BÀI VĂN PHÂN TÍCH BÀI THƠ “T Ừ ẤY” CỦA TỐ HỮ U HAY NH ẤT
Trong t hơ ca cách m ạng Vi ệt Nam, Tố H ữu được coi như l à l á c ờ đầu, mở
đường cho rất nhiều sáng t ác v ề cách m ạng thời kì này. Năm mư ời bảy tuổi,
ơng đã sớm đượ c gi ác ng ộ lí t ưởng cách m ạng, đ ể rồi một năm sau đó (năm
1938), ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Vi ệt Nam. Trong ni ềm vui khi
vinh dự đượ c đứng t rong hàng ngũ c ủa Đ ảng Cộng sản, ông đã vi ết nên bài thơ
Từ ấy để bộc lộ h ết cảm xúc của bản thân.
Mở đầu bài thơ, T ố Hữu đã viết nên nh ũng l ời thơ tràn đ ầy lòng tin yêu:
Từ ấy trong tơi b ừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Từ ấy là m ột từ chỉ t hời gian chưa cụ th ể, rõ rang, nhưng đ ặt nó vào câu thơ
này, T ừ ấy là mốc t h ời gian đánh d ấu bư ớc ngo ặt có ý nghĩa l ớn trong cu ộc đời
của người thanh niên cách m ạng. Từ ấy cũng chính l à c ảm xúc chủ đạo của bài
thơ: là ti ếng lòng reo vui, r ộn rã, t rần ng ập ni ềm tin yêu của nhà thơ khi vinh
dự đượ c đ ứng vào hàng ngũ cao quý c ủa Đảng. Và sau th ời gi an T ừ ấy đó chính
là những sự thay đổi lớn lao cũng như s ự giác ngộ lý tưởng Đ ảng. Hai hì nh ảnh
thơ ẩn d ụ nắng hạ, mặt trời chân lí g ợi ra cho ngư ời đ ọc v ề ánh sáng, v ề lý
tưởng cao cả củ a Đảng. Ý thơ ẩn dụ m ặt trời ấy ta t ừng b ắt g ặp trong m ột l ần
nhà thơ Vi ễn Phương đi Vi ếng l ăng B ác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt tr ời trong lăng r ất đỏ
Mặt trời t rong l ăng là hình ảnh ẩn dụ, ý muốn nói tới B ác Hồ - vị l ãnh tụ vĩ
đại và là người cha già kính yêu c ủ a cả dân tộc Vi ệt Nam. B ác l à ngư ời đã tìm
ra được con đường c ứu nướ c đúng đ ắn nhất cho dân t ộc, và Bác ch ỉ có một t rên
đời nên B ác đượ c coi như m ặt trời.
Trở lại với T ừ ấy, từ bừng ở câu thơ đ ầu như làm cho c ả bài t hơ đượ c tỏa sáng.
Nếu như t rướ c từ bừ ng là một Tố Hữu chưa bi ết nên chọn con đường đi nào
đúng đắn, thì sau b ừ ng là ánh sáng ng ập tràn củ a lí tưởng Đ ảng, ánh sáng chói
chang, đ ẹp đẽ nhất. Tác gi ả như bước ra khỏi bóng t ối để đến với ánh sáng của
cách m ạng, của niềm tin. Lý t ư ởng cộng sản chính l à ngu ồn sáng m ạnh m ẽ
nhất, xua t an đi bóng t ối, làm bừng sáng cả t rí tu ệ và tâm hồ n củ a Tố Hữu.
Ở hai câu thơ sau, s ự thức tỉnh và gi ác ng ộ cách mạng đã khi ến cho tâm h ồn
của người chi ến sĩ cách m ạng t rẻ giống như m ột vườn hoa t ràn ng ập ti ếng chim
và r ực rỡ s ắc hoa:
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và r ộn tiếng chi m
Với bút pháp l ãng m ạn kết hợp với hình ảnh so sánh, nhà th ơ T ố Hữu đã di ễn
tả niềm vui sướ ng, say mê, h ạnh phúc ng ập tràn khi b ắt gặp l ý tưởng Đảng. Ta
thấy được s ự chuy ển biến rõ nét di ễn ra t rong t âm h ồn người chiến sĩ cách
mạng: một t âm hồn t hực s ự sinh động, t ràn đ ầy sức sống. Chỉ với khổ thơ đầu,
tác gi ả d ường như đã tô v ẽ nh ững gam m àu tươi sáng , đ ẹp đẽ nhất cho cả bài
thơ.
