Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

(TIỂU LUẬN) HP1 ĐƯỜNG lối QUỐC PHÒNG và AN NINH xây DỰNG và bảo vệ CHỦ QUYỀN BIỂN, đảo, BIÊN GIỚI QUỐC GIA TRONG TÌNH HÌNH mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.26 KB, 34 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
TỔ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

TIỂU LUẬN
HP1 ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO, BIÊN GIỚI QUỐC
GIA TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Sinh viên: Đinh Thu Trang
Mã số sinh viên: 2155220054
Lớp GDQP&AN: 8
Lớp: Công tác tổ chức K41

Hà Nội, tháng 11 năm 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Tính cấp thiết của đề tài (Lí do nghiên cứu) .................................................. 2
Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu.................................................. 3
NỘI DUNG............................................................................................................ 4
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ
CHỦ QUYỀN, BIỂN, ĐẢO, BIÊN GIỚI QUỐC GIA ..................................... 4
I. Xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia ...................................... 4
1. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia ................................................................. 4
2. Biển, đảo nước ta ................................................................................... 5
3. Nội dung xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia .................. 9
II. Xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia ................................................... 10
1. Biên giới quốc gia ................................................................................ 10
2. Nội dung xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia ................................ 12
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN,


BIỂN, ĐẢO, BIÊN GIỚI QUỐC GIA ............................................................. 14
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP, VẬN DỤNG BẢO VỆ CHỦ QUYỀN
BIỂN ĐẢO, BIÊN GIỚI QUỐC GIA HIỆN NAY ......................................... 19
I. Những giải pháp chủ yếu trong việc Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển,
đảo, biên giới quốc gia hiện nay .......................................................................... 19
II. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền biển đảo trong
tình hình mới ........................................................................................................ 24
LIÊN HỆ ............................................................................................................. 29
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 32


1

MỞ ĐẦU
Hiện nay tình hình thế giới và khu vực đang trong thời kỳ nhiều biến động
phức tạp, nhưng hợp tác, hội nhập và phát triển vẫn là xu thế chính của các nước.
Trong đó có thể kể đến xu thế đa cực đang trở thành xu thế chủ đạo, vai trò của
các tổ chức khu vực trên các châu lục ngày càng gia tăng, tạo mối quan hệ đan xen
vừa tăng cường hợp tác, vừa cạnh tranh chiến lược. Tranh chấp chủ quyền biển,
đảo ở khu vực Biển Đông ngày càng quyết liệt, chưa bao giờ có dấu hiệu lắng
xuống, cùng với sự can dự của một số nước lớn ngồi khu vực đã làm cho vùng
biển này có lúc trở thành điểm nóng, khó đốn định.
Đối với nước ta, sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành sáng suốt, quyết liệt, hiệu
quả của Đảng, Nhà nước, nhất là trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc
phòng, an ninh, phịng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí và chủ động, quyết
liệt, linh hoạt ứng phó với đại dịch Covid-19 vừa qua càng khẳng định bản chất
tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa; tăng thêm niềm tin của Nhân dân vào Đảng,
Nhà nước, Quân đội và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; vị thế, uy tín của
Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Tuy nhiên, các thế lực thù địch ln

tìm cách đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hịa bình”, tăng cường sử dụng các biện
pháp tấn công mềm, tập trung làm chuyển biến về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống, thúc đẩy q trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; kích động,
chia rẽ, địi “phi chính trị hóa” Qn đội; hạ thấp, phủ nhận vai trị, uy tín lãnh đạo
của Đảng, hịng xóa bỏ mục tiêu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc hiện nay đang đứng
trước nhiều khó khăn, thách thức lớn. Song, tồn Đảng, tồn dân, tồn qn ta
ln chung sức, đồng lòng, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp, quyết tâm bảo vệ
vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia, đồng thời giữ
vững môi trường hịa bình, ổn định trên biển để phát triển đất nước.


2

TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI (LÍ DO NGHIÊN CỨU)
Biển, đảo Việt Nam có vị trí chiến lược, trọng yếu về địa chính trị, kinh
tế, quốc phịng, an ninh và đối ngoại của đất nước. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln coi biển, đảo là phần máu thịt khơng thể tách rời của lãnh thổ Việt
Nam và động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quyết tâm bảo vệ chủ quyền
biển, đảo của Tổ quốc. Tư tưởng của Người có giá trị to lớn và là kim chỉ nam
để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững
chắc, toàn vẹn chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc hiện nay.
Hiện nay, tình hình an ninh, chính trị thế giới, khu vực diễn biến nhanh
chóng, phức tạp, khó dự báo. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển,
đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt. Hịa bình, ổn định, tự do, an ninh, an
tồn hàng hải, hàng khơng trên Biển Đông đứng trước thách thức to lớn, tiềm ẩn
nguy cơ xung đột. Các nước trong khu vực tiếp tục gia tăng các hoạt động, yêu
sách chủ quyền, nhất là ở những vùng biển giáp ranh, nhạy cảm, chưa phân định.
Vì vậy, vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo càng trở nên quan trọng, đòi hỏi
chúng ta phải thấm nhuần sâu sắc và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh

về bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo.
Từ những thông tin từ thực tiễn, em đã quyết định thiết kế đề tài nghiên
cứu Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới quốc gia trong tình hình
mới – Liên hệ vấn đề xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo biên giới quốc gia
của sinh viên HVBC&TT hiện nay Nhằm đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục nâng
cao nhận thức của mọi người trong việc xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo,
biên giới quốc gia, nâng cao dân trí một cách tồn diện, để mỗi người dân, đặc
biệt là thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên có ý thức xây dựng, bảo vệ chủ quyền biển,
đảo, biên giới quốc gia. Từ đó, liên hệ, đánh giá việc bảo vệ, xây dựng chủ
quyền biển, đảo, biên giới quốc gia của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên
truyền.


