kĩ năng trình bày ý kiến trước đám đơng.


NK được tổ chức và thực hiện dựa trên sự tự nguyện, nhiệt tình, tự giác
của HS cùng với sự hỗ trợ của GV sẽ động viên HS nỗ lực tìm tịi, suy nghĩ,
giải qút các vấn đề đặt ra, kích thích sự hứng thú học tập, lịng ham học hỏi,
lôi cuốn sự tự giác của HS tham gia vào các hoạt động.
Hoạt động NK vật lí làm cho quá trình dạy học mơn vật lí ở trường phổ
thơng thêm phong phú, đa dạng về nội dung và hình thức, làm cho việc học
của HS thêm sinh động, tạo cho HS lịng hăng say với cơng việc học tập. Đó
là điều kiện để phát triển các năng lực cá nhân sẵn có của HS, phát hiện và
bồi dưỡng năng khiếu HS. Qua các hoạt động NK, HS phát huy được tính
sáng tạo, tự tin, rèn luyện bản lĩnh để tham gia các cơng việc xã hội sau này.
1.2.2.3. Vai trị về giáo dục kĩ thuật tổng hợp
Trong quá trình tham gia hoạt động NK, HS được rèn luyện kĩ năng sử
dụng một số thiết bị, dụng cụ thường gặp trong đời sống; rèn luyện tác phong
làm việc đúng giờ, chấp hành ngun tắc an tồn lao động…qua đó nảy sinh
tình cảm nghề nghiệp, bước đầu hình thành ý thức nghề nghiệp mà HS sẽ
chọn trong tương lai.
1.2.3. Các nguyên tắc dạy học ngoại khóa vật lí
Từ những phân tích ở trên ta thấy NK vật lí có những tác dụng quan
trọng, do vậy ta không thể coi các hoạt động NK là “phụ” và tiến hành một
cách tùy ý mà phải được tổ chức chỉ đạo, lựa chọn nội dung, tìm tịi phương
thức tổ chức hoạt động theo những ngun tắc nhất định:
 Nguyên tắc 1: Hoạt động NK vật lí phải xuất phát từ mục tiêu đào tạo
của lớp học, cấp học, chương trình mơn học, hồn cảnh cụ thể của nhà trường
và thực tiễn kinh tế-xã hội của địa phương để xác định mục tiêu, nội dung,
hình thức, phương pháp, xây dựng chương trình dạy học NK.
 Nguyên tắc 2: Trong q trình hoạt động NK vật lí, HS là những

người chủ động thiết kế, thi công và đánh giá hoạt động của bản thân và tập
thể, còn GV chỉ đóng vai trị là người “cố vấn”, là trọng tài, hướng dẫn cho
HS hoạt động.


 Nguyên tắc 3: Hoạt động NK vật lí phải giữ vững nguyên tắc tự
nguyện, tự chọn để tạo hứng thú, chủ động, tích cực, sáng tạo của HS trong
mọi hoạt động.
 Nguyên tắc 4: Để dạy học NK hoạt động có hiệu quả thì phải phát
hiện và xây dựng được hạt nhân trong nhóm NK. Đó là những HS nhiệt tình,
có hứng thú với nội dung NK và có khả năng lôi cuốn HS khác tham gia. Phát
hiện và bồi dưỡng hạt nhân của nhóm NK là nhiệm vụ của GV bộ môn.
 Nguyên tắc 5: Nội dung của dạy học NK phải hấp dẫn. Tính hấp dẫn
thể hiện ở tính mới và tính vừa sức. Đối với mơn vật lí ở trường THPT có thể
khai thác tính mới ở các khía cạnh:
- Mở rộng tính ứng dụng kĩ thuật của các kiến thức vật lí dành cho các
HS yêu thích kĩ thuật;
- Nghiên cứu sâu theo các chủ đề tự chọn dành cho HS thích nghiên cứu
một vấn đề mà trong dạy học chính khóa khơng có điều kiện nghiên cứu;
- Mở rộng tính hệ thống, tính lịch sử, tính phương pháp luận của kiến
thức, xây dựng bức tranh vật lí về thế giới cho mọi đối tượng HS (ngoại khóa
mang tính quần chúng rộng rãi).
 Ngun tắc 6: Dạy học NK chỉ thành công khi hoạt động được kế
hoạch hóa một cách chi tiết từ khâu chuẩn bị đến khâu triển khai và tổng kết
hoạt động.
1.2.4. Đặc điểm của dạy học ngoại khóa
Dạy học ngoại khóa mơn vật lí nói riêng và các mơn học khác nói chung
có các đặc điểm sau:
- Hoạt động NK được tổ chức cơ bản là dựa trên tinh thần tự nguyện
tham gia của HS, không thể ép buộc HS tham gia vào các hoạt động.

