Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 GIẢI TOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.96 KB, 17 trang )

1

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỈM SƠN

TRƯỜNG TIỂU HỌC NGỌC TRẠO

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3
GIẢI BÀI TỐN BẰNG HAI PHÉP TÍNH

Người thực hiện: Trần Anh Vân
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Tiểu học Ngọc Trạo
SKKN thuộc lĩnh vực (mơn): Tốn

BỈM SƠN NĂM 2021


2
MỤC LỤC
Trang
1. MỞ ĐẦU...........................................................................................................1


1
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Toán học là khoa học nghiên cứu một số mặt của thế giới hiện thực, có
một hệ thống kiến thức cơ bản và phương pháp nhận thức rất cần thiết cho việc
học môn khác. Mơn tốn có khả năng giáo dục nhiều mặt: phát triển tư duy


logic, rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp giải quyết vấn đề có căn cứ
khoa học. Góp phần phát triển trí thơng minh, tư duy độc lập, sáng tạo, giáo dục
ý chí và những đức tính tốt như cần cù, nhẫn nại, ý thức tự giác. Mơn tốn ở tiểu
học là một mơn học chiếm một vị trí quan trọng. Từ thực tế cuộc sống, địi hỏi
đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện cho HS tiểu học để các em có được kĩ năng
và phẩm chất cơ bản hòa nhập kịp vào thực tế cuộc sống.
Toán ở cấp tiểu học là cơ sở, là nền tảng để các em tiếp cận được mơn
tốn ở các bậc học cao hơn, đồng thời nó sẽ theo các em suốt quãng đời học tập
và công tác về sau. Đối với chương trình tốn lớp 3 nó như mở ra một bước
ngoặt mới là tiền đề, cơ sở vững chắc để học sinh học các lớp trên. Với lứa tuổi
ở lớp 3, giải tốn bằng hai phép tính rất khó khăn vì các em mới được tiếp cận,
càng khó khăn hơn đối với học sinh học chậm. Đây là một vấn đề rất nan giải,
đòi hỏi mỗi giáo viên phải ln trăn trở và quan tâm.
Tâm lí của học sinh tiểu học lại ngại khó và dễ thành thói quen nên sự thụ
động, thiếu tự tin trong học tập là vấn đề có thể xảy ra, làm ảnh hưởng đến con
đường tương lai của các em.
Việc thực hiện dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng, hướng tới nội dung
yêu cầu cần đạt là các yêu cầu cơ bản tối thiểu mà tất cả học sinh cần phải đạt
được sau khi học, địi hỏi mỗi giáo viên cần có cách tổ chức và dạy học phù hợp
đối tượng học sinh.
Trăn trở với suy nghĩ trên tôi đã cố gắng theo dõi, tìm hiểu ngun nhân và
những khó khăn của học sinh để tìm ra cách tổ chức và dạy học phù hợp đối
tượng học sinh, nhằm tạo cho các em niềm tin vững chắc trong học toán cũng như
trong cuộc sống và đã đem lại kết quả thật khả quan trong năm học 2019 - 2020.
Năm học 2020-2021 tôi tiếp tục nghiên cứu đề tài này nhằm áp dụng cho học sinh
lớp 3 trường Tiểu học Ngọc Trạo.
Qua thực tế nhiều năm giảng dạy ở lớp 3, bản thân tôi đã rút ra những vấn
đề sau:
- Học sinh lớp 3 mới tiếp cận chương trình về giải bài tốn bằng hai phép
tính, kĩ năng đọc hiểu của các em chưa cao nên việc xác định đề gặp nhiều khó

khăn.
- Các em không biết cách làm lời giải, không biết thực hiện phép tính theo
u cầu, khơng biết giải bài toán.
- Kĩ năng vận dụng kiến thức vừa học để giải bài tập còn hạn chế.
- Khả năng tư duy, suy nghĩ của các em còn yếu.
- Các em chưa xác định được dạng tốn.
Qua nhiều năm tơi miệt mài nghiên cứu, và áp dụng thành công tại trường
Tiểu học Ngọc Trạo. Nhằm giúp học sinh lớp 3 có kĩ năng vận dụng kiến thức