3

MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
A. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được thực hiện nhằm đạt được 3 mục tiêu :
1. Đánh giá thực trạng việc bảo vệ, xây dựng chủ quyền biển, đảo, biên
giới quốc gia
2. Nguyên nhân và những hậu quả, yếu tố ảnh hưởng đến việc bảo vệ, xây
dựng chủ quyền biển, đảo, biên giới quốc gia
3. Đề xuất giải pháp can thiệp nhằm tăng cường việc bảo vệ, xây dựng chủ
quyền biển, đảo, biên giới quốc gia
Từ đó, mong muốn các kết quả nghiên cứu sẽ là tiền đề xây dựng các
giải pháp phù hợp với tình hình thực tiễn góp phần tăng cường việc bảo vệ, xây
dựng chủ quyền biển, đảo, biên giới quốc gia nhằm hạn chế các động thái cướp
đoạt, lấn chiếm của thế lực thù địch
B. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

- Giải thích một số khái niệm liên quan đến đề tài
- Chỉ ra nguyên nhân, nhược điểm và rút kinh nghiệm
- Xác định những vấn đề tập trung giải quyết
- Đánh giá thực trạng và liên hệ việc bảo vệ, xây dựng chủ quyền biển,
đảo, biên giới quốc gia của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Dựa trên các phân tích nêu trên đề xuất các giải pháp, kế hoạch, biện
pháp khắc phục những vấn đề còn vướng mắc liên quan đến đề tài
C. Đối tượng nghiên cứu
“Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới quốc gia trong tình
hình mới” là đối tượng nghiên cứu của đề tài
D. Khách thể nghiên cứu
Tất cả người dân Việt Nam, đặc biệt là học sinh - sinh viên, các bạn trẻ
đang ở tuổi vị thành niên, ở đề tài này em liên hệ tới Sinh viên Học viện Báo chí
và Tuyên truyền


4

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ
CHỦ QUYỀN, BIỂN, ĐẢO, BIÊN GIỚI QUỐC GIA
I. Xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia
1. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia
Quốc gia là thực thể pháp lí bao gồm ba yếu tố cấu thành: lãnh thổ, dân
cư và quyền lực công cộng. Quốc gia là chủ thể căn bản nhất của luật quốc tế.
Chủ quyền quốc gia là đặc trưng cơ bản, quan trọng nhất của quốc gia. Theo luật
pháp quốc tế hiện đại, tất cả các quốc gia đều bình đẳng về chủ quyền.
Lãnh thổ quốc gia là phạm vi không gian được giới hạn bởi biên giới quốc
gia, thuộc chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ của một quốc gia. Lãnh thổ quốc gia
Việt Nam bao gồm : vùng đất quốc gia, vùng biển quốc gia (nội thuỷ và lãnh hải),

vùng trời quốc gia, ngồi ra cịn gồm lãnh thổ quốc gia đặc biệt.
Lãnh thổ quốc gia đặc biệt là loại lãnh thổ đặc thù của một quốc gia tồn
tại hợp pháp trong lãnh thổ một quốc gia khác hoặc trên vùng biển, vùng trời quốc
tế. Ví dụ như trụ sở làm việc và nơi ở của cơ quan đại diện ngoại giao.
Vùng đất quốc gia (kể cả các đảo và quần đảo) là phần mặt đất và lòng đất
của đất liền (lục địa), của đảo, quần đảo thuộc chủ quyền một quốc gia ; bộ phận
quan trọng nhất cấu thành nên lãnh thổ quốc gia, làm cơ sở để xác định vùng trời
quốc gia, nội thuỷ, lãnh hải. Vùng đất quốc gia có thể gồm những lục địa ở những
điểm khác nhau (tách rời nhau), nhưng các vùng đất đó đều thuộc lãnh thổ thống
nhất của quốc gia ; hoặc cũng có thể chỉ bao gồm các đảo, quần đảo ở ngoài biển
hợp thành quốc gia quần đảo. Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông
Dương, ven biển Thái Bình Dương, có vùng đất quốc gia vừa là đất liền, vừa là đảo,
vừa là quần đảo, bao gồm từ đỉnh Lũng Cú, Hà Giang đến mũi Cà Mau ; các đảo
như Phú Quốc, Cái Lân... và quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.


5

Vùng biển quốc gia bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việt Nam có 3 mặt trơng ra biển là Đông,
Nam và Tây Nam.Đường bờ biển dài 3.260 km khơng kể các đảo, trải dài từ Móng
Cái đến Hà Tiên. Ngoài vùng nội thủy, Việt Nam tuyên bố 12 hải lý lãnh hải, thêm
12 hải lý vùng tiếp giáp lãnh hải, 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế và cuối cùng
là thềm lục địa. Vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán
của Việt Nam chiếm diện tích khoảng 1.000.000 km² biển Đơng.
Vùng trời quốc gia là khoảng khơng gian phía trên lãnh thổ quốc gia; là
bộ phận cấu thành lãnh thổ quốc gia và thuộc chủ quyền hồn tồn của quốc gia
đó. Việc làm chủ vùng trời quốc gia trên vùng lãnh thổ quốc gia đặc biệt được
thực hiện theo quy định chung của công ước quốc tế.
Chủ quyền quốc gia là quyền làm chủ một cách độc lập, toàn vẹn và đầy

đủ về mọi mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp của một quốc gia trong phạm vi
lãnh thổ của quốc gia đó. Quốc gia thể hiện chủ quyền của mình trên mọi phương
diện kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao.
Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là một bộ phận của chủ quyền quốc gia,
khẳng định quyền làm chủ của quốc gia đó trên vùng lãnh thổ của mình. Mỗi nước
có tồn quyền định đoạt mọi việc trên lãnh thổ của mình, khơng được xâm phạm
lãnh thổ và can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác. Chủ quyền lãnh
thổ quốc gia dừng lại ở biên giới quốc gia; mọi tư tưởng và hành động thể hiện
chủ quyền quốc gia vượt quá biên giới quốc gia của mình đều là hành động xâm
phạm chủ quyền của các quốc gia khác và trái với công ước quốc tế. Chủ quyền
lãnh thổ quốc gia là tuyệt đối, bất khả xâm phạm; tôn trọng chủ quyền lãnh thổ
quốc gia là nguyên tắc cơ bản trong quan hệ và luật pháp quốc tế.
2. Biển, đảo nước ta
2.1. Khái quát