- Việc tổ chức hoạt động NK liên kết được HS của một số lớp, các lực
lượng giáo dục khác khơng chỉ ở nhà trường mà cịn từ gia đình và xã hội.
- Số lượng HS tham gia khơng hạn chế, có thể tổ chức NK cho một
nhóm HS, một lớp hoặc một khối lớp.


- Về thời gian, HĐNK được tổ chức ngoài giờ học chính khóa, khơng bị
ràng buộc nhiều về kế hoạch chun mơn chung của nhà trường. GV tổ chức
có thể linh hoạt lựa chọn thời điểm thích hợp. Thơng thường, các hoạt động
NK thường gắn với một sự kiện lịch sử, một ngày lễ, một phong trào nào đó.
- Về địa điểm tổ chức các hoạt động NK không hạn chế, gị bó trong
phạm vi của phịng học, có thể đó là phịng bộ mơn, sân trường, hội trường,
nhà máy, công trường…, tùy theo chủ đề, nội dung NK mà chọn địa điểm cho
phù hợp.
- Về nội dung, hoạt động NK phải có nội dung phong phú, mới mẻ, có
thể là hệ thống hóa những kiến thức nằm trong phạm vi chương trình hoặc có
thể là mở rộng kiến thức giúp HS tăng vốn kiến thức bản thân. Nội dung phải
có tính vừa sức và phổ biến, độ khó vừa phải.
- Về hình thức, hoạt động NK có tính phong phú về hình thức, có thể tổ
chức theo hình thức câu lạc bộ khoa học, dạ hội khoa học, đố vui để học, nói
chuyện chun đề… nên có sức lơi cuốn đối với HS.
- Việc đánh giá một hoạt động NK không phải bằng điểm số thông qua
các bài kiểm tra đánh giá như trong chính khóa. Trong hoạt động NK sự đánh
giá được công khai thông qua các sản phẩm hoạt động, tính hứng thú, tích
cực, sáng tạo của HS. Sự đánh giá này chỉ mang tính chất khích lệ q trình
hoạt động, nếu có thêm các phần thưởng động viên tinh thần HS thì hoạt động
NK càng sơi nổi hơn nữa.
1.2.6. Hình thức dạy học ngoại khóa mơn vật lí ở trường phổ thơng
Hoạt động NK vật lí ở trường phổ thơng có nhiều hình thức khác nhau,
nhưng sự phân chia các HTDHNK chỉ mang tính chất tương đối, tùy thuộc

vào số lượng HS tham gia, theo nội dung, theo địa điểm tổ chức… mà có thể
phân ra các hình thức hoạt động NK vật lí khác nhau. Có hai hình thức phổ
biến nhất là hoạt động NK theo nhóm và hoạt động NK có tính quần chúng
rộng rãi.
1.2.6.1. Hoạt động ngoại khóa vật lí theo nhóm


