Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tiểu luận/ Bài thu hoạch "Tính tất yếu của liên minh giữa các giai cấp, tầng lớp Việt Nam hiện nay"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.52 KB, 25 trang )

1

BÀI THU HOẠCH/ TIỂU LUẬN
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TÊN MƠN HỌC:

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

TÊN BÀI THU HOẠCH/ TIỂU LUẬN:

TÍNH TẤT YẾU CỦA LIÊN MINH GIỮA CÁC
GIAI CẤP, TẦNG LỚP VIỆT NAM HIỆN NAY

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2022


MỤC LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT

CHỮ ĐƯỢC VIẾT TẮT

GCTL

Giai cấp, tầng lớp


4



PHẦN I: MỞ ĐẦU
Ở nước ta, sau nhiều năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa được hình thành và phát triển là yếu tố quyết định trực tiếp, mạnh mẽ làm xuất
hiện ở nước ta một cơ cấu xã hội giai cấp có nhiều GCTL khác nhau giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, đội ngũ doanh nhân,.. các GCTL lại có nhiều
thành tố, bộ phận tham gia trong các thành phần kinh tế, với các hình thức tổ chức sản
xuất, kinh doanh khác nhau, do vậy quan hệ giai cấp và liên minh giai cấp trở nên đa
chiều, đa dạng, sinh động. Liên minh diễn ra trong xu thế vừa hợp tác, vừa đấu tranh
giữa các GCTL; liên minh GCTL ở Việt Nam hiện nay là liên minh giữa các cộng đồng
dân cư trong nội bộ nhân dân, đó là những chủ nhân của đất nước có vị trí, vai trò xứng
đáng trong cơ cấu xã hội và trong công cuộc đổi mới. Lý luận về liên minh giữa GCTL
là một trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học và được Đảng ta
đang kế thừa và phát huy những giá trị quý báu về liên minh giữa giai cấp và đoàn kết
xã hội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhận thấy được tính tất yếu và
tầm quan trọng của vấn đề xây dựng và tăng cường thực hiện liên minh GCTL, bài
nghiên cứu sẽ góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về tính tất yếu của liên minh các
GCTL, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tính tất yếu
của liên minh các GCTL; làm rõ thực trạng vấn đề liên minh các GCTL ở nước ta trong
đó bao gồm những thành tựu đạt được và khó khăn, hạn chế của vấn đề liên minh các
GCTL ở Việt Nam nói chung trong những năm vừa qua, từ đó luận giải nguyên nhân
của những hạn chế, khó khăn và kiến nghị một số giải pháp tăng cường liên minh các
GCTL trong giai đoạn hiện nay.


5

PHẦN II: NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận về tính tất yếu của liên minh giữa các giai cấp, tầng lớp
1.1. Khái niệm liên minh các giai cấp, tầng lớp và tính tất yếu của liên minh các giai

cấp, tầng lớp
Ở mỗi giai đoạn lịch sử có một cơ cấu xã hội khác nhau với những GCTL đặc
thù có địa vị kinh tế - xã hội khác nhau nên cũng những vai trị vị trí khác nhau đối với
sự phát triển của xã hội. Trong quá trình xác lập vị trí và thực thi vai trị của mình, các
GCTL khác nhau lại nảy sinh những nhu cầu và lợi ích chung tạo ra sự liên minh giữa
các GCTL. Vì vậy, liên minh giữa các GCTL là sự đồn kết, hợp tác, hỗ trợ nhau,…
giữa các GCTL trên cơ sở lợi ích chung nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp vì một mục
đích cụ thể trong tiến trình vận động và phát triển xã hội [7, tr. 205]. Liên minh là tất
yếu, bởi vì lợi ích của các giai cấp tầng lớp, nhóm xã hội đều gắn bó trong nhu cầu giải
phóng dân tộc giải phóng giai cấp, giải phóng con người; trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng dân
chủ văn minh vừa đặt ra nhu cầu liên minh vừa đặt ra các vấn đề phải cần tới liên minh
để giải quyết một cách hài hịa. Tính tất yếu của liên minh giữa các GCTL thể hiện qua
tính tất yếu trên phương diện kinh tế - kỹ thuật và tính tất yếu trên phương diện chính
trị - xã hội.
Về tính tất yếu trên phương diện kinh tế - kỹ thuật, nhiệm vụ kinh tế trở thành
nhiệm vụ trọng tâm để xây dựng nền tảng vật chất - kỹ thuật cho xã hội chủ nghĩa, là
nội dung cơ bản, quyết định nhất, là cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc của liên minh
trong thời kỳ quá độ, do đó, liên minh giữa các GCTL trong xã hội trên phương diện
kinh tế - kỹ thuật là vấn đề khách quan đặt ra. Trên cơ sở kinh tế, các nhu cầu kinh tế
phát triển dưới nhiều hình thức hợp tác, liên kết, giao lưu trong sản xuất, lưu thông,
phân phối đặt ra yêu cầu khách quan phải gắn kết chặt chẽ các lĩnh vực công nghiệp,