2
đã học để biết phân tích, xác định được yêu cầu đề bài và giải được các bài toán
bằng hai phép tính một cách chính xác về lời giải cũng như phép tính theo yêu
cầu đề ra để giúp học sinh lớp 3 có kĩ năng vận dụng kiến thức đã học để biết
phân tích, xác định được yêu cầu đề bài và giải được các bài toán bằng hai phép
tính một cách chính xác về lời giải cũng như phép tính theo yêu cầu đề ra, nhằm
làm nền tảng để các em giải tốn nhiều phép tính ở lớp 4, 5,... Từ đó tơi ln tìm
tịi, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp và đã áp dụng một số biện
pháp vào giảng dạy giải bài toán bằng hai phép tính ở lớp 3 để giúp các em thực
hành được và tốt hơn. Đó chính là lí do tôi chọn đề tài “Một số biện pháp giúp
học sinh lớp 3 giải bài tốn bằng hai phép tính” tiếp tục trong năm học này.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng dạy học sinh lớp 3 giải bài toán bằng hai phép tính
nói riêng của giáo viên và học sinh lớp 3 trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp
nâng cao chất lượng dạy giải bài toán bằng hai phép tính cho học sinh lớp theo
chương trình tiểu học nói chung.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này nghiên cứu về phương pháp giải bài toán bằng hai phép tính
cho học sinh lớp 3. Tổng kết những kinh nghiệm đạt được tại lớp 3B trường
Tiểu học Ngọc Trạo – Bỉm Sơn – Thanh Hóa.

1.4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này tôi sử dụng phối hợp các phương
pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thường xuyên sưu tầm tra cứu sách
báo tài liệu có liên quan đến nội dung đề tài, qua đó phân tích tổng hợp hệ thống
hóa theo mục đích nghiên cứu.
- Phương pháp thực nghiệm: Áp dụng trong quá trình dạy học trên lớp
- Phương pháp điều tra phỏng vấn: Tiến hành một số câu hỏi dạng trắc
nghiệm và tự luận cho các nhóm học sinh và điều tra qua phiếu liên qua đến việc
phân tích đánh giá việc học của học sinh, hay thơng qua phỏng vấn trực tiếp qua
đó nắm bắt được thực trạng.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Qua các hoạt động, giáo viên ghi
chép từ đó đúc rút kinh nghiệm được và chưa được tổng hợp đi đến kết luận.
- Phương pháp thống kê toán học: sử dụng phương pháp thống kê tốn
học nhằm phân tích thực trạng vấn đề nghiên cứu.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
Trong hoạt động dạy và học muốn có hiệu quả cao thì trước hết người
giáo viên phải nắm vững được cấu trúc chương trình, sự liên đới trong toán học,
nắm vững phương pháp đặc trưng của từng phân mơn, phải có sự chuẩn bị đầy
đủ các phương tiện dạy học, phải biết chắc lọc lựa chọn phương pháp dạy học
phù hợp. Đặc biệt mỗi giáo viên trong quá trình dạy học phải biết chú ý đến việc
tiếp thu kiến thức của học sinh và sự hình thành kĩ năng thực hành thì quá trình


3
dạy học mới đem lại hiệu quả.
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Thực trạng chung
2.2.1.1. Thuận lợi