Hoạt động NK theo nhóm là hình thức cơng tác ngồi lớp có hệ thống,
có kế hoạch. Qua hoạt động nhóm theo chương trình đã lập ra từ trước HS thu
nhận được một số kiến thức bổ sung, đào sâu và củng cố những kiến thức, kĩ
năng đã có. Nhưng điều có giá trị nhất trong hoạt động nhóm là ở đây HS học
được cách vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tức là tham gia được vào quá
trình sáng tạo.
Hình thức NK theo nhóm là HTDH có sự kết hợp tính tập thể mà trong
đó HS trong nhóm dưới sự chỉ đạo của GV cùng trao đổi các ý tưởng, kiến
thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo. Từng thành viên trong nhóm khơng chỉ có
trách nhiệm với việc học của bản thân mà cịn có trách nhiệm quan tâm đến
việc học của các bạn khác trong nhóm. Có hai hình thức học tập theo nhóm
đó là: dạng học tập theo nhóm thống nhất và dạng học tập theo nhóm có tính
phân hóa. Hình thức học tập theo nhóm thống nhất thì tất cả HS đều thực hiện
những nhiệm vụ học tập như nhau, cịn với hình thức học tập theo nhóm phân
hóa thì những nhóm khác nhau thực hiện những nhiệm vụ khác nhau trong
khuôn khổ đề tài chung của cả lớp.
Có thể thành lập những nhóm hoạt động NK vật lí như:
 Nhóm nghiên cứu lí thuyết
Nhóm này chuyên đi sâu việc sưu tầm các tài liệu liên quan tới vấn đề
đang nghiên cứu để giúp HS hiểu bài sâu hơn, nghiên cứu giải thích các hiện
tượng mà trong điều kiện hạn hẹp của thời lượng trên lớp mà GV chưa thể
giải thích kĩ lưỡng, sưu tầm những bài tốn vật lí hay, tìm phương pháp giải
hay. Cơng việc của nhóm cũng có thể là tìm hiểu lịch sử phát triển của vật lí

học và nhóm khác sẽ biên tập, viết báo tường, ra tập san về vật lí.
Nội dung hoạt động của nhóm NK phải có nội dung mới lạ, hấp dẫn, mở
rộng so với nội dung chính khóa, khơng chỉ là đơn thuần kiểm nghiệm hoặc
áp dụng đơn giản các kiến thức đã học. GV cần xác định nội dung thích hợp,
khéo léo tổ chức sao cho từng bước HS thu nhận được kết quả. Kết quả hoạt
động của nhóm có thể báo cáo theo từng cá nhân hoặc nhóm. GV cần có sự


đánh giá, khuyến khích, động viên thích hợp, tuyên dương trước lớp cũng như
tạo điều kiện cho HS báo cáo ở các buổi sinh hoạt lớp, giờ chào cờ, đăng kí
kết quả trên bảng tin chung, ra báo tường… sẽ là những hình thức động viên
tinh thần cho các em.
 Nhóm chế tạo dụng cụ thí nghiệm vật lí
Dụng cụ thí nghiệm vật lí đặc biệt là dụng cụ phục vụ cho thí nghiệm
thực hành đồng loạt cho HS có vai trị quan trọng trong việc dạy học vật lí.
Muốn có thêm nhiều thí nghiệm cho HS sử dụng thì phải tổ chức cho HS
tham gia chế tạo dụng cụ. Nội dung hoạt động nên hướng vào chế tạo dụng cụ
đòi hỏi sáng tạo, nằm trong trọng tâm của chương trình, vừa làm HS thích thú,
vừa phục vụ trực tiếp cho mục tiêu đào tạo. Những dụng cụ thí nghiệm mà HS
nghiên cứu, chế tạo thành công do sáng kiến hoặc làm theo mẫu có tác dụng
giúp nhà trường khắc phục khó khăn thiếu thốn dụng cụ thí nghiệm vật lí.
Bước đầu nhóm NK này chỉ tiến hành làm những dụng cụ đơn giản nhất để
thực hiện được những thí nghiệm do GV chỉ định hoặc có hướng dẫn trong tài
liệu tham khảo. Dần dần nhóm sẽ làm được những dụng cụ để làm lại những
thí nghiệm đã biểu diễn hoặc được nghe giới thiệu tại lớp nhưng chưa được
làm vì thiếu dụng cụ, phục vụ cho việc học tập các vấn đề sau.
Trong nội dung này các thành viên trong nhóm cần hiểu rõ ngun lí vật
lí của các dụng cụ đó, chứ khơng phải chỉ máy móc sao chép lại nguyên văn
những mẫu sẵn có trong tài liệu mà khơng hiểu gì về bản chất vật lí trong thiết
bị và hoạt động của mỗi dụng cụ.