6

nông nghiệp, dịch vụ, khoa học và công nghệ,… nhằm tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật
cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Theo đó, các chủ thể của các lĩnh vực là nơng dân, cơng
dân, trí thức, doanh nhân,… tất yếu phải liên minh, liên kết với nhau để cùng thực hiện

những như cầu và lợi ích kinh tế chung của mỗi chủ thể. Ngồi ra, cịn thể hiện qua sự
đoàn kết, hợp tác, trao đổi, hỗ trợ, giúp đỡ nhau của cơng nhân, nơng dân, trí thức trên
cơ sở lợi ích chung, phát huy sức mạnh tổng hợp, cùng nhau xây dựng kinh tế, phát
triển đất nước, dựa vào nhau để phát triển, khai thác các tiềm năng, lợi thế có sẵn trong
các GCTL và trong từng lĩnh vực; nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh,
sức mạnh kinh tế và sự giàu có, khắc phục những hạn chế, yếu kém về cơ sở hạ tầng,
vốn, kinh nghiệm quản lý và khoa học công nghệ; đưa đất nước ta phát triển nhanh và
bền vững, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
Về tính tất yếu trên phương diện chính trị - xã hội, liên minh GCTL nhằm phát
huy sức mạnh tổng hợp để cải tạo xã hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản nhất của giai cấp cơng nhân, giai cấp
nơng dân, đội ngũ trí thức và của cả dân tộc là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Do
vậy, cần xây dựng khối liên minh nhằm tạo thành nền tảng của chế độ chính trị - xã
hội, trên cơ sở đó, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, liên kết, hợp tác rộng rãi với các
tầng lớp khác trong xã hội để tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để xây dựng và
thực hiện khối liên minh thì giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân, tầng lớp trí thức là
lực lượng nòng cốt nhất, cơ bản nhất của khối liên minh - nhằm tập hợp các lực lượng
trong xã hội để tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giai cấp cơng nhân, giai cấp
nơng dân, tầng lớp trí thức không chỉ là ba lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, mà
họ cịn đóng vai trị quan trọng trong phát triển kinh tế và trong đời sống chính trị [7,
tr.208]. Tính tất yếu về chính trị - xã hội của liên minh giữa các GCTL tạo ra nền tảng
xã hội rộng lớn về lực lượng con người, đông nhất, quan trọng nhất; sự đoàn kết, hợp
lực giữa các GCTL xã hội để cùng thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng, phát
huy dân chủ, bảo vệ nhân dân, xóa bỏ dần sự chênh lệch, khác biệt giữa lao động trí óc


7

với lao động chân tay, giữa thành thị với nông thôn, giữa giàu và nghèo, giữa các vùng
miền, cùng nhau bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng và giữ vững

