Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

ÁM ẢNH HÌNH ẢNH – ÁM ẢNH ÂM THANH - ĐÀN GHITA CỦA LORCA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.81 KB, 6 trang )

ÁM ẢNH HÌNH ẢNH – ÁM ẢNH ÂM THANH
Phạm Thị Phương
TÓM TẮT:
Dựa vào đặc tính “chất nhạc bên trong” và một số thủ pháp khác của thơ ca hiện đại, bài
viết là một thử nghiệm tiếp cận với thi phẩm Đàn ghi-ta của Lor-ca của nhà thơ Thanh Thảo –
tác phẩm mới được đưa vào giảng dạy chính thức trong SGK Ngữ văn của bậc THPT.
Bài viết tập trung phân tích khả năng nhập cảm sâu sắc của chủ thể (tác giả Thanh Thảo)
vào thế giới nghệ thuật thơ ca và tâm hồn khách thể (đối tượng – Lor-ca), cho thấy chất nhạc
bên trong của khúc tưởng mộ này đã chuyển tải được cả âm thanh lẫn màu sắc, hình khối –
một chất nhạc bề sâu của cảm xúc, tràn ra ngoài con chữ, - thể hiện những suy nghiệm thâm
trầm về bi kịch và sự bất tử của một cuộc đời tận hiến cho cái đẹp.
Cùng với việc áp dụng lí luận tiếp nhận trong đọc - hiểu văn bản, hướng tiếp cận này sẽ gợi
ý để giáo viên và học sinh dạy và học bài thơ của Thanh Thảo hiệu quả hơn.
1. Nỗi đau Tây Ban Nha
Đã nhiều thập kỉ trôi qua, với vết đau hàng ngày bật máu, Tây Ban Nha vẫn không
nguôi khóc thương đứa con trai tài hoa bạc mệnh của mình: chàng thi sĩ Gac-xi-a Lor-
ca với cây đàn ghi-ta mang điệu hồn xứ sở An-đa-lu-xi-a. Trong cái chết oan khốc ấy
Tây Ban Nha mất mát quá nhiều: ca sĩ trác tuyệt của những khúc hát đồng quê đẫm
màu sắc dân gian phương Đông, nhà tiên phong chủ nghĩa của thơ ca hiện đại pha sắc
phương Tây, bậc cách tân của sân khấu truyền thống Tây Ban Nha, họa sĩ đa tình đa
tài… – dường như mọi loại hình nghệ thuật cổ điển và hiện đại đạt tới độ kinh điển đã
kết tụ ở người nghệ sĩ chỉ kịp tới trần gian 38 năm. Có những cuộc đời mang sứ mạng
thật cao cả và dài lâu mà số mạng lại thật trớ trêu ngắn ngủi với “đường chỉ tay đã
đứt”. Lịch sử Tây Ban Nha quyết định lựa chọn F. G. Lor-ca để trao sứ mệnh thiêng
liêng: tiếp nối truyền thống rạng ngời của M. Xéc-van-tec, F. Quê-vec, L. Vê-ga, tổng
kết, phát triển và cách tân nghệ thuật nước nhà, có ngờ đâu thời đại tàn khốc đã ra lời
phán quyết bắt chàng là con người vắn số. Và Tây Ban Nha giờ đây vẫn hàng ngày
ngồi trước bậc thềm thế kỉ mới mà ngoảnh mặt về phía bờ vực Vi-dơ-na
1
thương khóc
cho nỗi đau mất mát khôn cùng của mình.


