Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Các nền văn minh Thế giới Sự phát triển của nền văn minh ở Trung Đông và châu Phi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.02 MB, 12 trang )

Chương 2

Sự phát triển của nền văn minh ở

Trung Đông và châu Phi
 Nền văn minh ở Mesopotamia ( vùng đất Lưỡng Hà )
 Hình dung quá khứ : Mesopotamia trong các bản đồ
 Tư liệu : Bộ luật của Hammurabi
 Ai Cập cổ đại
 Suy nghĩ về mặt lịch sử : Phụ nữ trong các xã hội gia trưởng

ì sao Mesopotamia và Ai Cập - các xā hội vốn có quan hệ mật thiết về mặt địa lý và thình
thoảng có mối liên lạc với nhau - lại khác nhau nhiểu đến vậy trong cách đổi xử của họ
với phụ nữ?

V

Nền văn minh thuở ban đầu ở Mesopotania nhấn mạnh sự kiểm soát của nam giới đối với
phụ nữ.. Luật pháp đòi hỏi phụ nữ phải là trinh nữ lúc kết hơn và áp đặt các hình phạt
nghiêm khắc đối với những phụ nữ có hành, vi sai trái về tình dục. Mục tiêu rō ràng của
những luật lệ như thế là để bảo đảm rằng mọi người đàn ông đểu biết rằng anh ta là cha
của đứa con của vợ mình, và do đó có thể cảm thấy thoải mái khi để lại tài sản cho chúng.
Vào thiên niên kỷ thứ ba truớc Công nguyên, chồng người Mesopotomia đã che mặt vợ
mình khi kết hơn. Theo tiếng Akkadia (Ah-KAYD-ee-un), từ để chỉ việc che mặt này giống
như từ để chỉ việc đóng cửa, vì mạng che mặt đuợc thiết kế để bảo vệ danh giá của nguời
vợ giống như các bức tường của ngôi nhà. Danh giá gia đình phụ thuộc vào sự kiểm sốt
nghiêm khắc hành vi tình dục của người phụ nữ, trong khi đối với nam giới nó dựa vào
thành tích hoạt động và (đối với tẩng lớp thượng lưu) và các nghīa vụ công. Các góa phụ là
người phụ nữ duy nhất được phép kiểm soát bất cứ tài sản nào.
Ở Ai Cập, phụ nữ cūng bị xem là thấp kém, và nhiều tác giả đã hối thúc nam giới duy trì sự
kiểm sốt phụ nữ trong gia đình của họ, nhưng phụ nữ Ai Cập có phạm vi hoạt động được


cho phép rộng hơn nhiều. Nhiều nữ hoàng đã nắm giữ quyển lực lớn lao. Nữ hoàng Nefertiti
(neh-fer-TEE-tee), ở nửa đầu của thế kỷ 14 trước Cơng ngun, nổi tiếng vì sắc đẹp nhưng
cūng vì vai trị của bà trong những cuộc cải cách tơn giáo. Phụ nữ và nam giới có quyển
bình đẳng ở thế giới bên kia; cả hai đều có thể trở thành các vì sao trên trời, là một cách


mà nguời ta hình dung về thế giới bên kia. Trong gia đình nào khơng có con trai thì con gái
chịu trách nhiệm thực hiện các tập quán tôn giáo của gia đình. Khơng giống như hẩu hết
mọi nền văn minh ban đầu khác, kể cả Mesopotamia, Ai Cập không có tập tục giết bé gái
sơ sinh-một tập tục được tạo ra như là một hình thức kiểm sốt sinh sản và thể hiện giá trị
lớn hơn của con trai.
Các nền văn minh đầu tiên - chủ đề của chương này - giới thiệu nhiều thay đổi quan
trọng trong cuộc sống của con người. Chúng đã làm cho các hệ thống gia trưởng trở nên
chính thức hơn, trân trọng sự u tri ỗa nam gii bng lut phỏp v ngh thuật cũng như
cơ cấu chính phủ. Nhưng mỗi nên vān minh thời kỳ đầu cũng tạo ra một dấu ấn đặc biệt
lên các khía cạnh cơ bản của cuộc sống. Điểu này chính thức hóa một q trình mà qua đó
các xã hội lớn có được những đặc điểm khác biệt. Thậm chí các hệ thống về giới cũng thay
đổi, phụ thuộc vào các giá trị văn hóa đặc biệt và những dàn xếp chính trị. Những khác biệt
trong cách thức mà chế độ gia trưởng được thực hiện đã giúp tạo ra bản sắc của mỗi nền
văn minh. Những khách du lịch đầu tiên sẽ nhận thấy cách mà phụ nữ ở Ai Cập được đối
xử hơi khác biệt, so với Mesopotamia. Các tập tục đặc biệt về giới cūng có thể lâu bền, kéo
dài vượt xa chính bản thân nền văn mình đẩu tiên đó. Bối cảnh của người phụ nữ ở Trung
Đơng vẫn cho thấy vết tích của những cách thức lần đầu tiên được đưa vào ở Mesopotamia.