6

* Biển:
Biển là tất cả những vùng biển không nằm trong vùng đặc quyền kinh tế,
lãnh hải hay nội thuỷ của một quốc gia cũng như không nằm trong vùng nước
quần đảo của quốc gia quần đảo. Hay nói cách khác: "Biển cả là vùng biển chung
của tất cả các quốc gia, khơng thuộc chủ quyền của bất kì quốc gia nào. Vùng
biển không nằm trong vùng đặc quyền kinh tế, lãnh hải hay nội thủy của một quốc
gia cũng như không nằm trong vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo
nào".
Biển nói chung là một vùng nước mặn rộng lớn nối liền với các đại dương,
hoặc là các hồ lớn chứa nước mặn mà khơng có đường thông ra đại dương một
cách tự nhiên như biển Caspi, biển Chết. Thuật ngữ này đôi khi cũng được sử dụng
với một số hồ nước ngọt khép kín hoặc có đường thông tự nhiên ra biển cả

như biển Galilee ở Israel là một hồ nước ngọt nhỏ khơng có đường thông tự nhiên
ra đại dương hay Biển Hồ ở Campuchia. Thuật ngữ này được sử dụng trong đời
sống thông thường nh một từ đồng nghĩa với đại dương, như trong các câu biển
nhiệt đới hay đi ra bờ biển, hoặc cụm từ nước biển là chỉ một cách rõ nét tới các
vùng nước của đại dương nói chung.
* Đảo:
Đảo là phần đất được bao quanh hoàn toàn bởi nước nhưng khơng phải
là lục địa; tuy vậy, khơng có kích thước chuẩn nào để phân biệt giữa đảo và lục
địa.
Trên thực địa, có đảo nổi - khi thuỷ triều lên cao nhất vẫn khơng bị ngập
nước, có đảo chìm - khi nước thuỷ triều lên thì bị ngập. Đảo có thể nằm riêng
biệt, có thể nằm cạnh nhau tạo thành những quần đảo (như quần đảo Philippin có
tới trên 7.000 hịn đảo lớn nhỏ tạo thành). Tuỳ theo vị trí tọa lạc, có thể chia đảo
thành ba loại: đảo lục địa, đảo của đới chuyển tiếp từ lục địa đến đại dương và
đảo đại dương. Ngoài ra, tuỳ theo lịch sử hình thành, đảo có thể được phân thành


7

2 loại: đảo núi lửa và đảo san hô. Đảo núi lửa xuất hiện do kết quả hoạt động của
núi lửa ở đáy biển. Đảo san hơ được hình thành do sản phẩm của các quần thể
san hô, đá vôi san hơ.
2.2. Vai trị của biển, đảo
Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc,
biển, đảo có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và
bảo vệ đất nước. Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Ngày trước
ta chỉ có đêm và rừng, ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi
đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Khẳng định của Người không chỉ thôi thúc cả
dân tộc quyết tâm đánh bại đế quốc và tay sai, giải phóng dân tộc mà còn đặt
trách nhiệm cho các thế hệ người Việt Nam phải biết chăm lo phát huy lợi thế và

bảo vệ vững chắc vùng trời, biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Vì vậy, trong
suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và xây dựng phát triển đất nước,
Đảng ta luôn quan tâm đến việc phát huy lợi thế về biển, kết hợp với phát huy
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong việc bảo vệ chủ quyền biển,
đảo Việt Nam.
Biển, đảo nước ta là không gian chiến lược đặc biệt quan trọng đối với
quốc phịng - an ninh của đất nước, hình thành nên tuyến phòng thủ nhiều tầng,
nhiều lớp, những điểm tựa, pháo đài, trạm gác tiền tiêu, đồng thời là lá chắn vững
chắc từ hướng biển, tạo thế liên hoàn biển - đảo - bờ trong thế trận phòng thủ khu
vực. Lịch sử cho thấy trong 14 cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù đối với nước
ta có 10 cuộc bắt đầu từ hướng biển. Ngày nay, Biển Đông cùng các đảo vẫn còn
diễn ra tranh chấp và quyết liệt về chủ quyền giữa các quốc gia, nơi tiềm ẩn những
bất trắc khó lường, đang là thách thức đe dọa đến chủ quyền lãnh thổ, an ninh của
nước ta trên biển và từ hướng biển.
Việt Nam có bờ biển dài, thềm lục địa rộng lớn trên một triệu km2, gấp 3
lần diện tích đất liền; có hơn 3.000 hịn đảo. Trước hết phải nói về tiềm năng về


8

kinh tế, với trên 2.040 loài cá, gồm nhiều bộ, họ khác nhau, trong đó có 100 lồi
cá có giá trị kinh tế cao; trên 600 loài rong biển là nguồn thức ăn có dinh dưỡng
cao, nguồn dược liệu phong phú; dưới đáy biển chứa đựng một trữ lượng lớn
khoáng sản quý như: Thiếc, Ti tan, Thạch anh, Nhôm, Sắt, Măng gan, Đồng, Kền
và các loại đất hiếm; muối ăn chứa trong nước biển bình qn 3.500gr/m3; trữ
lượng dầu khí ngồi khơi miền Nam Việt Nam có thể chiếm 25% trữ lượng dầu
dưới đáy Biển Đơng, có thể khai thác từ 30 đến 40 ngàn thùng/ngày (mỗi thùng
159 lít) khoảng 20 triệu tấn/năm, trữ lượng dầu dự báo của toàn thềm lục địa Việt
Nam khoảng 10 tỷ tấn dầu quy đổi, trữ lượng khí đốt khoảng 3 nghìn tỷ m3/năm.
Bờ biển nước ta chạy dọc từ Bắc tới Nam theo chiều dài đất nước, có nhiều

cảng, vịnh… rất nhiều thuận tiện cho giao thông, đánh bắt hải sản. Nằm liền trục
giao thơng đường biển quốc tế từ Thái Bình Dương sang Đại Tây Dương, trong
tương lai sẽ là tiềm năng cho ngành kinh tế dịch vụ du lịch trên biển (đóng tàu,
sữa chữa tàu, tìm kiếm cứu hộ, thơng tin, dẫn dắt…). Bên cạnh đó, với thế mạnh
bờ biển dài có nhiều bãi cát, vùng vịnh, hang động tự nhiên đẹp là tiềm năng du
lịch lớn của nước ta, theo thống kê hàng năm trong tổng số khách đến tham quan,
du lịch tại nước ta thì du lịch biển, đảo chiếm từ 50 - 60%. Đặc biệt đáng chú ý là
vùng biển và ven biển Việt Nam nằm án ngữ trên các tuyến hàng hải và hàng
khơng huyết mạch có giá trị như những cánh cửa rộng mở để chủ động hội nhập
kinh tế với thế giới.
Biển, đảo nước ta là không gian chiến lược đặc biệt quan trọng đối với
quốc phịng - an ninh của đất nước, hình thành nên tuyến phòng thủ nhiều tầng,
nhiều lớp, những điểm tựa, pháo đài, trạm gác tiền tiêu, đồng thời là lá chắn vững
chắc từ hướng biển, tạo thế liên hoàn biển - đảo - bờ trong thế trận phòng thủ khu
vực. Lịch sử cho thấy trong 14 cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù đối với nước
ta có 10 cuộc bắt đầu từ hướng biển. Ngày nay, Biển Đông cùng các đảo vẫn còn
diễn ra tranh chấp và quyết liệt về chủ quyền giữa các quốc gia, nơi tiềm ẩn những