Từ sự giác ngộ lý tư ởng cách mạng, nhà thơ đã hì nh thành nên tư tư ởng lớn
trong t âm hồn qua khổ thơ thứ hai:
Tơi buộc lịng tơi với mọi người
Để tình trang tr ải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao h ồn khổ
Gần gũi nhau thêm m ạnh khối đ ời
Nhà thơ T ố Hữu đã sử dụng đại t ừ nhân xưng tôi đ ể bộc lộ cái tôi cá nhân,
nhưng cái t ôi ấy lại gắn li ên với cái t a r ộng lớn, bao l a nh ất. Từ buộc ở câu
thơ đầu g ợi lên cảm giác g ắn bó của nh ững người chiến sĩ cách m ạng v ới
mọi người. Sự k ết h ợp của ba hình ảnh buộc, t ran g tr ải, g ần gũi chính là s ợi
dây, l à con đư ờng, và là l ẽ số ng mà ngườ i chiến sĩ đã l ựa chọn và theo đu ổi tới
cùng. C ái tơi của tác gi ả như hịa vào cái ta – hình ảnh hốn dụ trăm nơi (qu ần
chúng nhân dân) đ ể l àm mạnh khối đời. Với một tấm l ịng ki ên trung, t ình u
thương bao l a, ngư ời chiến sĩ muốn mang đến s ự bình an, ấm no nhất cho nhân
dân, đ ể có th ể cùng họ gánh vác bớt nỗi khổ, cực nhọc.
Ở khổ thơ cuối , từ chân lý mu ốn được ch ở che, bao bọc, g ắn bó với mọi người,
mọi nhà, Tố Hữu đã khẳng định được vị t hế của mình:
Tơi đã là con của vạ n nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh c ủa vạn đầu em nh ỏ
Không áo cơm, cù b ất cù bơ.
Nhà thơ đã kh ẳng đị nh sự chuy ển bi ến lớ n lao t rong tình c ảm qua vi ệc sử dụng
điệp cấu t rúc đã là…/là…c ủ a. Dù kh ổ thơ chỉ m ang ý nghĩa li ệt kê nhưng nó
vẫn tốt lên đượ c tình cảm , sự tin yêu và g ắn bó củ a người chiến sĩ với t oàn
thể nhân dân. Từ l à được l ặp đi l ặp l ại, kết hợp với các từ ngữ con, em, anh, đã
xác định được vị trí của t ôi trong đ ại gia đình c ần l ao. Qua đó, nhà thơ đã th ể
hiện được tình hữu ái, tình thân yêu ru ột thịt của những người chiến sĩ với
quần chúng lao kh ổ, cùng g ắn bó, san s ẻ, gánh vác kh ổ đau, đương đ ầu với
sóng gió, quy ết khơng lùi bư ớ c. Hì nh ảnh kiếp phơi pha, cù b ất cù bơ g ợi cho
người đọ c v ề hình ảnh những con người dãi d ầu mưa n ắng, v ất vả, những con
người lang thang, không nơi nương t ựa. Hai hình ảnh ấy kết hợp với số t ừ ướ c
lệ vạn đã tái hi ện rõ nét hình ảnh quần chúng nhân dân l ao đ ộng nghèo – gi ai
cấp chính trong xã h ội Việt Nam l úc b ấy giờ với lực lượng đông đảo.
Quả thực, bài thơ T ừ ấy là l ời tâm ngu yện của người thanh niên yêu nư ớc
giác ngộ lý tư ởng cách m ạng. Đây cũng là m ột bài thơ ý nghĩa, đánh d ấu s ự
trưởng thành của mộ t con người, một giai đoạn văn học và của một chặng
đường cách m ạng đầy gian nan. S ự vận đ ộng trong tâm t r ạng của nhà thơ đư ợ c
thể hi ện rất sinh động qua nh ững hình ảnh tươi sáng, k ết hợp với các bi ện pháp
tu từ và ngôn ngữ gi àu nh ạc điệu.