Hình 2.1 Chi tiět này lấy từ nghệ thuật bia mộ của nguời Ai Cập cho thây một đôi vợ chồng đang thu hoạch ngũ cốc.Như được
qui định bởi các giá trị gia truởng, người chồng dẫn dầu trong công việc và người vợ theo sau . nhưng ở Aị Cập, không giống
như Mesopotamia, nam và nữ được mô tả làm việc cùng nhau.

CÁC NỀN VĂN MIMH ĐẦU TIÊN Ở MESOPOTAMIA



Những ảnh hưởng tích lũy của nơng nghiệp, sau đó là làn sóng thay đổi cơng nghệ khoảng năm
4000 trước Công nguyên, đã tạo ra nền văn minh như một hình thức tổ chức mới. Các thành tựu
của Sumer làm sáng tỏ các yếu tố văn minh dưới dạng một hình thức những tổ chức của con người.
Mặc dù khơng phải tất cả các nền kinh tế nông nghiệp cuối cùng đều sẽ tạo ra các nền văn
minh, nhưng phần nhiều thì như vậy, và quá trình này đã bắt đầu ở Trung Đông. Các công nghệ
như bánh xe, việc sử dụng đồng thau và chữ viết đã tạo thuận lợi cho việc truyền bá văn minh. Ví
dụ, chữ viết đã dẩy mạnh chế độ quan lại chính thức và kiểu sổ sách vān bản hữu ích cho hoạt
động thương mại. Đồng thau đã tạo ra nhiểu vũ khí chết người hơn, có ích cho việc chinh phục.
Nó địi hỏi phải có những hình thức sản xuất chun mơn mới. Đồng thau cũng đỏi hỏi phải có
việc mua bán qua đường dài hơn để tìm kiếm đồng đỏ và thiếc. Các thương gia Trung Đông cuối
cùng đã đi xa tận Anh và Afghanistan để tìm kiếm các tài nguyên. Cuối cùng, việc tưới tiêu dọc
theo các thung lũng sông lớn, rất quan trọng để có năng suất nơng nghiệp caọ hơn, đã thúc đẩy
các loại cơ cấu tổ chức mới để phối hợp qui trình này, và các luật lệ mới để phân ranh giới đất đai.
Nền văn minh của Mesopotamia đã đi tiên phong cho những hình thức
văn minh cơ bản, từ một nền kinh tế đô thị đến chữ viết. Các cuộc xâm
lăng thường xuyên đã góp phần vào các hệ thống tín ngưỡng tơn giáo
và chính trị riêng biệt.

Người Sumer
Sumer, nền văn minh thung lũng sông đầu tiên, đã sử dụng các dịng sơng nhưng
cũng sợ chúng. Những trận lụt lớn đã xảy ra. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện những
chỗ mà một thành phố của người Sumer được xây dựng bên trên một trong những thành
phố trước đó, tách biệt nhau bởi một lớp bùn vốn đã quét qua trong một trận lụt. Những
bảng đất sét chứa đựng“quyển sách" đầu tiên của người Sumer kể lại câu chuyện về
việc các thần linh đã quyết định quét sạch nhân loại bằng một trận lụt như thế nảo. Chỉ
một người đàn ơng, với gia đình và những động vật của ông, được cứu sống. Tên ông
không phải là Noah, mà là UItnapishtim.
Nền văn minh đầu tiên xuất hiện ở vùng phía đơng bắc của nơi mà ngày nay gọi là Trung
Dông, dọc theo sông Tigris và Euphrates dẫn đến Vịnh Ba Tư(bản đồ 2.1). Giữa các đổi phía bắc