2. Ám ảnh của Thanh Thảo
Chàng thi sĩ mắt to rạng ngời sao trời, mái tóc mướt xanh cỏ thảo nguyên cùng cây
đàn ghi ta mang điệu hồn xứ sở An-đa-lu-xi-a vẫn lẩn quất khắp nơi trên đồng ruộng,
núi non quê hương Tây Ban Nha đã thành nỗi ám ảnh trong thi ca thế giới, trong tâm
1
Vi-dơ-na: bờ vực núi ở Gra-na-đa, nơi ngày 19. 8. 1936 bọn phát xít đã đê hèn xử bắn và quăng thi
thể F. G. Lor-ca xuống.
hồn nhà thơ Việt Nam Thanh Thảo. Sự ám ảnh ấy hiện lên bằng âm thanh, hình ảnh
trong thi phẩm Đàn ghi-ta của Lor-ca với lời đề từ bất hủ và thống thiết “Khi tôi chết
hãy chôn tôi với cây đàn ghi-ta”
2
Thanh Thảo trong đời mình nhiều lần đến với văn học Tây Ban Nha, dừng lại rất
lâu, rất bền bỉ ở Gac-xi-a Lor-ca. Ông là bạn thân thiết với dịch giả văn học Tây Ban
Nha Nguyễn Trung Đức, hẳn từng cùng nhau chia sẻ những ám ảnh về thi sĩ tài hoa
ấy, và bản thân ông từng dịch nhiều thơ Lor-ca. Số phận khốc liệt và phẩm chất tài
năng của người nghệ sĩ đất nước “áo choàng đỏ gắt”, những vần thơ mê hoặc của
chàng du mục “trên yên ngựa mỏi mòn” cùng cây đàn, vầng trăng “lang thang về
miền đơn độc” trở thành nỗi ám ảnh, bật lên thành những dòng thơ rực lửa mà bi
tráng, dâng tràn mà miên man không dứt, không một dấu ngắt câu với muôn lần nghẹn
nấc của nhạc điệu cây ghi-ta “li-la li-la li-la”…
2.1. Ám ảnh hình ảnh
Đọc dứt bài thơ mà hình ảnh không dứt: Lor-ca hiện lên trong bài thơ của Thanh
Thảo bằng chính ngôn từ mà người nghệ sĩ Tây Ban Nha tạc họa về mình. Những hình
ảnh thơ ca của Lor-ca đã thấm sâu vào niềm cảm xúc Thanh Thảo, hoà quyện trong
mối tương giao của những tâm hồn nghệ sĩ đồng cảm. Trong sự đồng giao cách cảm
ấy Lor-ca đã hiện về với bản sắc văn hoá xứ sở và với hồn cốt cá tính nghệ sĩ rất riêng
của chàng. Lor-ca đến với cuộc đời trước hết bằng cây đàn ghi-ta biết hát truyền cảm
nhất những khúc dân ca nơi đồng quê An-đa-lu-xi-a. Cây đàn ấy chính là tiếng lòng
người nghệ sĩ:
Ghi ta bần bật khóc

Buổi sáng
vỡ bình yên.
Ghi ta
bần bật khóc.
Không thể nào
dập tắt,
không thể nào
bắt im
(Cây đàn ghi ta – Hồng Thanh Quang dịch)
là hoá thân của sức mạnh nghệ thuật:
Ôi ghi ta
trái tim người tử thương
dưới năm đầu kiếm sắc
(Cây đàn ghi ta)
Như tiên đoán số phận, thi sĩ nhiều lần nói đến cái chết trẻ của mình, của kị sĩ “đi
qua đồng, đi qua gió” giữa một không gian tráng lệ sắc màu tử thần “Con ngựa đen,
2
Đề từ bài thơ Đàn ghi-ta của Lor-ca (Thanh Thảo) là câu đầu bài thơ Ghi nhớ, rút trong tập Thơ
của khúc ca Giôn-đô (Lor-ca).
vầng trăng đỏ/ Cái chết rình rập ta nơi đó”; nhưng dẫu bất trắc có ập xuống bất ngờ,
Lor-ca đã có di chúc đề sẵn: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghi ta” như lời
khẳng định sứ mệnh của mình là trong thi ca. Không phải ngẫu nhiên mà chàng thi sĩ
với cây ghi ta trở thành hình ảnh trung tâm, xuyên suốt bài thơ của Thanh Thảo, thu
hút người đọc đến thế. Hình ảnh ấy hiện lên trong khung nền của xứ sở các đấu sĩ bò
tót can trường và bi tráng “áo choàng đỏ gắt”, của làn điệu dân ca ba-la-đa cổ xưa hát
khúc ca đắng tràn dòng lệ mặn về biển khơi “môi đầy bọt sóng/ xanh thắm hàm răng”,
của kiếp nghệ sĩ đi rong “hát nghêu ngao” như “người mộng du” với “vầng trăng
chếnh choáng” trên con đường lang thang đi về “miền đơn độc”, về dòng sông có cô
gái di-gan với lá bùa huyền bí. Người nghệ sĩ ấy đi ngang qua cuộc đời, gảy khúc đàn
“lá xanh biết mấy” (gợi nhớ Bài ca mộng du của Lor-ca: “Xanh gió, xanh cành/ Con