GV cần phải dạy cho HS biết cách sử dụng công cụ và biết cách gia cơng
các vật liệu thơng thường. Nếu có thể, nên phối hợp với những phụ huynh HS
biết nghề, mời họ tới hướng dẫn một vài lần cho HS trong nhóm.
 Nhóm vật lí kĩ thuật
Đây là hoạt động NK thu hút đông đảo HS tham gia với sự phong phú và
đa dạng của sản phẩm nên dễ gây hứng thú, đồng thời có tác dụng giáo dục kĩ
thuật trực tiếp, do đó cần đề cao và khún khích hoạt động này.


Những nhóm NK này mang nhiều tính chất thực hành chun mơn hơn
nhóm chế tạo dụng cụ nhưng hoạt động của nhóm vẫn phải gắn liền giữa lí
thút và thực hành. Ngoài những kiến thức mà HS đã được học ở giờ chính
khóa thì trong các giờ ngoại khóa phải tiến hành ơn tập và bổ sung lí thút
cho các thành viên trong nhóm xen kẽ với các giờ thực hành. Khi tổ chức
những nhóm này GV cần tổ chức phối hợp với các tổ chức chuyên môn khác
như liên hệ với các nhà máy sản xuất, các đài quan sát thiên văn, các câu lạc
bộ thiên văn nghiệp dư… để nhóm được tư vấn, giúp đỡ của các nhà chun
mơn có kinh nghiệm mà hoạt động hiệu quả hơn.
Các nhóm kĩ thuật này làm nịng cốt cho việc liên hệ giữa bài học vật lí
và thực tế của kĩ thuật. Thơng thường GV chọn một vấn đề, một khía cạnh kĩ
thuật nào đó cho nhóm như: chế tạo pin hóa học, chế tạo tĩnh điện kế… Hoạt
động của nhóm do GV quản lí được tập trung chủ yếu vào đề tài vật lí và kĩ
thuật thuộc lĩnh vực rộng hơn để có thể liên hệ tốt với việc dạy học vật lí. Đặc
biệt hấp dẫn HS là các hoạt động NK có ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa xã hội
cao như: Lắp đặt mạng điện gia đình, An toàn điện, tham quan các nhà máy
thủy điện trong khu vực
1.2.6.2. Hoạt động ngoại khóa vật lí có tính quần chúng rộng rãi
Tổ chức hoạt động NK vật lí có tính chất quần chúng rộng rãi là hình
thức tốn nhiều cơng sức nhưng dễ thực hiện và có hiệu quả để triển khai công
tác NK ở nhà trường. Đây là một hình thức rất tốt để đào sâu và mở rộng kiến

thức cho HS trong nhiều lĩnh vực của vật lí và thu hút sự tham gia của đơng
đảo HS.
Hình thức hoạt động NK vật lí có tính chất quần chúng rộng rãi làm cho
HS thêm u thích mơn vật lí, kích thích trí tưởng tượng sáng tạo và rèn luyện
các phẩm chất cá nhân. Nội dung đó có thể là những thí nghiệm vui, những
bài tốn thực nghiệm, bài tốn nghịch lí vật lí… GV chọn lọc những tài liệu
cho HS có nội dung phù hợp với tài liệu học tập trên lớp, phù hợp với trình độ
nhận thức của HS.