và các sa mạc của bán đảo A Rập, chạy từ bờ biển Địa Trung Hải đến các vùng đồng bằng của
sông Tigris và Euphrates, là một vùng đất lớn có thể trồng trọt gọi là Fertile Crescent (vùng lươi
liềm màu mở). Các sông chảy tràn bờ vào mùa xuân, lắng đọng đất màu mở khi nước sông rút
xuống. Lượng mưa khơng nhiều lắm, vì vậy khi áp lực dân số tăng do nền nông nghiệp thuở ban
đầu, các cộng đồng nơng nghiệp bắt đầu tìm cách chế ngự và sử dụng các dịng sơng qua những
mương tưới tiêu. Với các dụng cụ cải tiến của Thời kỳ đồ đồng, vùng này đã có những phát triển
rất nhanh. Vùng Tigris-Euphrates màu mở đã tạo ra những lượng lương thực thặng dư lớn, thúc
đẩy phát triển dân,số và mở rộng làng xã cũng như sợ gia tăng mậu dịch và chun mơn hóa cơng
việc. Vùng này dễ bị tổn thương về một khía cạnh: quá bằng phẳng khiến cho nó mở ngỏ trước sự
xâm lược.
Sự thúc đẩy cuối cùng hướng về việc thành lập nền văn minh là do người Sumer, một dân tộc
đã di cư vào vùng này từ phía bắc vào khoảng năm 4000 trước Cơng ngun. Họ đã định cư ở một


vùng rộng khoảng 700 dặm vng, ở đó họ hịa hợp với những người dân khác ở địa phương theo
một mơ hình vẫn cịn giữ lại những đặc điểm của vùng. Người Sumer đầu tiên đã phát,triển các
trung tâm tôn giáo, hành hương và thờ phụng.Trước năm 3000 trước Công nguyên, nhiều trung
tâm này tự hào về những đền đài bằng gạch bùn được trang trí cơng phu. Người Sumer chịu ấn
tượng về sức mạnh của các ác thần, vị thần họ tin rằng cuối cùng kiểm soát tối hậu số phận con
người. Chính người Sumer đã giới thiệu hệ thống chữ viết đầu tiên, vượt trội những phát triển vốn
đã tạo ra nền văn minh Mesopotamia. .

Bản đồ 2.1 Sumer thuở ban đầu. Nên văn minh này mở rộng dọc theo sông Tigris uà Euphrates.


7000 truớc CN
7000-4000: Sự lan rông nông

3000 trước CN


4000 trước CN
3500: Bảng chữ cái dấu

2700-2200: Thời Kỳ Cố Triều, Ai Câp
2400-2200: Đế quốc Akkadian chinh

nghiệp qua phần lớn Trung Đông

tiên của nguời Sumer

5000: Nghề nông phát triển

3100-2700:Các vương

phục Sumer

dọc theo sơng Nile

quốc đẩu tiên ở

2052-1786: Thời kì Vương Quốc

4000: Người Sumer định cư ở

Mesopotamia và Ai Cập

Trung Triều; nến văn minh lan rộng

thung lūng Tigris và Euphrates


3000: Bắt đẩu sử dụng

đến vùng thuơng lưu sông Nile với

các dụng cụ bằng đổng

vương quốc Kush

thiếc

2000:Bang Phoenician
2000: Sử thi Gilgamesh được viết

2000 trước CN

1000 trước CN

1 sau CN

1800: Đế quốc Babylon; Hummurabi,

800: Bắt đẩu viết Kinh

100 sau CN: Sự suy

1796-1750: Sự xâm ludc của Hyksos

thánh

1600: Nền văn minh Mino (Crete)