- Trường Tiểu học Ngọc Trạo có thư viện được cơng nhận thư viện tiên
tiến theo quyết định 01 nên tư liệu dạy học cũng như các loại sách tham khảo
đầy đủ phục vụ cho giáo viên cũng như học sinh.
- Học sinh được tiếp cận với phương pháp dạy học mới: dạy học theo
hướng tích cực hố hoạt động của học sinh.
- Học sinh đã có nền tảng học các dạng tốn đã học từ lớp dưới.
- Nội dung chương trình có sự sắp xếp thuận lợi, phần ôn tập củng cố kiến
thức xen lẫn và thường xuyên.
- Đánh giá theo chuẩn kiến thức kĩ năng hiện nay đã tạo cho các em sự
mạnh dạn, tự tin, bày tỏ ý kiến về bất kì vấn đề nào với thầy cơ cũng như với
bạn bè. Từ đó tạo cơ hội cho nhiều em tự tin, mạnh dạn, tự học, tự tìm tịi và
trao đổi để vươn lên.
- Hằng năm, giáo viên được tập huấn nên ln có sự hướng dẫn, chỉ đạo
từ các cấp trên để có sự thay đổi thường xuyên, điều chỉnh về cách đánh giá
cũng như tài liệu hướng dẫn học ngày càng hợp lí, trịn trĩnh hơn để dần hồn
thiện về cách dạy- cách học - cách đánh giá.
2.2.1.2. Khó khăn
- Các bài tốn về giải bằng hai phép tính, học sinh lớp 3 mới được tiếp
cận vào giữa học kì I nhưng có rất nhiều dạng, lại xen kẽ với giải tốn 1 phép
tính nên đa số học sinh làm khơng được vì chưa xác định được đề, cịn quen với
bài tốn giải bằng 1 phép tính.
- Học sinh khơng đọc kĩ đề, khơng phân tích kĩ đề, khơng xác định được
dữ liệu nào đã cho, dữ liệu nào cần tìm và khơng biết nên bắt đầu tìm cái gì để
giải được bài tốn.
- Nhiều học sinh có tính khơng cẩn thận, thậm chí chưa có thói quen nháp
bài trước khi làm mà chỉ nhẩm rồi ghi kết quả vào, khơng chu đáo kiểm tra lại
bài tốn khi tính toán và khi làm xong bài.
- Học sinh học chậm mơn Tiếng Việt thì thường đọc đề khơng trơi chảy,
khó hiểu đề, viết lời giải lủng củng không sát với yêu cầu của đề.
- Đáp số cũng quan trọng nhưng nhiều HS ít chú ý, chỉ ghi đáp số cuối

cùng mà không quan tâm đến yêu cầu của đề hoặc khơng có tên đơn vị.
- Các em chưa có phương pháp tự học, tự suy nghĩ độc lập và chưa biết
trao đổi, thực sự giúp đỡ lẫn nhau trong học tập.
- Khả năng tiếp thu học sinh không đồng đều, nhiều học sinh khả năng
tiếp thu còn hạn chế.
- Học sinh chưa thực sự chăm chỉ trong học tập, chưa có động cơ trong
học tập.
- Việc HS thực hành giải tốn bằng hai phép tính cịn có nhiều hạn chế về:
nhận dạng toán, lập kế hoạch giải bài toán, các bước giải bài toán, hạn chế về lời


4
văn khi trình bày giải tốn. Do đó kết quả bài làm của HS chưa cao. Đa số học
sinh chưa có thói quen trong việc kiểm tra kết quả bài làm của mình.
- Một số phụ huynh thiếu sự quan tâm đến việc học con em, phó thác hết
tất cả cho giáo viên.
2.2.2. Thực trạng riêng của lớp phụ trách
- Từ quá trình dạy học, qua theo dõi trong thời gian (Từ tuần 10 đến hết
tuần 14), học sinh tiếp cận và làm quen với giải toán bằng hai phép tính của lớp
3B (sĩ số: 36 em) tơi phụ trách chỉ có:
+ 11 em = 30,5% số HS của lớp giải được các bài tốn bằng hai phép tính
ở mức độ cần đạt.
+ 14 em = 39% số HS của lớp chưa xác định được dạng tốn, lời giải
chưa chính xác, tính tốn sai, nhầm lẫn hoặc chỉ tính có 1 phép tính.
+ 11 em = 30,5% số HS của lớp HS chưa giải được bài tốn bằng hai phép
tính.
Các em rất ngại suy nghĩ khi làm bài, đặc biệt là các em học sinh học
chậm, học trung bình việc tính tốn cịn chậm thì giải tốn bằng hai phép tính lại
càng khó khăn hơn rất nhiều .
Kết quả khảo sát như sau:


Thời gian
Cuối tháng
11

Số HS giải
được tốn
bằng hai phép
tính
11

30,5 %

Số HS thực
hiện phép
tính sai khi
giải

Số HS chưa
có lời giải
đúng theo
yêu cầu của
đề

6

8

16,7 %


22,3 %

Số HS chưa
giải được
toán bằng hai
phép tính
11

30,5 %

Vào cuối tháng 11, khối 3 tổ chức khảo sát chất lượng, dựa vào kết quả
làm bài của học sinh tôi phân ra các loại đối tượng:
+ Chưa giải được bài tốn bằng hai phép tính.
+ Giải bài tốn bằng hai phép tính nhưng sai về lời giải.
+ Giải bài tốn bằng hai phép tính nhưng sai về phép tính.
+ Giải được bài tốn bằng hai phép tính.
Từ đó, giáo viên bố trí chỗ ngồi đều trong các nhóm cho phù hợp để học
sinh hoạt động thảo luận, trao đổi, học hỏi, giúp nhau giải tốn. Tăng cường đơi
bạn cùng tiến và việc kiểm tra bài lẫn nhau.
2.3. Các giải pháp thực hiện
2.3.1. Giúp học sinh nắm được trình tự của việc giải một bài tốn bằng
hai phép tính
Bước 1 : Đọc kĩ đề, tìm hiểu đề và xác định dạng toán.
Đây là bước quan trọng, giáo viên cần phải cho học sinh đọc thầm 2, 3 lần
và giáo viên đến từng nhóm hướng dẫn học sinh học chậm phân tích đề, nêu
được đề bài u cầu gì? Tìm ra đâu là dữ kiện đã biết, đâu là dữ kiện chưa biết
và bài toán thuộc dạng nào?


5


Ví dụ 1: Bài 3a trang 59 SGK
Trong Hội khỏe Phù Đổng, đội tuyển của một tỉnh đã giành được 8 huy
chương vàng, số huy chương bạc nhiều gấp 3 lần số huy chương vàng. Hỏi đội
tuyển đó đã giành được tất cả bao nhiêu huy chương vàng và bạc?
- HS phải hiểu được:
+ Bài toán cho biết: Huy chương vàng là 8 cái, huy chương bạc nhiều gấp
3 lần số huy chương vàng. (Dạng toán gấp một số lên nhiều lần để tìm số huy
chương bạc)
+ Bài tốn u cầu tìm: Số huy chương vàng và bạc (dạng tốn tìm tất cả)
Ví dụ 2: Bài 4b trang 43 SGK
Nhà Hoa có 1kg đường, mẹ đã dùng 3 lần, mỗi lần hết 150g. Hỏi nhà Hoa
còn lại bao nhiêu gam đường?
- HS phải hiểu:
+ Bài toán cho biết: Số đường nhà Hoa có là 1kg. Vậy 1kg đường tương
ứng với bao nhiêu gam đường? mẹ đã dùng 3 lần, mỗi lần hết 150g. Vậy phải
tìm số đường mẹ đã dùng 3 lần, thuộc dạng toán gấp một số lên nhiều lần.
+ Bài tốn u cầu tìm: số đường nhà Hoa cịn lại thuộc dạng tốn tìm số
cịn lại.
Bước 2 : Tóm tắt bài tốn
- Tập cho học sinh bước đầu có thói quen tóm tắt đề, xác định mối quan
hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm bằng nhiều hình thức.
- Có nhiều cách tóm tắt đề: bằng hình vẽ, bằng ngôn ngữ ngắn gọn, bằng
sơ đồ …
- Thông thường các dạng tốn nhiều hơn, ít hơn, gấp l số lên nhiều lần,
giảm 1 số đi nhiều lần... thì tóm tắt bài tốn theo sơ đồ đoạn thẳng rất dễ giải và
dễ kiểm tra kết quả.


6


Ví dụ 1:
Ta có sơ đồ
Huy chương vàng :
Huy chương bạc :
Ví dụ 2:

8

? huy chương

Tóm tắt :
Có : 1kg = 1000g
Dùng: 3 lần, 1 lần: 150g
Còn : …kg?
Bước 3 : Phân tích bài tốn để tìm ra cách giải.
- Từ tóm tắt của bài tốn, một lần nữa học sinh nắm chắc mối quan hệ giữa dữ
liệu đã cho và dữ liệu cần tìm. Từ đó học sinh có thể suy luận tìm cách giải.


7
* Giáo viên đến các nhóm hướng dẫn các đối tượng cần lưu ý để giúp đỡ
học sinh biết:
+ Xuất phát từ yêu cầu của đề (tức là dữ liệu cần tìm) rồi suy luận ngược
lên cho đến những điều đã biết.
Với ví dụ trên ta hướng dẫn học sinh suy luận như sau:
Ví dụ 1:
Nhìn vào sơ đồ ta có thể suy luận được ngay :
- Muốn tìm số huy chương vàng và bạc ta lấy số huy chương vàng cộng
với số huy chương bạc.