Những buổi NK vật lí đặc biệt hứng thú khi được tổ chức dưới hình thức
cuộc thi đấu hay thi tuyển chọn người hoặc nhóm đoạt giải. Trong hình thức
này có thể kể đến những hoạt động như tổ chức Triễn lãm vật lí, Hội vui vật
lí, Báo tường vật lí, Thi hiểu biết về vật lí, Nói chuyện chun đề…
Những hoạt động NK này thường là kết quả tất nhiên của hoạt động
nhóm ngoại khóa vật lí. Các hình thức này nếu được chuẩn bị chu đáo và tổ
chức một cách hấp dẫn thì có tác dụng lớn, nâng cao lịng u thích vật lí của
HS và chế tạo được nhiều dụng cụ để làm thí nghiệm.
Phải làm sao cho mỡi buổi NK vật lí có tính quần chúng rộng rãi thật sự
là một ngày hội, một sự kiện đáng nhớ của nhà trường. Ngoài sự phong phú
của nội dung và hình thức cịn có thể đan xen các hoạt động văn nghệ, những
trị chơi giải trí có tính khoa học để làm cho buổi NK thêm vui vẻ và náo
nhiệt.
 Hội vui vật lí
Hội vui là hình thức NK vật lí phổ biến, lơi cuốn được đơng đảo HS, tạo
ra được khí thế trong hoạt động học tập và nghiên cứu. Hội vui có thể được tổ
chức theo từng chun đề, theo khối lớp hoặc quy mơ tồn trường. Ví dụ: Hội
vui cơ, nhiệt, điện, quang; cuộc đời và sự nghiệp của Niu-tơn, theo chân các
nhà bác học… Cũng có khi tổ chức dạ hội vật lí nói chung gồm nhiều đề tài từ
cơ học cho đến vật lí ngun tử, laser, bán dẫn…thậm chí có thể tổ chức hội

vui vật lí kết hợp với các bộ mơn khác để HS vận dụng kiến thức tổng hợp
của tất cả các mơn học.
Hội vui vật lí có thể gồm hai phần: phần nghi lễ và phần vui chơi. Phần
nghi lễ nên hết sức ngắn gọn, không quá trịnh trọng, khn mẫu, sau đó
chuyển ngay sang phần vui chơi. Thời gian diễn ra của hội vui chỉ nên kéo dài
trong khoảng hai tiếng đồng hồ để không ảnh hưởng tới sức khỏe, thời gian
hoạt động khác của HS.


Trong hội vui vật lí, số lượng các trị chơi được áp dụng phụ thuộc vào
thời gian và khả năng tổ chức hoạt động của GV, có thể tổ chức một số trò
chơi sau:
+ Trò Hái hoa tri thức: các câu hỏi, bài tập, câu đố vui về vật lí được viết
vào mảnh giấy nhỏ, sau đó gấp lại để đảm bảo tính bí mật và treo trang trí lên
cành cây. Người chơi sẽ “hái hoa” và đưa ra đáp án cho mỗi “bông hoa”, nếu
trả lời đúng sẽ được nhận một phần thưởng khích lệ của ban tổ chức trò chơi.
+ Trò Trả lời câu hỏi nhanh: nội dung có thể là một câu hỏi ngắn, tìm
chỡ sai trong một đoạn viết về nội dung vật lí, tìm chỡ sai trong các hình vẽ sơ
đồ… Các trị chơi loại này gây khơng khí vui chơi thoải mái, nhẹ nhàng, lơi
cuốn HS.
+ Trị Ơ chữ: có thể thiết kế như trị chơi Ơ chữ trong chương trình
Đường lên đỉnh Olympia trên VTV3, các đội lần lượt lựa chọn các câu hỏi
hàng ngang để tìm ra từ khóa, đội giành phần thắng trong phần thi này là đội
có tổng số điểm cao nhất kể cả câu hỏi hàng ngang và câu hỏi từ khóa. Thực
tế cho thấy hình thức này làm HS rất hào hứng tham gia, cổ động viên cũng
nhiệt tình tham gia cổ vũ.
+ Trị Chân dung nhà bác học: HS được quan sát lần lượt các chân dung
của một số nhà bác học vật lí rồi HS nêu tên, quốc tịch, cơng trình tiêu biểu,
các thơng tin liên quan… Nên lựa chọn các nhà bác học vật lí có cơng lao
trong phần nội dung đang tiến hành NK sẽ tập trung được suy nghĩ của HS

hơn.
+ Trò Trúc xanh: HS lần lượt lựa chọn các ô màu để tìm các cặp ơ có nội
dung liên quan với nhau. Khi lựa chọn đúng thì cặp ơ đó sẽ ẩn đi.
+ Trò chơi thực nghiệm: HS thi lắp ráp và biễu diễn một thí nghiệm nào
đó cũng có thể coi là một trò chơi trong hội vui. Trò này đòi hỏi sự chính xác,
am hiểu kiến thức vật lí liên quan, sự hợp lí hóa thao tác và có các sáng kiến
khác.