730: Kushite cai trị Ai

1600: Có thể có sự định cư của nguời Do Thái ở

Cập

phía Đơng nam Địa Trung Hải

721: Cuộc xâm luợc

1575-1087: Thời kỳ Tân Triều, Al Cập
1400-1200: Đế quốc Hittite; sử dụng sắt

chinh phuc bắc Israel
của nguòi Assyia
665-617: Để quốc

1250: Cuộc di cư của Moses và nguời Do Thái rời
Assyria
khỏi Ai Cập
539:Đế Quốc Ba Tư
1100: Truyền bá viêc sủ dụng sắt
1000-970 : Vương quốc Israel dưới triều David
1000: Vương quốc độc lập của Kush
1000: Cuộc xâm lăng Hy Lạp của nguời Ấn -Âu
1000: Sự mở rộng các khu định cư của nguời
Phoencia ở phía tây Đia Trung Hải

tàn của Kush và thủ

phủ Meroe của nó


Tổ chức chính trị và xã hội của người Sumer

Nền văn hóa của người Sumer vẫn nguyên vẹn cho dến khoảng năm 2000 trước
Cơng ngun. Tổ chức chính trị của nó dựa trên một kiểu các thành bang được tổ chức
chặt chẽ mà trong đó một vị vua thành bang, người có quyền lực cao nhất, cai trị vùng
đất nơng nghiệp nội địa. Trong một số trường hợp, các hội đồng dịa phương làm có vấn
cho vua. Một trong những chức năng của các thành bang Sumer là để xác định các
đường ranh giới, không giống như các lānh thổ ít chính thức hơn của những làng mạc
tiền văn mình trong vùng. Mỗi thành bang giúp điều tiết tôn giáo và thực thi các nhiệm
vụ của nó. Nó cūng đưa ra một hệ thống tịa án cơng lý. Các vị vua là những chiến binh
lānh đạo quân đội được huấn luyện để phòng vệ, và chiến tranh vẫn rất quan trọng trong
nền chính trị của người Sumer, ở đó chiến tranh ẩn hiện mờ mờ.Các vị vua và thầy tế
kiểm sốt nhiều đất đai. Các nơ lêk, những nguời đã bị chinh phục trong các cuộc chiến
với các bộ lạc lân cận, làm việc trên vùng đất này.
Tổ chức chính trị và xã hội của người Sumer thiết lập các truyền thống tồn tại lâu dài
trong vùng. Chính phủ thành bang đã thiết lập một truyền thống cai trị vùng, đôi khi chịu
nhượng bộ những đế chế lớn hơn nhưng thường được bầu như một hình thức tổ chức
chính. Nhiều nền văn mình tiếp theo cũng dựa vào lực lượng lao động nô lệ. Việc sử dụng
nô lệ và thiếu những rào cản tự nhiên để chống lại sự xâm lăng glúp giải thích cuộc chiến
tái diễn đều đặn, đây là điều cần thiết để cung cấp lao động ở hình thức nơ lệ bị bắt giữ.
Người Sumer, nhờ có sự ổn định chính trị và việc sử dụng chữ viết, đã làm tăng thêm sự
thịnh vượng kinh tế của vùng. Các nông dân đã học cách trồng cây chà là, hành và tỏi. Bò được
dùng để kéo cày, và dùng lừa để chở hàng hóa. Các xe có bánh giúp ích cho việc vận chuyển
hàng hóa. Người Sumer đã giới thiệu việc dùng phân bón và chấp nhận bạc làm phương tiện
trao đổi để mua bán. Các thành phố lớn đã mở rộng - một thành phố có dân số đạt hơn 70.000 với những dãy đơn vị nhà ở chắc chắn gồm những cửa hàng và căn hộ bằng gạch bùn, mái bằng.
Phổ biến hơn, là những thành phố chứa đến 10.000 người. Người Sumer đã cải tiến bàn xoay
gốm, và việc sản xuất đổ gốm đā mở rộng. Được khích lệ bởi kỹ năng và tầm quan trọng của đồ