tàu trên biển cả/ Con ngựa trên núi mờ”…), gảy khúc đàn “tròn bọt nước vỡ tan” (gợi
nhớ Khúc ba-la-đa nước biển: “biển/ xõa cười từ xa tắp/ răng bọt/ môi trời”)… Biết
bao ngọt ngào và cay đắng trong những vần thơ chất ngất tình yêu, chất ngất thất vọng
và hy vọng của người nghệ sĩ sáng tạo trong hạnh phúc của sự cô đơn, được hiện về
trong trường liên tưởng của từ ngữ bài thơ Thanh Thảo.
Tiếng súng Nội chiến Tây Ban Nha (1936 – 1939) vang lên như chẳng hề báo
trước, nó vang lên bằng màu sắc – màu đỏ của máu. Từ màu sắc hào hùng tráng lệ của
“áo choàng đỏ gắt”, Tây Ban Nha “bỗng kinh hoàng” thấy màu máu bi thương tang
tóc “bê bết đỏ” trên tấm áo thi nhân. Đất nước của ngàn cối xay gió, của chàng hiệp sĩ
Đôn-ki-hô-tê ngàn năm lí tưởng nhân văn đang cơn biến động đảo điên. Nếu như hình
ảnhtiếng hát (hiện thân của ca sĩ Lor-ca, của lòng yêu sự sống, của cái đẹp, của chủ
nghĩa nhân văn) vừa đấy thôi còn hoà hợp với hình ảnh áo choàng đỏ (hiện thân của
đất nước Tây Ban Nha với nét đẹp truyền thống), thì giờ nó “bị điệu về bãi bắn” và
màu đỏ áo choàng phút chốc biến thành cái chết (áo choàng bê bết đỏ). Hình ảnh thơ
hàm bao ý nghĩa tượng trưng trong sự so sánh, ẩn dụ, hoán dụ ấy. Lor-ca đi đến cái
chết như vẫn chưa kịp sực dứt mình khỏi cõi đắm say của nghệ thuật:
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
Tiếng đàn ghi ta từng “bần bật khóc”, “không thể nào dập tắt, không thể nào bắt
im” nay “ròng ròng máu chảy”. Thi thể của nhà thơ vĩnh viễn nằm dưới đáy vực sâu
Vi-dơ-na, nào ai có thể chôn cất? Đó là nỗi ám ảnh kinh hoàng của Tây Ban Nha,
thành nỗi ám ảnh trong thơ Thanh Thảo: “giọt nước mắt vầng trăng/ long lanh trong
đáy giếng” (gợi nhớ câu thơ “con thuyền vầng trăng/ xô vỡ quầng mây tím” trong bài
Sáng sớm, hay “Trên gương mặt nước hồ/ nàng Di-gan đong đưa/ một nhũ băng vầng
trăng” trong Bài ca mộng du của Lor-ca). Vầng trăng nơi đáy giếng chính là giọt
nước mắt muôn đời khóc nhà thơ. Lor-ca từng ước mong được chôn cất cùng với cây
đàn ghi ta muôn điệu của mình, nhưng:
Không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
Thân thể Lor-ca có thể mục nát dưới đáy vực Vi-dơ-na, cây đàn của chàng có thể