9

bất trắc khó lường, đang là thách thức đe dọa đến chủ quyền lãnh thổ, an ninh của
nước ta trên biển và từ hướng biển
Về mặt pháp lý - chính trị, Quốc hội đã phê chuẩn Công ước của Liên hiệp
quốc về Luật Biển năm 1982 vào ngày 23 -6-1994, Cơng ước này bắt đầu có hiệu
lực từ 16-11-1994. Nhà nước ta đã cụ thể hóa cơ sở pháp lý của Luật Biển, tạo
hành lang pháp lý vững chắc trong công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển,
đảo, thềm lục địa của Tổ quốc, thể hiện quyết tâm của Việt Nam cùng cộng đồng
quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý cơng bằng. Ngày18 -12-2003, Thủ tướng
Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 161/2003/NĐ-CP về Quy chế khu vực

biên giới biển gồm 5 chương, 37 điều, quy định hoạt động của người, tàu thuyền
Việt Nam, tàu thuyền nước ngoài trong khu vực biên giới biển nhằm quản lý, bảo
vệ biên giới quốc gia trên biển, duy trì an ninh trật tự, an tồn xã hội trong khu
vực biên giới biển. Ngày 21-6-2012, tại Kỳ họp lần thứ 3, Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khóa XIII) đã thơng qua Luật Biển Việt Nam.
Luật Biển Việt Nam gồm 7 chương, 55 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-12013.
3. Nội dung xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia
Xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia là thực hiện tổng thể các
giải pháp, biện pháp trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, đối ngoại
và quốc phòng, an ninh nhằm thiết lập và bảo đảm quyền làm chủ một cách độc
lập, toàn vẹn và đầy đủ về mọi mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp của quốc gia
trong phạm vi lãnh thổ, bao gồm vùng đất, vùng trời, nội thuỷ, lãnh hải và lãnh
thổ đặc biệt của quốc gia. Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia là sử dụng tổng hợp
các lực lượng và biện pháp chống lại sự xâm phạm, phá hoại dưới mọi hình thức
để giữ gìn tồn vẹn chủ quyền nhà nước đối với lãnh thổ quốc gia. Xây dựng và
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia Việt Nam là yêu cầu tất yếu, là nhiệm vụ quan


10

trọng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nội
dung của việc xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia Việt Nam gồm :
- Xây dựng, phát triển mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, đối ngoại
và quốc phòng, an ninh của đất nước.
- Xác lập và bảo vệ quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của Việt Nam
trên mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phịng, an ninh và đối ngoại
trong phạm vi lãnh thổ của mình.
- Bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bao gồm vùng đất, vùng trời, nội
thuỷ, lãnh hải và lãnh thổ đặc biệt của Việt Nam; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu
và hành động phá hoại, vi phạm chủ quyền, xâm phạm lãnh thổ của Việt Nam.

- Bảo vệ sự thống nhất lãnh thổ của đất nước, thống nhất về quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Đấu tranh làm thất bại mọi
hành động chia cắt lãnh thổ Việt Nam; mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch
cả bên trong lẫn bên ngồi hịng phá hoại quyền lực tối cao của Việt Nam.
Nội dung xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia gắn bó chặt chẽ
và đặt trong tổng thể chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Làm tốt nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia là trực tiếp góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
II. Xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia
1. Biên giới quốc gia
1.1. Khái niệm:
Luật biên giới quốc gia của Việt Nam năm 2004 xác định: “Biên giới quốc
gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đường và mặt phẳng thẳng
đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo
trong đó có quần đảo Hồng Sa và quần đảo Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng
trời của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.


11

Biên giới quốc gia của Việt Nam được xác định bằng hệ thống các mốc quốc
giới trên thực địa, được đánh dấu bằng các toạ độ trên hải đồ và thể hiện bằng mặt
phẳng thẳng đứng theo lãnh thổ Việt Nam. Biên giới quốc gia Việt Nam bao gồm biên
giới quốc gia trên đất liền, trên biển, trên không, trong lòng đất.
1.2. Các yếu tố cấu thành biên giới quốc gia:
Biên giới quốc gia trên đất liền (4550 km) là phân định lãnh thổ trên bề mặt
đất liền của vùng đất quốc gia. Trong thực tế, biên giới quốc gia trên đất liền được
xác lập dựa vào các yếu tố địa hình (núi, sơng, suối, hồ nước, thung lũng...); thiên
văn (theo kinh tuyến, vĩ tuyến); hình học (đường lối liền các điểm quy ước). Biên
giới quốc gia trên đất liền được xác lập trên cơ sở thoả thuận giữa các quốc gia có

lãnh thổ tiếp giáp với nhau và được thể hiện bằng các điều ước hoạch định biên giới
giữa các quốc gia liên quan. Việt Nam có đường biên giới quốc gia trên đất liền dài 4.550
km tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, với Lào và Campuchia ở phía Tây, phía Đơng
giáp Biển Đơng.
Biên giới quốc gia trên biển (3260 km) là phân định lãnh thổ trên biển
giữa các quốc gia có bờ biển liền kề hay đối diện nhau; là ranh giới phía ngồi của
lãnh hải. Biên giới quốc gia trên biển của quốc gia quần đảo là đường BGQG phân
định lãnh thổ quốc gia với biển cả. Đối với các đảo của một quốc gia nằm ngoài
phạm vi lãnh hải của quốc gia, biên giới quốc gia trên biển là đường ranh giới phía
ngồi của lãnh hải bao quanh đảo.
Biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam được hoạch định và đánh dấu
bằng các tọa độ trên hải đồ là ranh giới phía ngồi lãnh hải của đất liền, lãnh hải
của đảo, lãnh hải của quần đảo của Việt Nam, được xác định theo Công ước của
Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và các điều ước quốc tế giữa Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và các quốc gia hữu quan.
Biên giới quốc gia trên không là biên giới phân định vùng trời giữa các
quốc gia liền kề hoặc các vùng trời quốc tế, được xác định bởi mặt phẳng thẳng