gốm ngày càng tăng, nam giới đā giành lấy nghề này từ những người phụnữ. Người Sumer cũng
phát mình ra thủy tinh. Thương mại để mở rộng sang vịnh Ba Tư ở phía dưới và về vùng phía
tây của Trung Đông dọc theo Địa Trung Hải. Vào năm 2000 trước Cơng ngun, người Sumer
đã có những mối tiếp xúc mậu dịch với Ấn Độ.
Văn hóa và tơn giáo của người Sumer
Chữ viết, phát minh quan trọng nhất giữ phát minh nông nghiệp và thời kỳ của động cơ hơi
nước, đã được đưa ra vào khoảng năm 3500 trước Cơng ngun. Việc phát minh chữ viết của
nguời Sumer có thể khá đột ngột. Nó dựa vào các nhu cầu mới để có những ghi chép hồ sơ chính
trị và tài sản thương mại, bao gồm việc tán dương những kỳ công của các vị vua kiêu hãnh ở địa
phương. Truớc chữ viết là phát minh con dấu hình trụ bằng đất sét mà trên đó các hình ảnh nhỏ
của các đồ vật có thể đúc ghi lại. Chú viết đầu tiên của người Sumer phát triển từ những hình
ảnh đó nên trên những bảng đất sét nung, và đúc chuyên thành các ký hiệu rồi dần dần biến đổi


thành các thành phần ngữ âm.Bảng chữ cái đầu tiên của nguời Sumer,một bộ các ký hiệu tượng
trưng cho các âm, có thể có lên đến 2000 ký hiệu phát sinh từ các hình ảnh đầu tiên đó. Chẳng
bao lâu các tác giả đã bắt đầu dùng các ký hiệu trừu tượng hơn để tượng trưng cho các âm, cho
phép người Sumer rút gọn bảng chữ cái xuống còn khoảng 300 ký hiệu.
Hình 2.2 và 2.3 minh họa một ví dụ về chữ viết của họ và bản dịch.

Hình 2.2 Một trong những công dụng đầu tiên của chữ viêt là để đánh dấu ranh giới đất đai. Hình này cho thấy chữ viết
hình nêm trên bản đồ của nguời vùng Lưỡng Hà từ khoảng năm 1300 truớc Công nguyên. Bản đồ này tập trung vào việc
xác định vùng đất của vua, với các phần dành cho thầy tế và dành cho các thần linh chinh như Marduk. Chữ viết đã cải
thiện các bản đồ đất đai theo những cách nào?


Hình 2.3 Bản dịch của bản đồ được minh họa ở
hình 2.2

Các tác giả người Sumer đã dùng những que hình nêm để khắc các ký hiệu lên những

bảng đất sét. Chữ viết được tạo ra gọi là cuneiform (kyoo-NAY uh-form, nghīa là “hình
nêm”), và nó được sử dụng trong vài ngàn năm ở Trung Đông cho nhiều ngôn ngữ khắc
nhau. Chữ hình nêm khó học, vì vậy hững người chuyên chép thuê đā giữ độc quyền nó.
Người Sumer tin rằng mọi vật trong tự nhiên đều sẽ có một tên riêng để bảọ đảm vị trí
của nó trong vū trụ; việc biết được tên gọi cho người ta một sức mạnh nào đó đối với vật
đó. Chữ viết đā nhanh chóng đảm nhiệm các mục đích tơn giáo, cho phép nguời ta đặt
một trật tự trừu tượng đối với thiên nhiên và thế giới xã hội.
Vào khoảng năm 2000 trước Công nguyên, người Sumer đã viết ra câu chuyện xưa nhất thế
giới, sử thi về Gilgamesh, vốn đã tồn tại ở dạng truyền miệng vào khoảng đầu thiên niên kỷ thứ
7 trước Công nguyên. Gilgamesh được miêu tả như là vị vua của một thành bang, là vị anh hùng
đầu tiên trong vǎn học thế giới. Bản anh hùng ca này cũng miêu tả vụ lũ lụt lớn. Giọng điệu
chung của bản anh hùng ca này và của nên văn hóa Sumer (có lẽ là phản ánh những vụ lù lụt
thường xuyên gây tai hại trong vùng) thì buồn rười rượi Gilgamesh đã có những kỳ cộng vĩ đại
nhưng luôn luôn vấp phải những luật lệ sắt đá của thần linh, những người kiểm soát cuối cùng
số phận con người.
Các vị anh hùng, những con người khôn ngoan, giống như trǎng khi tròn khi khuyết.
Người ta sē, “Ai đā từng cai trị bằng sức mạnh và quyền lực giống như Gilgamesh?"
Như trong tháng tối tǎm, tháng của bóng đêm; nếu khơng có chàng thì sẽ khơng có
ánh sáng. Gilgamesh hôi, đây là ý nghīa giấc mơ của chàng. Chàng đã được cho vương
quyền, số phận của chàng như thế; cuộc sống bất tử không phải là số phận của chàng
.. Gilgamesh ơi, sao chàng lại tìm kiếm làm chi? Cuộc sống mà chàng tìm kiếm chàng
sē khơng bao giờ tìm được. Khi các vịthẩn tạo ra thế giới này, họ đã làm cho cái chết
trở thành một phẩn trong số phận con người rồi.