+ Thi giải bài tập vật lí nhanh: mỡi lần thi một nhóm khoảng 5 người
cùng nhau giải một bài tập vật lí. Nhóm nào giải nhanh nhất, đúng nhất thì có
thưởng. Nội dung các bài tập phải vui, kết quả phải gọn gàng để tiện cho việc
đánh giá và tăng hứng thú của trò chơi. Các bài tập sáng tạo, bài tập nghịch lí
ngụy biện thường được sử dụng trong hình thức thi này.
Để đảm bảo thành cơng cho hội vui cần chuẩn bị kĩ càng nội dung, hình
thức tổ chức, trang trí hợp lí, lường trước các tình huống ngồi dự kiến, chuẩn
bị phần thưởng để khích lệ tinh thần tham gia cho HS… Các trò chơi liên
quan tới thực hành thí nghiệm liên quan tới điện, máy móc cần được đảm bảo
́u tố an tồn khi tổ chức, không để xảy ra các sự cố đáng tiếc. Mặc dù nội
dung của hội vui gắn chặt với nội dung trong chương trình chính khóa nhưng
vẫn trên tinh thần vui chơi, thoải mái, khơng nặng về đánh giá trình độ HS.
 Triển lãm về vật lí
Triển lãm vật lí ở trường phổ thơng có thể tổ chức nhân dịp các ngày lễ,
các đợt thi đua của nhà trường chào mừng ngày thành lập Đoàn, ngày nhà
giáo Việt Nam 20-11, ngày kỉ niệm các nhà bác học xuất sắc, sau khi học
xong một phần nào đó… Mục đích là để giới thiệu được các thành tích trong
hoạt động học tập vật lí của một lớp, khối lớp hoặc tồn trường.
Triển lãm phải phong phú về nội dung, đẹp về hình thức, tổ chức khoa
học, gây ấn tượng cho người tham quan. Nội dung triển lãm có thể là dụng cụ,
mơ hình mà HS chế tạo được, mẫu vật sưu tầm được, sổ tay học tập, tranh ảnh

vật lí, bài viết hay về vật lí…; cũng có thể là lắp ráp và biểu diễn một số thí
nghiệm. Đối với một số thí nghiệm hoặc vật mẫu nào đó nên có hình vẽ minh
họa, bản hướng dẫn đi kèm. Hình vẽ và tranh ảnh sẽ góp phần cho triển lãm
sinh động, nếu có thể thì chiếu các video clip liên quan tới nội dung triển lãm
để thu hút người xem. Triển lãm có thể kết hợp với Hội vui vật lí hoặc kết với
triển lãm của môn học khác để đa dạng hóa về nội dung triển lãm. Để đảm
bảo tính chất của NK vật lí, trong việc tổ chức triển lãm cần phát huy cao độ
vai trị tích cực của HS đặc biệt là tính độc lập và sáng tạo.


 Báo tường vật lí
Báo tường về vật lí là một hoạt động NK hấp dẫn, nhẹ nhàng, có thể tổ
chức ở bất kì trường phổ thơng nào, có tác dụng thúc đẩy HS sưu tầm tư liệu,
tham khảo sách báo về vật lí. Đây cũng là một nơi thuận tiện để các nhóm NK
thơng báo về kết quả hoạt động và học tập, nghiên cứu của nhóm mình, để
GV và HS công bố các nghiên cứu, các bài giải hay khi khơng có điều kiện
hoặc khơng cần thiết phải giải ở trên lớp. Báo tường vật lí có thể ra hàng
tháng, hai tháng, hàng học kì. Nội dung báo tường được trình bày trên khổ
giấy A0 hoặc ra tập san, trưng bày ở bản tin chung hoặc phòng truyền thống để
mọi người đều có thể đọc được.
 Nói chuyện chun đề
Đây là hình thức NK hay, giúp HS có thêm những kiến thức về vật lí,
HS có thể trình bày và thảo luận các vấn đề liên quan. GV nên phân thành các
nhóm, các lĩnh vực khác nhau để HS tìm hiểu thơng tin từ trước. Nội dung chỉ
nên là một vấn đề nào đó của vật lí như: Các cơng trình nghiên cứu của các
nhà khoa học trong Điện học, Vai trò của điện năng trong cuộc sống… Để
thêm sinh động và thu hút được nhiều HS tham gia, GV có thể liên hệ mời các
nhà khoa học vật lí, các cựu HS giỏi về vật lí, các HS đoạt giải trong các cuộc
thi về vật lí đến tham dự, giao lưu với HS, để các em được tiếp xúc, đặt câu
hỏi với các “thần tượng” về việc học tập, nghiên cứu vật lí.