12

đứng từ biên giới quốc gia trên đất liền và biên giới quốc gia trên biển lên trên
vùng trời. Trong điều kiện khoa học và công nghệ phát triển, việc xác lập biên giới
quốc gia trên khơng có ý nghĩa ngày càng quan trọng trong việc thực hiện chủ
quyền đối với vùng trời quốc gia. Đến nay chưa có quốc gia nào quy định độ cao
cụ thể của biên giới quốc gia trên khơng.
Biên giới quốc gia trong lịng đất là phân định lãnh thổ quốc gia trong
lịng đất phía dưới vùng đất quốc gia, nội thuỷ và lãnh hải, được xác định bởi mặt
phẳng thẳng đứng từ biên giới quốc gia trên đất liền và biên giới quốc gia trên biển
xuống lòng đất. Độ sâu cụ thể của biên giới trong lòng đất được xác định bằng độ

sâu mà kĩ thuật khoan có thể thực hiện. Đến nay, chưa có quốc gia nào quy định
độ sâu cụ thể của biên giới trong lòng đất.
1.3. Khu vực biên giới:
Khu vực biên giới là vùng lãnh thổ tiếp giáp biên giới quốc gia có quy chế,
quy định đặc biệt do Chính phủ ban hành nhằm bảo vệ an toàn biên giới. Khu vực
biên giới Việt Nam bao gồm: khu vực biên giới trên đất liền gồm xã, phường, thị
trấn có một phần địa giới hành chính trùng hợp với biên giới quốc gia Việt Nam
trên đất liền; khu vực biên giới quốc gia Việt Nam trên biển được tính từ biên giới
quốc gia trên biển vào hết địa giới hành chính xã, phường, thị trấn giáp biển và
đảo, quần đảo; khu vực biên giới trên không gồm phần không gian dọc theo biên
giới quốc gia có chiều rộng mười kilơmét tính từ biên giới Việt Nam trở vào.
2. Nội dung xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia
Xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia là thực hiện tổng thể các biện pháp
để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ tài ngun, mơi sinh, mơi trường, lợi ích
quốc gia trên khu vực biên giới; giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội
ở khu vực biên giới. Do vị trí địa lí và chính trị, trong lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam, việc xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia luôn là
một vấn đề đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định và phát triển đất nước. Xây


13

dựng và bảo vệ biên giới quốc gia là một nội dung của xây dựng và bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ quốc gia, là một biện pháp hiệu quả chống lại sự xâm phạm chủ
quyền lãnh thổ quốc gia.
Trong hoà bình, bảo vệ biên giới quốc gia là tổng thể các biện pháp mà hệ
thống chính trị, xã hội, các lực lượng vũ trang khu vực biên giới áp dụng nhằm
tuần tra, giữ gìn nguyên vẹn, chống lại sự xâm phạm biên giới quốc gia. Bộ đội
Biên phòng là lực lượng chuyên trách và làm nòng cốt trong bảo vệ biên giới quốc
gia. Khi có xung đột hoặc chiến tranh, các biện pháp bảo vệ biên giới quốc gia

được thể hiện rõ qua các trạng thái sẵn sàng chiến đấu: thường xuyên, tăng cường
và cao.
Luật biên giới quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2004 xác định: “Xây dựng, quản lí, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên
giới là sự nghiệp của toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lí. Nhà nước và nhân
dân thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an
ninh và đối ngoại”. Xây dựng, bảo vệ bao gồm các nội dung sau:
- Ưu tiên đầu tư xây dựng khu vực biên giới vững mạnh tồn diện về chính
trị, kinh tế - xã hội, quốc phịng, an ninh; có chính sách ưu tiên tạo điều kiện thuận
lợi cho nhân dân khu vực biên giới định cư ổn định, phát triển và sinh sống lâu
dài ở khu vực biên giới; điều chỉnh dân cư theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
và củng cố quốc phòng - an ninh khu vực biên giới.
- Tăng cường, mở rộng quan hệ đối ngoại các cấp trên khu vực biên giới;
phát triển kinh tế đối ngoại, tăng cường hợp tác nhiều mặt nhằm xây dựng biên
giới hồ bình, hữu nghị, ổn định lâu dài với các nước láng giềng.
- Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Sử dụng tổng hợp các lực lượng
và biện pháp của Nhà nước chống lại sự xâm phạm, phá hoại dưới mọi hình thức
để giữ gìn toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia.


14

- Bảo vệ tài nguyên, môi sinh, môi trường. Sử dụng tổng hợp các biện pháp
đấu tranh ngăn chặn mọi hành động xâm phạm tài nguyên, đặc biệt là xâm phạm tài
ngun trong lịng đất, trên biển, trên khơng, thềm lục địa của Việt Nam. Ngăn chặn,
đấu tranh với mọi hành động phá hoại, huỷ hoại, gây ô nhiễm môi sinh, môi trường
khu vực biên giới, bảo đảm cho người Việt Nam, nhân dân khu vực biên giới có mơi
trường sinh sống bền vững, ổn định và phát triển lâu dài.
- Bảo vệ lợi ích quốc gia trên khu vực biên giới. Thực thi quyền lực chính
trị tối cao (quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp) của Nhà nước Cộng hoà xã hội

chủ nghĩa Việt Nam trên khu vực biên giới ; chống lại mọi hành động xâm phạm
về lợi ích kinh tế, văn hố, xã hội của đất nước trên khu vực biên giới. Bảo đảm
mọi lợi ích của người Việt Nam phải được thực hiện ở khu vực biên giới theo luật
pháp Việt Nam, phù hợp với luật pháp quốc tế và các hiệp định mà Việt Nam kí
kết với các nước hữu quan.
- Giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội ở khu vực biên giới. Đập
tan mọi âm mưu và hành động gây mất ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội
khu vực biên giới quốc gia. Đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành động chia rẽ
đoàn kết dân tộc, phá hoại sự ổn định, phát triển khu vực biên giới.
- Phối hợp với các nước, đấu tranh ngăn chặn mọi hành động phá hoại
tình đồn kết, hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước láng
giềng. Trấn áp mọi hành động khủng bố, tội phạm xuyên biên giới quốc gia.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN,
BIỂN, ĐẢO, BIÊN GIỚI QUỐC GIA
Biển đảo Việt Nam luôn là một phần máu thịt không thể tách rời của Tổ
quốc ta, cùng với đất liền tạo ra môi trường sinh tồn và phát triển đời đời của dân
tộc ta. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo của vệ Tổ quốc không chỉ bảo vệ tồn vẹn,
thống nhất khơng gian lãnh thổ biển, đảo, lợi ích quốc gia, dân tộc mà cịn góp
phần bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân.