Cùng với văn học thuở ban đầu nghệ thuật và khoa học của người Sumer đã phát triển đều
đặn. Các bức tượng và bích họa đã tô điểm các đền đài của các vị thần, và tượng của các vị thần
đã trang trí nhà cửa. Người Sumer tìm tịi để hiểu biết thêm về sự chuyển động của mặt trời và
các vì sao, từ đó lập nên khoa học về thiên văn. Họ cũng muốn cải thiện kiến thức toán học của
họ. Hệ thống số của người Sumer, dựa trên các đơn vị là 12, 60 và 360, là hệ thống mà ngày nay
chúng ta sử dụng trong các phép tính liên quan đến các hình tròn và giờ giấc. Các biểu đổ của

người Sumer về những chịm sao chính đã được sử dụng trong 5000 năm ở Trung Đông, và qua
sự mô phỏng sau này đã được sử dụng ở Ấn Độ và châu Âu. Nói cách khác, người Sumer và


những người kế tục họ ở Mesopotamia đã tạo ra các mơ hình quan sát và tư duy trừ tượng về
thiên nhiên mà nhiều xã hội sau này, kể cả xã hội của chúng ta, vẫn cịn dựa vào đó.
Tơn giáo đóng vai trị rất quan trọng trong văn hóa và chính trị của người Sumer. Thần linh
được liên hệ với nhiều lực lượng thiên nhiên khác nhau. Đồng thời, thần linh được xem là có
hình dạng con người và nhiều đặc điểm trong số những đặc điểm khó chịu hơn của con người.
Vì vậy, thần linh thường cãi nhau và dùng quyền lực của họ theo một cách ích kỷ và trẻ con, và
điểu này đã tạỏ ra những câu chuyện lý thú nhung cũng gây ra mối lo sợ rằng thần linh có thể
khiến cho cuộc sống khó khăn. Sắc thái u ám của tôn giáo Sumer cũng bao gồm một thế giới
bên kia của sự thống khổ, một dạng khái niệm ban đầu là địa ngục. Vì người ta tin rằng các thần
linh điều tiết các lực lượng thiên nhiên, như lũ lụt,·trong một vùng nơi thiên nhiên thường khắc
nghiệt và khó đốn, các vì thần đámh sợ hơn là đáng yêu, Quyền lực của các giáo sī xuất phát
từ trách nhiệm của họ trong việc xoa dịu các vi thần qua lời cầu nguyện, hiến tế vá phép thuật,
Các thầy tế đã trở thành những chuyên gia làm việc trọn thời gian để quản lý các đền đài và thực
hiện các phép tính thiên văn về những ngày tháng có ngập lụt bình thường là điều cần thiết cho
việc quán lý các hệ thống tuới tiêu.
Mỗi thành phố đều có một vị thần hộ mệnh và đã xây dựng các miếu thờ ấn tượng để tôn
thờ vị thần đó và những thán thánh khác. Các tháp to lớn, gọi là ziggurat (ZIGG-uh-rat), hình
thành kiến trúc tượng đài của nền văn minh này. Lời cầu nguyện và đổ cúng để ngăn lũ lụt và
bảo vệ sức khỏe tốt là một phần rất quan trọng của cuộc sống người Sumer. Thuyết vật linh
(Animism) (AH-nuh-mih-zum) - ý tưởng cho rằng sức mạnh thần thánh nằm bên trong những
vật tự nhiên chẳng hạn như sông, cây cối và núi - phổ biến giữa các dân tộc nông nghiệp. Người
Sumer cūng phát triển các niềm tin tôn giáo cụ thể về sự sáng tạo trần gian của các vị thần từ sự
hỗn loạn của nước và về sự trừng phạt của thần linh thông qua các trận lụt. Những niềm tin này
tiếp tục ảnh hưởng đến các nền văn hóa của người Do Thái, Ki tô giáo và Hồi giáo, tất cả những
nền văn hóa này đã ra đờí trễ hơn nhiểu ở Trung Đông.
Các hoạt động thương mại và chiến tranh của người Sumer đã lan rộng ởTrung Đông.