- Số huy chương bạc chưa biết nên tìm số huy chương bạc.
- Số huy chương vàng gồm 1 phần tương ứng với 8 huy chương. Như vậy
số huy chương bạc gồm 3 phần thì tương ứng với 8 x 3 = 24 (huy chương)
Ví dụ 2:
- Muốn tìm số đường nhà Hoa cịn lại ta lấy số đường nhà Hoa có trừ cho
số đường nhà Hoa đã dùng.
- Số đường đã dùng chưa biết nên phải đi tìm.
- Dùng 1lần hết 150g như vậy dùng 3 lần (dạng toán gấp một số lên nhiều
lần) nên ta lấy:
150 x 3 = 450 (g)
+ Xuất phát từ yêu cầu của đề dữ kiện nào đã biết rồi thì thơi, cịn dữ kiện
nào chưa biết ta phải đi tìm.
Ví dụ 1:
Nhìn vào sơ đồ ta có thể thấy ngay :
- Số huy chương bạc chưa biết mà số huy chương bạc gấp 3 lần số huy
chương vàng (dạng toán gấp 1số lần lên nhiều lần) lấy 8 x 3 = 24 (huy chương)
- Số huy chương vàng và bạc chưa biết (dạng tốn tìm tất cả) lấy :
8 + 24 = 32 (huy chương)
Ví dụ 2:
Nhìn vào tóm tắt ta có thể thấy ngay:
- Số đường đã dùng chưa biết (dạng toán gấp 1số lần lên nhiều lần) lấy
150 x 3 = 450(g)
- Số đường còn lại chưa biết (dạng tốn tìm số cịn lại) lấy số đường có
trừ đi số đường đã dùng, tức là lấy 1000 – 450 = 550 (g)
* Nếu gặp bài toán có mối quan hệ và số liệu tương đối phức tạp thì giáo
viên phải nghĩ ra một hướng giải quyết dơn giản để hướng dẫn cho học sinh dễ
hiểu. Giáo viên sẽ đến từng em học chậm, có đưa thẻ “cứu trợ”để hướng dẫn cho
học sinh. Sau khi đã hiểu, các em sẽ vận dụng vào giải bài toán mà các em đang
phải thực hiện.
Ví dụ 2: Bài 4b trang 43 SGK

Nhà Hoa có 1kg đường, mẹ đã dùng 3 lần, mỗi lần hết 150g. Hỏi nhà Hoa
còn lại bao nhiêu gam đường?
Từ ví dụ 2:
- Ta đưa bài tốn về tình huống đơn giản là: có 1 chục quả trứng gà, mẹ đã


8
luộc 3 lần, mỗi lần 2 quả. Hỏi còn lại bao nhiêu quả trứng gà?
- HS dễ dàng nhận ra ăn 1 lần 2 cái như vậy ăn 3 lần sẽ hết 6 cái
(lấy 2 x 3 = 6).
Sau đó tìm số trứng cịn lại (lấy 1 chục = 10 quả - 6 cái = 4 quả)
Từ đó HS suy ra cách giải tương tự cho Ví dụ 2
Bước 4 : Trình bày bài giải

Từ quá trình suy luận trên, HS tự trình bày bài giải
Ví dụ 1 :
Bài giải:
Số huy chương vàng là:
8 x 3 = 24 (huy chương)
Có tất cả số huy chương vàng và bạc là :
8 + 24 = 32 (huy chương)
Đáp số: 32 huy chương
Ví dụ 2 :
Bài giải:
Đổi : 1kg = 1000g
Mẹ đã dùng số gam đường là:
150 x 3 = 450 (g)
Nhà Hoa còn lại số gam đường là:
1000 – 450 = 550 (g)
Đáp số: 550 g đường



9
* Bước này giáo viên cần chú ý để học sinh độc lập làm bài và khắc sâu
kiến thức.
* Giáo viên nhắc nhở học sinh về lời giải phải ngắn ngọn, rõ ràng và sát
với yêu cầu của đề, chữ viết, con số, dấu phép tính rõ ràng và đừng quên đáp số
theo yêu cầu của đề. Trình bày bài giải cho đẹp (lời giải cách lề đỏ 1 ô, phép tính
cách lề đỏ 2 ơ và đáp số ghi dưới dấu bằng của phép tính thứ hai).
Bước 5: Kiểm tra bài
Đây là bước không kém phần quan trọng nhưng nhiều em chưa có thói
quen kiểm tra lại, hễ làm bài xong là nộp ngay. Giáo viên yêu cầu học sinh đọc
thầm từng lời giải và phép tính kèm theo có phù hợp khơng, kiểm tra tính tốn có
đúng khơng. Từ đó giúp các em có thói quen tự kiểm tra, đánh giá và sửa chữa.