15

Kế thừa và phát triển ý thức chủ quyền biển, đảo của ông cha trong lịch sử
dựng nước và giữ nước, cũng như nhận thức đúng vị trí, vai trị, tầm quan trọng
đặc biệt của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà
nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách về biển, đảo. Quản lý, khai thác đi đôi
với bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên
biển, làm cho đất nước giàu mạnh là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta.
Những năm qua, trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều diễn biến

phức tạp, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, quân và
dân ta triển khai tích cực các hoạt động bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên
biển.
Đồng thời, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, góp phần củng cố sự đồn
kết, nhất trí trong ASEAN, gìn giữ, phát triển các mối quan hệ đối ngoại với các
nước, các tổ chức quốc tế, nêu cao chính nghĩa, tạo thế và lực cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay, Đảng ta thể hiện rõ quan điểm phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ
biển, đảo của Tổ quốc; chủ trương phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội với tăng
cường quốc phịng, an ninh, đối ngoại bảo vệ chủ quyền biển đảo trong bối cảnh
hội nhập quốc tế. Quan điểm đó đã thể hiện rõ trong các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, đặc biệt là “Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020” và Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa X): “Đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh
về biển, giàu lên từ biển”.
Quán triệt quan điểm của Đảng, toàn dân (cả kiều bào ở nước ngoài), toàn
quân đã hướng về biển đảo, thực hiện phương châm: kiên quyết, kiên trì giải quyết
tranh chấp chủ quyền biển đảo thơng qua thương lượng hịa bình, trên cơ sở tơn
trọng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Luật Biển (năm 1982) và đã đạt được
kết quả quan trọng, vừa giữ vững chủ quyền biển đảo, vừa giữ được tình hữu nghị
và đoàn kết quốc tế.


16

Trong thời gian qua, Việt Nam đã “Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh
bằng các biện pháp phù hợp, bảo vệ được chủ quyền biển, đảo, vùng trời và giữ
được hịa bình, ổn định để phát triển đất nước”. Đồng thời, Chiến lược phát triển
bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị
quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương 8, khố
XII) cũng nêu “nhận thức của tồn hệ thống chính trị, nhân dân và đồng bào ta ở

nước ngồi về vị trí, vai trị của biển, đảo đối với phát triển kinh tế, bảo vệ chủ
quyền quốc gia được nâng lên rõ rệt. Chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển được
giữ vững”.
Hiện nay, sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thế và lực của ta trên các vùng
biển, đảo đã tăng lên nhiều. Thế trận quốc phòng tồn dân, an ninh nhân dân, “thế
trận lịng dân” trên biển, đảo không ngừng được củng cố, tăng cường. Các lực
lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo từng bước được xây dựng, phát triển ngày càng
vững mạnh hơn, trong đó Hải quân nhân dân Việt Nam được Đảng, Nhà nước ưu
tiên đầu tư hiện đại, có sự trưởng thành, lớn mạnh vượt bậc, đủ sức làm nòng cốt
bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Bộ đội Hải quân cùng các lực lượng thực
thi pháp luật khác trên biển (cảnh sát biển, bộ đội biên phịng, kiểm ngư…) khơng
quản ngại khó khăn, gian khổ, hiểm nguy; kiên cường bám trụ nơi “đầu sóng, ngọn
gió”; ngày đêm tuần tra, kiểm sốt, khẳng định, bảo vệ chủ quyền, giữ bình n
biển, đảo, thực sự là điểm tựa tin cậy cho nhân dân yên tâm vươn khơi bám biển,
phát triển kinh tế.
Đặc biệt, mỗi khi phải đối mặt với tình huống phức tạp, căng thẳng, các
lực lượng trên biển luôn nêu cao ý chí quyết tâm “cịn người, cịn biển, đảo”, “một
tấc không đi, một li không rời”; thực hiện đúng đối sách, phương châm, tư tưởng
chỉ đạo; khôn khéo, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích quốc
gia, an ninh, trật tự trên biển; không để xảy ra xung đột; giữ vững mơi trường hịa
bình, ổn định để phát triển đất nước và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước.


17

Bên cạnh thuận lợi cơ bản, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc hiện nay vẫn đang đứng trước những khó khăn, thách thức.
Tình hình quốc tế, khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường,
những nhân tố mới xuất hiện tác động trực tiếp đến tình hình biển Đơng. Cạnh
tranh chiến lược giữa các nước lớn và tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo

giữa các nước trong khu vực diễn ra gay gắt, tiềm ẩn nguy cơ xung đột, mất ổn
định. Sáu năm sau vụ hạ đặt trái phép giàn khoan HD-981 trong vùng thềm lục địa
nước ta, Trung Quốc vẫn có những hành vi xâm phạm chủ quyền biển, đảo nước
ta; thậm chí, xuất hiện một số động thái và xu hướng mới. Một số nước trong khu
vực đã điều chỉnh chiến lược từ duy trì quyền lợi tự do đi lại trên biển, đến tiếp
tục theo đuổi mục tiêu chiến lược lấn chiếm biển, đảo của nước ta. Vì vậy, họ đẩy
mạnh các hoạt động và tiến hành hàng loạt biện pháp, thủ đoạn để từng bước độc
chiếm, gây mất ổn định, an ninh biển đảo, đe dọa nghiêm trọng chủ quyền, tồn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Trước bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, biện pháp
tích cực nhằm tăng cường đối thoại; phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, tranh thủ đoàn kết quốc tế để giải quyết các tranh chấp chủ quyền biển đảo,
giữ vững an ninh quốc gia, ngăn ngừa xung đột, tạo mơi trường hịa bình, hữu
nghị, hợp tác để phát triển đất nước.
Việt Nam có ranh giới vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa chung với hầu
hết các nước xung quanh biển Đông, đặc biệt là Trung Quốc và Cam-pu-chia. Hiện
nay, trên biển Việt Nam còn bốn vấn đề lớn liên quan đến chủ quyền lãnh thổ cần
phải giải quyết, đó là: bảo vệ chủ quyền trên quần đảo Hồng Sa; bảo vệ chủ quyền
và giải quyết hịa bình tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa giữa các
nước, gồm Việt Nam, Trung Quốc, Ma-lai-xi-a, Phi-lip-pin, Đài Loan (Trung
Quốc); phân định ranh giới các vùng biển theo Công ước của Liên hiệp quốc