Nhiều phần trong câu chuyện về Gilgamesh đã xuất hiện trong văn học sau này như Kinh thánh
Do Thái giáo, vốn đã phát triển mạnh ở phía tây của Sumer. Thậm chí sau khí Sumer sụp đổ,
ngơn ngữ Sumer vẫn được dùng trong các trường tôn giáo và đền thờ, cho thấy sức mạnh của
nền văn hóa đầu tiên này và sự chú trọng rõ rằng về tơn giáo của nó.

Vǎn minh có ý nghĩa gì ở Sumer
Các thành tựu của Sumer minh họa các thành phần của nền văn minh,một hình thức tổ chức
của con người. Một số sử giả đưa ra định nghĩa cơ bản nhất: các nền văn minh có các giá trị
thāng dư kinh tế lớn hơn các hình thức xã hội khác. Chắc chắn điều này đúng đối với Sumer,
vốn lấy làm kiêu hành là một nến nơng nghiệp phong phú có khả năng chu cấp thiểu số những
nguời lao động chuyên môn cũng với các giáo sī và viên chức chính phủ.
Nền vǎn minh Luỡng Hà ban đầu cũng có thể được sử dụng để bổ sung cho một định nghĩa
phức tạp hơn mà các sử gia khác ưa chuộng. Trước tiên, nên văn minh Sumer tạo ra một bang
hay chính phủ dược xác định rị ràng, thay thế các cộng đồng đuợc tổ chức lỏng lẻo hơn nhiều
của những xã hội nơng nghiệp trước đó. Thứ hai, nền văn mình bao hàm sự hình thành các thành
phố vượt ra ngoài giới hạn của các trung tâm riêng biệt nằm rải rác nhưJuricho, Nền kinh tế về


cơ bản vẫn là kinh tế nơng nghiệp, và ít nhất 80% tổng số dân vẫn sống ở miền quê (điều này
đúng ở tất cả các nên văn minh cho đến cách dây 200 nǎm). Nhưng các thành phố thì có tính
quyết đinh trong việc thúc đẩy mậu dịch, sản xt chun mơn hóa hơn và trao đổi ý tưởng
.Đồng thời, các thành phố phụ thuộc vào một nền kinh tế khu vực có tổ chức tốt để có thể cung
cấp lương thực cho các vùng đô thị và phụ thuộc, và một chính phủ có khả năng quản lý các
dịch vụ thiết yếu như mội hệ thống tòa án để giải quyết các tranh chấp.
Tầm quan trọng của chữ viết
Chữ viết là một đặc điểm quan trọng khác cuả người Sumer và hầu hết các nền văn minh
khác. Mặc dù các xã hội phức tạp có thể phát triển mà khơng có chữ viết, nhưng hệ thống truyền
thơng mới có những hệ quả khác nhau. Các xā hội có chữ viết có thể tổ chức sổ sách phức tạp
hơn, bao gồm các danh mục cần thiết cho một hệ thống thuế có hiệu quả, Chữ viết là điều kiện
tiên quyết cho hầu hết các hệ thống quan lại chính thức, phụ thuộc vào việc truyền thơng được