2.3.2. Rèn cho học sinh thói quen cần thiết trong q trình học tập
mơn Tốn.
- Hình thành cho HS những thói quen cần thiết trong q trình học tập
mơn Tốn góp phần giúp các em giải tốt các bài tốn có lời văn nói chung, giải
bài tốn bằng hai phép tính nói riêng.
+ Trước hết là tập cho các em có thời gian biểu học tập ở nhà, ở trường và
bạn bè. Ngay từ đầu năm tuỳ theo đặc điểm, hoàn cảnh của từng em mà giáo
viên hướng dẫn học sinh lập thời gian biểu học tập ở nhà khác nhau. Phân công
đôi bạn cùng tiến để các em học hỏi, trao đổi lẫn nhau, những em giỏi giúp
những em chậm.
+ Giáo viên phối hợp chặt chẽ với phụ huynh để phụ huynh thường xuyên
kiểm tra vở, bài tập các em làm. Thông qua vở này, phụ huynh kết hợp cùng
giáo viên để giúp đỡ thêm cho con em mình.



10
- Rèn luyện tính cẩn thận chu đáo trong học tập.
+ Tập cho học sinh viết chữ và số rõ ràng, sạch sẽ, trình bày bài đẹp.
+ Rèn HS nháp bài cẩn thận rồi mới ghi vào vở. Khi ghi vào vở phải cẩn
thận, thật chính xác.
- Rèn thói quen tự kiểm tra, kiểm tra đánh giá lẫn nhau và tự sửa bài.
- Rèn ý chí vượt khó khi làm bài, nhất là đối với học sinh học chậm phải
sử dụng tín hiệu cứu trợ để giáo viên đến giúp đỡ kịp thời.
+ Cần áp dụng cách liên tưởng hoặc tưởng tượng ra một tình huống, một
bài tốn có các dữ kiện hay số liệu đơn giản hơn và dạng toán đồng dạng với bài
toán đã cho.
+ Giáo viên cần động viên, khuyến khích, tuyên dương học sinh kịp thời
khi các em có tiến bộ dù rất nhỏ. Ln tạo khơng khí học tập nhẹ nhàng, vui vẻ
sẽ giảm bớt rất nhiều khó khăn.
2.3.3. Thường xuyên củng cố và bổ sung kiến thức
- Ngay từ đầu năm học trong các tiết ơn tập về giải tốn, tơi đã tích cực
giúp HS hệ thống kiến thức trọng tâm, đặc biệt cho HS nắm vững các dạng toán
đã học và các bước giải dạng tốn đó. Trong q trình cung cấp kiến thức mới
về giải tốn bằng hai phép tính đã học, tơi lần lượt đưa các dạng tốn vào để học
sinh làm quen và đi đến giải thành thạo hơn trong tính tốn (Đặc biệt sử dụng
các tiết ơn luyện). Tăng cường việc tự kiểm tra và kiểm tra lẫn nhau để học hỏi
và rút kinh nghiệm.
- Thường xuyên ra đề kiểm tra theo mức độ đạt chuẩn kiến thức kĩ năng
hoặc mở rộng, phát triển đối với từng đối tượng học sinh.
2.3.4. Giáo viên phải xử lý linh hoạt các hình thức dạy học
- Giáo viên ln suy nghĩ, tìm tịi để thay đổi các hình thức dạy học trong
tài liệu hướng dẫn theo các logo cho phù hợp với đối tượng hs lớp mình.
- Nếu gặp những bài tốn mà học sinh khơng hiểu thì nên đưa ra bài toán
đồng dạng với số liệu nhỏ để học sinh dễ nhận ra và làm được. Cịn những bài
chính khóa thì u cầu em nào chưa hồn thành thì về nhà làm lại vào vở.