18

về Luật Biển năm 1982; xác định ranh giới ngoài của vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa.
Tranh chấp chủ quyền biển, đảo ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển
kinh tế biển của Việt Nam theo nhiều khía cạnh. Vấn đề quan trọng nhất là phải
giải quyết các bất đồng, tranh chấp trên biển thông qua biện pháp hịa bình, trên

cơ sở luật pháp quốc tế, tăng cường quan hệ láng giềng hữu nghị giữa các nước
nhằm bảo đảm mơi trường hịa bình để phát triển.
Để bảo đảm chủ quyền biển, đảo và lợi ích quốc gia trên biển của nước ta
trong tình hình hiện nay, một mặt, cần không ngừng nâng cao năng lực quản lý
nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội gắn với tăng cường tiềm lực quốc
phòng, an ninh, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, thăm dị, khai thác, ni trồng và
bảo vệ tài nguyên môi trường biển, phát triển hệ thống giao thơng đường biển; mặt
khác, phải tích cực đối thoại với các bên liên quan, tăng cường quan hệ hợp tác
hữu nghị và đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tìm kiếm các giải pháp cơ bản và lâu dài
mà các bên đều có thể chấp nhận được.
Việc giải quyết tranh chấp, giữ gìn hịa bình và ổn định, đẩy mạnh phát
triển kinh tế biển trên biển Đông cần dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là
Công ước của Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về Quy tắc ứng
xử của các bên ở biển Đơng (DOC). Các nước có liên quan cần tơn trọng các quyền
và lợi ích chính đáng của mỗi nước được quy định trong Công ước quốc tế và Luật
Biển năm 1982 để giải quyết mọi tranh chấp bằng biện pháp hồ bình, khơng sử
dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực; các nước trong khu vực đẩy mạnh hợp tác
song phương và đa phương giữa các nước có liên quan nhằm xây dựng lịng tin,
tăng cường quan hệ hữu nghị, sử dụng, khai thác biển và bảo vệ môi trường biển
một cách hiệu quả.
Những nhân tố gây mất ổn định, xâm phạm chủ quyền, an ninh vùng biển,
đảo Việt Nam hiện đang diễn ra gay gắt; nguy cơ xung đột vũ trang, tranh chấp


19

trên biển, đảo và thềm lục địa của nước ta vẫn chưa được loại trừ. Những hành
động nguy hiểm như làm biến dạng một số hịn đảo, qn sự hóa các đảo đã chiếm
đóng trái phép của Việt Nam… đã và đang đe dọa trực tiếp đến hịa bình, ổn định,
an ninh, an tồn hàng hải ở biển Đơng.

Hiện nay mật độ dân cư trên biển, đảo và quần đảo thấp, cơ sở hạ tầng kinh
tế - xã hội các vùng ven biển, trên biển và trên các đảo còn chưa hồn thiện; khả
năng bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia cịn nhiều hạn chế...
Có thể thấy, ngay cả trong những thời gian căng thẳng nhất về tranh chấp
tại Biển Đơng, thì khơng chỉ những chiến sĩ, bộ đội, hải quân, cảnh sát biển ngày
đêm làm nhiệm vụ, mà ngay cả những ngư dân cũng như người dân cả nước đã
luôn hướng về Biển Đông như một phần máu thịt của chính mình.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP, VẬN DỤNG BẢO VỆ CHỦ QUYỀN
BIỂN ĐẢO, BIÊN GIỚI QUỐC GIA HIỆN NAY
I. Những giải pháp chủ yếu trong việc Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển,
đảo, biên giới quốc gia hiện nay
Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân; yếu tố quan trọng để đất nước phát triển bền vững. Trong bối
cảnh thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, để bảo vệ chủ quyền biển,
đảo, vấn đề cần quan tâm hiện nay là tăng cường sức mạnh quốc gia, xây dựng
thế trận quốc phịng tồn dân trên biển vững mạnh.
Là quốc gia biển nên vấn đề an ninh biển có tầm quan trọng đặc biệt đối
với Việt Nam, tác động lớn đến phát triển kinh tế biển và bảo đảm quốc phịng, an
ninh, bảo vệ mơi trường hịa bình của đất nước. Tuy nhiên, hiện nay tình hình
tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và các vấn đề an ninh phi truyền thống, như: khủng
bố, cướp biển, buôn lậu, tranh chấp ngư trường, khai thác tài nguyên biển gây ô
nhiễm môi trường,… diễn biến ngày càng phức tạp, khó dự báo.


20

Về tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông hiện đang tồn tại bốn vấn đề lớn
liên quan đến chủ quyền biển, đảo Việt Nam chưa được giải quyết: Chủ quyền
trên quần đảo Hoàng Sa; bảo vệ chủ quyền và giải quyết tranh chấp chủ quyền
trên quần đảo Trường Sa giữa năm nước sáu bên; phân định ranh giới các vùng

biển theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982; xác định ranh giới
ngoài vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Cùng với đó, những nhân tố có thể
gây mất ổn định trên Biển Đơng vẫn đang diễn ra gay gắt: xâm phạm chủ quyền,
an ninh; nguy cơ xung đột vũ trang; tranh chấp biển, đảo và thềm lục địa, v.v. Đại
hội XIII của Đảng xác định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững mơi
trường hịa bình, ổn định để phát triển...”. Quán triệt tinh thần đó, cần thực hiện
tốt một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là, xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển tồn diện,
có trọng tâm, trọng điểm, sớm đưa nước ta trở thành quốc gia trong khu vực mạnh
về kinh tế biển, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế. Nghị
quyết số 36-NQ/TW, ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế
biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định: “Việt Nam phải
trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng,
an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc
phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ”. Để kinh tế phát
triển tương xứng với tiềm năng của biển, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm
quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo cần phải tổ chức lại
hoạt động khai thác hải sản theo hướng giảm khai thác gần bờ, đẩy mạnh khai thác
xa bờ; thúc đẩy các hoạt động nuôi trồng, khai thác hải sản bền vững, tăng cường
bảo vệ, tái sinh nguồn lợi hải sản và môi trường biển, nghiêm cấm các hoạt động
khai thác mang tính hủy diệt.