1.2.6.3. Hoạt động của học sinh trước khi tiến hành ngoại khóa vật lí
Từng HS tham gia vào các hoạt động như đọc các sách báo hay về vật lí
và kĩ thuật do GV giới thiệu hoặc tự tìm được. Đây là hình thức đơn giản dễ
thực hiện nhất. Nó thường là yếu tố chuẩn bị cần thiết cho các hoạt động NK
vật lí khác đồng thời là một phần công việc căn bản của hoạt động NK vật lí.
Hình thức này bổ sung rất nhiều cho việc dạy học trong giờ chính khóa,
qua đó giáo dục cho HS “văn hóa đọc” sách báo, tư liệu vật lí, coi đó là một
nguồn cung cấp tri thức quan trọng và luyện cho HS thói quen sử dụng các


loại sách báo để tìm hiểu và tra cứu, tự tìm hiểu thơng tin ở các thư viện, nhà
sách, trên các phương tiện thông tin đại chúng nhất là qua mạng internet.
Thông qua thư viện trường cùng với sự sưu tầm sách báo và tư liệu của
HS tổ chức xây dựng “Tủ sách vật lí” để lưu trữ và chia sẻ với các HS khác.
Ngồi ra, có thể tổ chức các buổi “báo cáo khoa học”. HS được lựa chọn
các đề tài mà các em u thích, tự tìm hiểu tài liệu, tự chuẩn bị nội dung báo
cáo. GV giới thiệu các nguồn tư liệu để HS tìm hiểu và biên tập nội dung báo
cáo, góp ý, duyệt nội dung của các bài báo cáo. HS sẽ phân công nhau các
cơng việc, chuẩn bị các thí nghiệm kiểm chứng, chuẩn bị tranh ảnh cần
thiết…
1.2.7. Tần suất thực hiện dạy học ngoại khóa mơn vật lí
Trong dạy học NK vật lí việc xác định tần suất thực hiện đóng một vai
trị quan trọng. Tùy theo hình thức và mức độ nội dung mà tiến hành hoạt
động NK. Nếu tần suất thực hiện quá dày thì sẽ ảnh hưởng đến việc dạy học
chính khóa, tốn nhiều thời gian, kinh phí và gây nhàm chán cho HS, nhưng
nếu quá thưa thì việc giáo dục tồn diện cho HS khơng được đảm bảo. HS
thiếu các hoạt động NK sẽ hạn chế sự hình thành và phát triển các phẩm chất
cá nhân của HS.
Do vậy, tần suất dạy học NK vật lí nên đạt mức độ vừa phải, hợp lí, tùy
theo các nội dung NK. Nếu tổ chức hoạt động NK có tính chất quần chúng

rộng rãi thì thường tổ chức hai tháng một lần trong một năm học, thời gian
mỗi buổi không quá hai giờ đồng hồ. Nếu tổ chức NK theo nhóm thì căn cứ
vào nội dung công việc để chia thời gian cho hợp lí. Ví dụ theo hình thức
nhóm vật lí kĩ thuật thì khơng q một lần trong một tuần. Tỉ lệ các buổi lí
thút và thực hành có thể thay đổi tùy theo hứng thú của HS, tính chất của
tài liệu nghiên cứu, tiến trình thực hiện cơng việc.
Kế hoạch thời gian của các buổi hoạt động nhóm được lập sao cho các
kiến thức về lí thuyết và thực hành bổ sung cho nhau, tránh tình trạng khi tiến
hành thực hành hay chế tạo dụng cụ mà HS chưa có cơ sở lí thút vững chắc.


×