- Bên cạnh đó, giáo viên phải lập kế hoạch cụ thể cho từng bài dạy. Tuỳ
theo nội dung mà quy định thời gian cụ thể cho từng bài tập.Tuỳ theo từng đối
tượng học sinh mà giao việc, tránh để học sinh khá - giỏi chỉ dừng lại ở mức đạt
kiến thức cơ bản tối thiểu. (Ví dụ trong tiết Toán các em này thường làm xong
bài trước bạn trung bình - chậm nên hay ngồi chơi, vậy giáo viên cần phát hiện
nhờ các em đó đến kiểm tra bài giúp cô hoặc giúp bạn làm bài).
2.3.5. Các bài tốn khó, dạng mới
GV cần để học sinh thảo luận nhóm lớn hoặc nhóm đơi để các em phân
tích đề, tìm cách giải. Sau đó tiếp tục cho các em làm cá nhân vào vở. Điều này
tôi thấy đúng như câu nói “Học thầy khơng tày học bạn”. Các em tự tìm hiểu,
trao đổi, thảo luận thì các em dễ nhận biết và nhớ lâu hơn. Giáo viên chỉ cứu trợ
khi các em cần.
Ví dụ: Bài 4 trang 24 SGK
a) Đọc bài toán: Một cửa hàng ngày thứ nhất bán được 418 lít dầu, ngày


11
thứ hai bán được số lít dầu gấp đơi ngày thứ nhất. Hỏi cả hai ngày cửa hàng đã
bán được bao nhiêu lít dầu?
b) Em tự trả lời các câu hỏi: Bài tốn cho biết gì? Bài tốn hỏi gì? Muốn
tính cả hai ngày cửa hàng đã bán được bao nhiêu lít dầu em phải làm gì? Phải
làm phép tính nào?
c) Em giải bài toán.
- Điều chỉnh tài liệu bằng cách:
+ Việc 1: Đọc cá nhân
+ Việc 2: Trao đổi nhóm đơi
+Việc 3: Nhóm trưởng tổ chức cho các bạn trong nhóm nêu cách tính.
+ Việc 4: Cá nhân làm bài vào vở.
2.3.6. Quan tâm đến mọi đối tượng học sinh và phối hợp với phụ huynh
- Giáo viên phải chú ý đến đặc điểm cá biệt của mỗi học sinh trên cơ sở

quan tâm đến cả lớp. Muốn vậy, giáo viên phải nắm vững hoàn cảnh sống, đặc
điểm tâm lí của học sinh để có biện pháp giao việc thích hợp bằng cách thơng
qua thơng qua phụ huynh học sinh, qua các lần họp phụ huynh học sinh và qua
các bạn trong lớp khi cần thiết.
- giáo viên phân loại đối tượng cụ thể, chia nhóm, đơi bạn học tập sao cho
thuận lợi về mọi mặt để các em cùng nhau tiến bộ.
- Biết cách giao nhiệm vụ cho học sinh, cho phụ huynh kiểm tra giúp sẽ
đỡ đi một phần cơng việc mà học sinh thì được thúc đẩy làm việc thường xuyên,
hoàn thành bài tốt hơn.
2.4. Những kết quả đạt được
- Nhờ sử dụng linh hoạt các giải pháp trên vào các tiết toán, chắc chắn
chất lượng giải tốn bằng hai phép tính của các em sẽ nâng lên rõ rệt. Từ chỗ
học sinh chưa chịu khó đọc kĩ đề, chưa biết phân tích, tóm tắt đề … đến chỗ các
em biết tóm tắt đề, suy luận và giải được bài toán. Nhiều em năng lực tốt cịn
tìm ra được cách giải nhanh gọn, hay hơn .
Cụ thể về so sánh kết quả thẩm định 2 năm học 2019 - 2020 (lớp 3D) và
năm học 2020-2021 (lớp 3B) như sau:

Thời gian
Cuối tháng 11/2019
Cuối tháng 11/2020
Cuối tháng 12/2019
Cuối tháng 12/2020
Cuối tháng 1&2/2020
Cuối tháng 1&2/2021