21

Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, ưu tiên
phát triển các ngành công nghiệp năng lượng, cơng nghiệp hàng hải, đóng tàu,
ni trồng, khai thác và chế biến hải sản chất lượng cao. Đẩy nhanh tốc độ đơ thị
hóa, xây dựng các trung tâm kinh tế ven biển mạnh, tạo thế tiến ra biển, gắn với

phát triển đa dạng các ngành dịch vụ, xuất khẩu, du lịch, dịch vụ nghề cá, dầu khí,
vận tải biển, v.v. Phát triển kinh tế các đảo, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, thăm
dị, khai thác, ni trồng thủy sản gắn với bảo vệ, giữ vững độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội,
mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế. Xây dựng các chiến lược, quy hoạch, chương trình, dự
án phát triển kinh tế - xã hội trên biển, đảo; tăng cường đầu tư các nguồn lực và
hoạch định cơ chế chính sách trong phịng, chống thiên tai, thảm họa, bảo vệ môi
trường biển.
Hai là, xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo vững mạnh về mọi
mặt. Việc tập trung nỗ lực xây dựng lực lượng quản lý biển, đảo và các hoạt động
kinh tế biển, nhất là lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển, Biên phòng, Dân quân tự
vệ biển và lực lượng Kiểm ngư vững mạnh, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao là yêu cầu bức thiết hiện nay. Trong đó, Hải quân nhân dân Việt Nam là lực
lượng chuyên trách hoạt động trên biển, giữ vai trò quan trọng trong thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ các vùng biển, đảo của Tổ quốc, cần được ưu tiên đầu tư xây
dựng theo hướng hiện đại hóa và có chính sách đãi ngộ thỏa đáng, đặc biệt là lực
lượng thường xuyên tuần tra trên biển và chốt giữ các đảo xa bờ. Cảnh sát biển
Việt Nam là lực lượng chuyên trách quản lý, duy trì thực thi pháp luật trên biển,
cần được tiếp tục củng cố, hoàn thiện về tổ chức, biên chế, tăng cường trang bị
hiện đại, bảo đảm đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Bộ đội Biên
phòng cần được đầu tư đủ trang thiết bị kỹ thuật, phương tiện cơ động, đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, cứu hộ, cứu nạn, chống buôn lậu và các


22

tệ nạn xã hội trên các vùng biển. Dân quân tự vệ biển được xây dựng theo phương
châm vững mạnh, rộng khắp, ở đâu có tàu, thuyền, ngư dân hoạt động và dân cư
sinh sống trên đảo thì ở đó có dân quân tự vệ biển; lấy doanh nghiệp nhà nước,

hợp tác xã làm nòng cốt; tổ chức biên chế phù hợp với đặc điểm của từng địa
phương, bảo đảm thành ba tuyến: ven bờ, lộng, khơi; coi trọng lực lượng hoạt
động trên biển. Kiểm ngư là lực lượng được tổ chức chặt chẽ, hoạt động đúng chức
năng, nhiệm vụ, nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm của tàu thuyền
nước ngoài; hỗ trợ ngư dân, đảm bảo an ninh trật tự và có vai trị quan trọng trong
đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Tổ quốc.
Ba là, kiên quyết, kiên trì giải quyết tranh chấp trên biển, đảo bằng biện
pháp hịa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Là thành viên của Liên hợp quốc, của
UNCLOS cũng như tuyên bố của các bên về cách ứng xử trên biển Đông (DOC),
Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế; kiên trì con đường
giải quyết các vấn đề nảy sinh bằng biện pháp hịa bình, trên cơ sở bình đẳng và
tơn trọng lẫn nhau; thơng qua đàm phán, thương lượng, nhằm tìm kiếm giải pháp
cơ bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của tất cả các bên liên quan vì độc lập,
chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, vì hịa bình, ổn định khu vực và quốc
tế. Theo tinh thần đó, những vấn đề cịn đang bất đồng, tranh chấp song phương
thì giải quyết song phương; những vấn đề tranh chấp liên quan đến nhiều bên thì
giải quyết đa phương và phải hết sức cơng khai, minh bạch giữa các bên có liên
quan. Trong khi nỗ lực xử lý các vấn đề nảy sinh ở Biển Đơng bằng biện pháp hịa
bình, cần kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ những lợi ích chính đáng của ta trên
biển với quyết tâm “Việt Nam quyết không để một tấc đất, tấc biển nào bị xâm
phạm”; kiên trì tìm kiếm một giải pháp lâu dài và u cầu các bên liên quan kiềm
chế, khơng có hoạt động làm phức tạp thêm tình hình, khơng sử dụng vũ lực hoặc
đe dọa sử dụng vũ lực, tuân thủ cam kết giải quyết bằng biện pháp hịa bình, trên
cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, UNCLOS và 05 nguyên tắc chung


23

sống hịa bình, tăng cường nỗ lực xây dựng lịng tin, hợp tác đa phương về an ninh
biển, nghiên cứu khoa học, chống tội phạm; cùng nhau thực hiện nghiêm chỉnh

DOC, hướng tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử COC để Biển Đơng thực sự là vùng
biển hịa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Tại các vùng biển khơng
phải là tranh chấp, hồn tồn thuộc chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven
biển, Việt Nam có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết, phù hợp với quy định
của UNCLOS để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng.
Bốn là, thực hiện tốt cơng tác đối ngoại quốc phịng. Đối ngoại quốc
phịng là vấn đề quan trọng diễn ra chủ yếu trong thời bình và cả khi có tình huống
chiến tranh, thực hiện tốt vấn đề này góp phần vừa giữ vững độc lập, chủ quyền,
tồn vẹn lãnh thổ, hịa bình, ổn định trên Biển Đơng, vừa duy trì sự ổn định chính
trị - xã hội trong nước và môi trường quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế. Thực
hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng trong bối cảnh hội nhập quốc tế, điều quan
trọng trước hết là hợp tác chặt chẽ trên tất cả lĩnh vực, đặc biệt là giữa quốc phòng,
an ninh và đối ngoại. Các ngành chức năng, trọng tâm là Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng
an và Bộ Ngoại giao cần xây dựng, hoàn thiện quy chế phối hợp, trọng tâm là công
tác nghiên cứu cơ bản, phân tích dự báo chiến lược về tình hình thế giới, khu vực,
chiều hướng diễn biến của mối quan hệ quốc tế, về đối tác, đối tượng của cách
mạng. Từ đó, tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối chiến lược và
các đối sách xử lý thắng lợi các tình huống quốc phịng, an ninh và đối ngoại. Tăng
cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng với các nước, nhất là các nước trong
khu vực và các nước lớn trên thế giới để tăng sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Hải
quân, Cảnh sát biển cần tăng cường giao lưu với các đối tác, tổ chức các hoạt động
phối hợp tuần tra chung, diễn tập, cứu hộ, cứu nạn trên biển, góp phần giữ vững
mơi trường hịa bình, ổn định và triệt tiêu nguy cơ xung đột trên biển.
Năm là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo thiêng
liêng của Tổ quốc. Thực hiện tốt nội dung này, các đơn vị Hải quân, Cảnh sát biển,


×