bị bạo lực đập vỡ nát, nhưng linh hồn và “tiếng đàn” của chàng không ai chôn cất,
muôn đời sẽ hiển hiện, sẽ âm vang, sẽ lan xa, như sức sống mãnh liệt của cây cỏ đơn
sơ mà kiên cường. Khi sống, Lor-ca là ca sĩ “đi lang thang về miền đơn độc”, rong
ruổi khắp miền đồng quê, núi đồi Gra-na-đa hát về niềm vui nỗi buồn của nhân dân
mình; chết đi, tiếng hát được trả về chính nơi nó ra đi, vậy còn gì phù hợp hơn khi để
cho tiếng hát đi hoang ấy hoá thân vào“cỏ mọc hoang” – biểu tượng của thiên nhiên,
những gì thiên nhiên nhất. Đó cũng là tâm nguyện của chính ca sĩ cả đời sống giữa
thiên nhiên, từng nguyện cầu được thiên nhiên bao bọc khi chết:
Khi ta chết
hãy chôn ta với cây đàn ghi-ta
trong cát.
Khi ta chết,
chết giữa bạt ngàn rừng cam
và thơm ngát đồng cỏ.
Khi ta chết
hãy chôn ta
trên một con quay gió.
(Ghi nhớ – Nguyễn Trung Đức dịch)
Từ sâu của đáy giếng, độ “rộng vô cùng” của dòng sông được mở ra, tưởng như sự
ngắt mạch, chắp hình, nhưng thực ra các hình ảnh được liên kết trong một mạch ngầm
suy tư, triết luận. Dòng sông bỗng hiện lên trong thơ Thanh Thảo gợi về một dòng
sông cuộc đời mà Lor-ca từng ngồi bên này bờ :
Tôi ngồi bên bờ sông
Khổ đau như dòng nước
Trôi, trôi mãi không ngừng,
Muôn đời không dừng bước.
(Những khúc ca – Hồng Thanh Quang dịch)
Cây đàn theo Lor-ca suốt chặng đường ngao du trên cõi trần giờ trở thành quan tài
“màu bạc”, thành con thuyền đưa chàng “sang ngang” qua “dòng sông rộng vô cùng”
nơi chàng ném “lá bùa” hết màu nhiệm để về bờ bên kia – bờ của cõi vĩnh hằng. Từ

“ném” từng vang lên trong bài Than thở về cái chết của Lor-ca: “Hãy ném trái chanh
nho nhỏ ấy/ vào gió” như một sự giã từ của thi sĩ khi chấp nhận rằng ai cũng sẽ phải
trở về nơi cát bụi. Chàng chấp nhận “ném trái tim mình/ vào lặng yên bất chợt”, nhưng
tiếng hát không lặng im, nó vẫn cất lời li-la li-la li-la…
Rõ ràng, hình ảnh thi sĩ Tây Ban Nha hiện lên trong thi phẩm nhà thơ Việt Nam
dưới tác động không dứt của những vần thơ Lor-ca mang lại. Những vần thơ đó hoá
thành ám ảnh, thành cơn mê sảng, thành chất men say rồi thăng hoa thành cảm xúc
sáng tạo, mở rộng trường liên tưởng đến tối đa. Và chất nhạc bài thơ cũng thế…
2.2. Ám ảnh âm thanh
Đọc dứt bài thơ mà hình ảnh thơ không dứt. Và bài thơ dứt rồi, âm thanh vẫn ngân
vang, ngân dài – âm thanh của tiếng đàn ghi ta trong khúc ba-la-đa
3
Tây Ban Nha “li-
la li-la li-la”. Âm thanh đó là điệu hồn của ca sĩ du mục Lor-ca đang cất lời đắm say
hát về tình yêu với An-đa-lu-xi-a tươi đẹp, một miền quê thơm nồng sắc nắng, rạng rỡ
mây trời hoa cỏ đồng nội, một miền quê của những con người phóng khoáng tự do
như gió thảo nguyên và cuồng say như con quay gió, biết yêu thương và hờn giận hết
mình. Lor-ca – ca sĩ bậc nhất của An-đa-lu-xi-a! Chàng gắn bó xiết bao với xứ sở của
mình, nơi đã nuôi dưỡng tâm hồn và chuốt những sợi đàn âm thanh cho chàng, và suốt
đời chàng đã gửi điệu hồn mình vào nơi đó. Trong điệu hồn đó ta nghe thấy nhạc điệu
dân gian đồng quê kết hợp với tính nhạc hiện đại của nhà siêu thực – kiểu nghệ sĩ pha
trộn rất huyền diệu hình ảnh tượng trưng vào âm thanh, và bằng cách ấy nhiều khi
thay thế ý nghĩa ngôn từ hiệu quả hơn chính bản thân ngôn từ.
Các nghệ sĩ nhìn thấy nhau không chỉ bằng hình ảnh, mà còn, hơn cả thế, bằng âm
thanh. Trong âm thanh họ nghe thấy tiếng lòng nhau, nghe được những gì mà vỏ bọc
ngôn từ bất lực trong biểu thị nghĩa. Mai-a-cốp-xki không đọc Ê-xê-nin bằng mắt, mà
bằng hiệu lực của âm thanh đưa lại – nghĩa là ông cảm nhận thơ bằng thính giác. Chỉ
một âm rung “đr” trong câu thơ đầy ngạo nghễ của chàng thi sĩ tóc vàng khi giã biệt
một mối tình, Mai-a-côp-ki đã nghe thấy nỗi đau cứa xé lòng. Mà ai dám bảo rằng
Mai-a-cốpxki không ngạo nghễ! Hồng Thanh Quang trong bản dịch của mình Cây