chuẩn hóa và khả năng duy trì hồ sơ, sổ sách. Các xã hội có chữ viết có thể ghi lại dữ liệu và
dựa vào những khám phá trước đó, vì vậy tạo ra một cuộc sống trí tuệ tinh tế hơn. Ví dụ, không
phải ngẫu nhiên mà, với chữ viết, một nền văn minh đẳu tiên như Mesopotamia bắt đầu tạo ra
kiến thức khoa học chính thức hơn. Các, xã hội trước khi có sự phát triển chữ viết thường phụ
thuộc vào những xaga mang tính chất thơ để truyền đạt những hệ thống giá trị của họ; thơ nhằm
giúp ghi nhớ. Có chữ viết, tầm quan trọng của các xaga như sử thi Gilgamesh đã tiếp nối, nhưng
sự đa dạng của những biểu hiện văn hóa đã gia tăng và các hình thức văn học khác bổ sung cho
những sử thi có vần, điệu.
Chữ viết cũng thúc đẩy mậu dịch và sản xúất. Các thương gia người Sumer dùng chứ viết
để giao tiếp với các đối tác làm ăn của họ ở những nơi như Ấn Độ. Các hổ sơ ghí chép giúp giữ
gìn kiến thức về sản xuất. Một trong những công dụng được ghi chép đầu tiên của chữ viết
Sumer là truyển lạr một công thức sản xuất bia.
Chữ viết cũng tạo ra những sự phân chia mới trong dẫn số của các nền văn minh đầu tiên.
Chỉ một phẩn nhỏ thiểu số gồm những người như giáọ sī, người chép th và một số ít thương
gia mới có thời gịan để nắm vững chữ viết.
Nền văn minh: những cái được và cái mất
Nền văn minh không nhất thiết phải tiến bộ, và nó mang lại những cái mất cūng như những cái
được. Nền văn minh cần sự đánh giá cẩn thận, so với các xā hội khi mà hình thức tổ chức con
người này chưa được phát triển. Khi Trung Đông tiến đến văn minh, những sự phân biệt dựa
trên tầng lớp xã hội và sự giàu có đã gia tăng. Rõ ràng trường hợp này đúng ở Sumer, ở đó cấu
trúc xã hội được xếp loại từ các nô lệ, những người bị đổi xử như là tài sản, đến các vị vua và
giáo sī có quyển lực. Các nên văn minh cũng thường tạo ra những bất bình đẵng lớn giữa nam
giới và nữ giới hơn những xã hội không văn minh.

Ngược lại, các xã hội không văn minh thường được điều tiết tốt, với những nền vân hóa
quan trọng, thú vị. Một số xã hội khơng văn minh , bao gồm nhiều nhóm người Intuit, đặc biệt
thành công trong việc tránh sự nổi giận và gây hấn trong các vụ việc của con người. Ngược lại,
nhiều xã hội văn minh, bao gồm xã hội của người Sumer, đánh giá cao hành ví gây hấn và xem



các phẩm chất chiến tranh như là ưu điểm. Các nền văn minh thậm chí khơng thúc đẩy hạnh
phúc của con người một cách rõ ràng.
Tuy nhiên, thật sự thì sự phát triển nền văn minh đã không tạo ra các khả năng mới về
cơng nghệ, văn hóa và chính trị. Theọ ý nghĩa hạn hẹp này, thuật ngữ“nền văn minh” có ý nghīa
và khiến hầu hết các sứ giả phải chú ý. Vì sức mạnh về sự rực rỡ mà các nền văn minh có thể
đạt tới, chúng có khuynh hướng lan rộng khi các xã hội khác chịu ảnh hưởng của chúng hoặc cố
ý bắt chước các thành tựu của chúng. Tuy nhiên, các nền văn minh đầu tiên lan rộng chậm vì
nhiều dân tộc khơng tiếp xúc với chúng và vì những bất lợi của chúng, như sự bất bình đẳng xã
hội lớn hơn, thưởng có vẻ như đáng ghét.

Cảm ơn bạn đã đọc. Hãy cố gắng học tập thật tốt nhé !
Donate ủng hộ tôi MB Bank : 0762749066 LE THANG HUY




×