Số HS giải
được toán
bằng hai
phép tính


Số HS thực
hiện phép
tính sai khi
giải

11
13
26
17
30
33

6
8
4
7
1
1

30,5 %
36,1 %
72,2 %
47,3%
83,3 %
91,6%

16,7 %
22,3 %
11,1%

19,4%
2,8%
2,8%

Số HS chưa
có lời giải
đúng theo
yêu cầu của
đề
8
22,3 %
8
22,3 %
2
5,6 %
7
19,4%
3
8,3 %
1
2,8%

Số HS
chưa giải
được tốn
bằng hai
phép tính
11 30,5 %
7 19,4 %
4 11,1 %

5 13,9%
2
5,6 %
1
2,8%


12
- Từ kết quả trên cho thấy việc dạy học và đánh giá theo chuẩn kiến thức
kĩ năng có nhiều cái hay mà đặc biệt là tạo cho các em tính tự tin, độc lập suy
nghĩ, tính sáng tạo, cởi mở trong học tập. Chất lượng học tập không chỉ với mơn
Tốn mà với các mơn học khác cũng sẽ tăng lên rõ rệt.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Những kết luận về vấn đề nghiên cứu
Để giúp học sinh giải tốt các bài tốn bằng hai phép tính giáo viên cần:
- Tìm hiểu tâm sinh lí học sinh, nắm được chỗ khiếm khuyết kiến thức và
khả năng hiểu bài của học sinh.
- Giúp học sinh nắm vững và thực hiện tốt trình tự các bước giải bài tốn
bằng hai phép tính.
- Rèn cho học sinh những thói quen cần thiết trong q trình học tập mơn
Tốn.
- Thường xun củng cố và bổ sung kiến thức mà các em chưa nắm vững.
- Giáo viên lập kế hoạch cụ thể cho từng tiết dạy; bài dạy; giao việc; kiểm
tra, không để học sinh chỉ dừng lại đạt kiến thức cơ bản tối thiểu và sử dụng linh
hoạt các hình thức dạy học.
- Quan tâm đến mọi đối tượng học sinh, phối hợp chặt chẽ với phụ huynh,
cam kết với phụ huynh về việc theo dõi, kiểm tra, giúp đỡ các em ở nhà qua các
lần họp phụ huynh học sinh, nhất là cuộc họp đầu năm.
Trong thực tế giảng dạy khơng có phương pháp và giải pháp vạn năng
nhưng người giáo viên biết kết hợp chặt chẽ, sáng tạo thì sẽ đem lại kết quả tốt

cho học sinh.
3.2. Đề xuất kiến nghị với các cấp
Đề tài này không những áp dụng cho khối Ba mà còn áp dụng cho tất cả
các khối lớp ở Tiểu học nên nhà trường triển khai cho các khối lớp cịn lại để vận
dụng trong q trình dạy học đem lại hiệu quả tốt hơn trong công tác dạy học.
Xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Ngọc Trạo, ngày 25 tháng 3 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác.
Người viết

Trần Anh Vân


13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.

Sách giáo khoa Toán lớp 3, (Nhà xuất bản Giáo dục).
Sách Giáo viên Toán lớp 3 – Tập 1 + 2, (Nhà xuất bản Giáo dục).
Bài soạn Toán lớp 3 – Tập 1 + 2, (Nhà xuất bản Giáo dục).
Sách Phương pháp dạy Tiếng Việt ở Tiểu học. (Nhà xuất bản Giáo dục)

Phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học
(Nhà xuất bản Giáo dục năm 2000)
6 . Phương pháp giải toán ở tiểu học
(Nhà xuất bản Giáo
dục)
7. Những bài toán đố hay dành cho học sinh tiểu học.
(Nhà xuất bản Giáo
dục)


14

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trần Anh Vân
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường tiểu học Ngọc Trạo
Kết
quả
đánh
giá xếp
loại (A,
B, hoặc
C)

Năm học đánh
giá xếp loại

TT


Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
giá xếp
loại
(Phòng,
Sở,
Tỉnh...)

1

Bồi dưỡng Ban chỉ huy Liên
Đội

Phòng
GD&ĐT
Bỉm Sơn

C

2008 -2009

2

Một số kinh nghiệm tổ chức
trò chơi trong dạy luyện từ
và câu nhằm gây hứng thú
học tập cho học sinh lớp 2


Phòng
GD&ĐT
Bỉm Sơn

A

2016 -2017


15



×