đàn ghi ta đã chuyển tải hộ Lor-ca đến độc giả Việt Nam những âm điệu của đàn khúc
ghi ta, hay đến mức ta không còn cần để ý đến ý nghĩa của ngôn từ nữa mà vẫn thấy
hiểu hết những gì thi sĩ Tây Ban Nha gửi gắm. Vì lòng yêu Lor-ca, ám ảnh và đắm say
những nốt nhạc được tỉa bằng ghi ta “bần bật khóc” nên tác giả bài thơ Đàn ghi ta
của Lor-ca cũng bất giác cất lời cảm xúc về chàng bằng chính nhạc điệu của chàng.
Bài thơ của Thanh Thảo là sự kiên kết của chuỗi dòng cảm xúc không ngừng lại
được bởi dấu ngắt câu, gồm nhiều âm vực, lúc thư duỗi như cung đàn luyến láy với
với âm thanh mô phỏng tiếng đàn, với những từ láy, (li-la li-la li-la/ đi lang thang về
miền đơn độc/ với vầng trăng chếnh choáng/ trên yên ngựa mỏi mòn), lúc đầy tiết tấu
gắt, ngắn, mạnh (Tây Ban Nha/ hát nghêu ngao/ bỗng kinh hoàng/ áo choàng bê bết
đỏ), rồi xen vào tiết tấu ấy là sự ngân dài một nốt trầm (Lor-ca bị điệu về bãi bắn/
chàng đi như người mộng du). Nốt trầm chưa dịp dứt độ ngân sâu lắng của mình thì
một loạt các âm thanh trào dâng lên, biểu thị bằng độ nhấn những từ “tiếng” (tiếng ghi
ta nâu/ bầu trời cô gái ấy/ tiếng ghi ta lá xanh biết mấy/ tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ
tan/ tiếng ghi ta ròng ròng/ máu chảy). Những “tiếng” của âm thanh chở tải hình ảnh,
mở rộng trường nghĩa của âm thanh – âm thanh của khúc đàn say mê xưa và âm thanh
của phút kinh hoàng hiện tại, âm thanh của tình yêu, của cái đẹp và âm thanh của cái
chết, nỗi đau. Tất cả các cung bậc ấy là chất nhạc bên trong của cảm xúc, tràn ra ngoài
con chữ.
3
Ba-la-đa: tên gọi một làn điệu dân ca có nguồn gốc từ Bắc Tây Ban Nha, gồm nhạc và lời rất trữ tình
dùng để nói về những sự kiện xa xưa và huyền bí, được mở đầu và kết thúc bằng cùng một khổ thơ hay
một câu thơ.
Cấu tứ của bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca gợi sự liên tưởng đến thể thơ tự do mà
Lor-ca yêu thích và thể hiện rất thành công, nó còn mang dáng dấp khúc ba-la-đa nơi
quê hương Lor-ca: giàu chất tâm tình và triết lí, gắn kết câu chuyện xa xưa với cảm
xúc hôm nay, được mở đầu và kết thúc bởi cùng âm thanh luyến láy mô phỏng tiếng
đàn, làm cho bài thơ vừa như có cấu trúc vòng tròn, vừa như mở ra tiếng ngân nga,
ngân nga, vừa như sự hồi tưởng, liên tưởng của điệp khúc ngân trong đầu độc giả.
Lor-ca chấp nhận “ném trái tim mình/ vào lặng yên bất chợt”, nhưng tiếng hát không

lặng im, nó vẫn cất lời li-la li-la li-la… , bởi vì:
không ai chôn cất tiếng
đàn tiếng đàn như cỏ mọc hoang
bởi vì:
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
bởi vì nó là:
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy

Cứ thế, ám ảnh về hình ảnh, ám ảnh về âm thanh của Lor-ca đã làm nên bài thơ
tiếng Việt của Thanh Thảo. Đến lượt mình, bài thơ bắt đầu ám ảnh chúng ta…

×