định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tính tất yếu của liên minh giữa các
giai cấp, tầng lớp
Lý luận về liên minh giữa các GCTL trong cách mạng xã hội chủ nghĩa là một
trong những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, gắn liền với xây dựng chế độ
chính trị xã hội chủ nghĩa. Theo lý luận về giai cấp của C.Mác, sự hình thành các giai
cấp trong xã hội là khách quan, do quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất chủ yếu quy
định. Mỗi giai cấp đều có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự phát triển của xã hội, có
nhu cầu lợi ích riêng, nhưng trong cuộc sống và sản xuất, các giai cấp thường nảy sinh
nhu cầu, lợi ích chung, nếu khơng đồn kết, hợp tác, hợp lực, thì các giai cấp khơng thể
thực hiện được nhu cầu, lợi ích khách quan của mình vì thiếu sức mạnh. Cụ thể, giai
cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác cũng khơng thể thốt khỏi ách áp
bức bóc lột của giai cấp tư sản, khơng thể được giải phóng một cách thực sự và triệt để
nếu không liên minh với giai cấp công nhân, không trở thành người bạn đồng minh của
giai cấp công nhân: “Đứng trước giai cấp tư sản phản cách mạng đã liên minh lại thì dĩ
nhiên là những phần tử đã được cách mạng hóa của giai cấp tiểu tư sản và của nông
dân, phải liên minh với người đại biểu chủ yếu cho những lợi ích cách mạng, tức là giai
cấp vơ sản cách mạng” [2, tr. 84] vì “... người nông dân thấy rằng giai cấp vô sản thành
thị, giai cấp có sứ mệnh lật đổ chế độ tư sản là người bạn đồng minh, người lãnh đạo tự
nhiên của mình” [3, tr. 269]. Ở giai đoạn này, liên minh với ý nghĩa là sự đoàn kết, hợp
tác, giúp đỡ lẫn nhau,… giữa các cộng đồng sẽ ngày càng mở rộng là là đặc trưng của
xã hội mới, mà C.Mác và Ph.Ăngghen gọi là “một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do
của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” [1, tr. 268].
Kế thừa và phát triển tư tưởng về liên minh giai cấp của C.Mác, trong quan


8

niệm về chun chính vơ sản, tư tưởng liên minh giai cấp của V.I.Lênin thể hiện rõ:
“Chun chính vơ sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô

sản, đội tiên phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động
không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức, v.v.) hoặc với phần lớn
những tầng lớp đó; liên minh nhằm chống lại tư bản, liên minh nhằm lật đổ hoàn toàn
tư bản, tiêu diệt hoàn toàn sự chống cự của giai cấp tư sản và những mưu toan khôi
phục của giai cấp ấy, nhằm thiết lập và củng cố vĩnh viễn chủ nghĩa xã hội” [15, tr.
452]. Trước vai trò quan trọng của khoa học - cơng nghệ, Người cịn khẳng định:
“Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và giữa kỹ thuật, không
một thế lực đen tối nào đứng vững được” [16, tr. 218]. Chiến lược lâu dài xuyên suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo V.I.Lênin chỉ rõ: “Nguyên tắc cao nhất của
chuyên chính là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vơ sản và nơng dân để giai cấp vơ
sản có thể giữ được vai trị lãnh đạo và chính quyền nhà nước” [18, tr. 57] và “… thực
hiện liên minh công nông là một việc khó, nhưng vơ luận thế nào đó cũng là khối liên
minh vô địch duy nhất để chống lại bọn tư bản” [17, tr. 340]. Như vậy, theo chủ nghĩa
Mác - Lênin, liên minh giữa GCTL không chỉ là nhu cầu nội tại của cách mạng xã hội
chủ nghĩa, mà nó cịn xuất phát từ những cơ sở khách quan khác, cụ thể là liên minh
giữa các GCTL là điều kiện đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, là điều
kiện quyết định thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành chính quyền và cơng cuộc cải tạo
và xây dựng xã hội mới; liên minh giữa các GCTL là mối liên hệ tự nhiên gắn bó và sự
thống nhất lợi ích cơ bản của tất cả các GCTL; là do sự gắn bó thống nhất giữa sản
xuất công nghiệp, nông nghiệp với khoa học kỹ thuật.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tính tất yếu của liên minh giữa các giai cấp, tầng lớp
ở nước ta
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, liên minh giai cấp cơng nhân, nơng dân và đội
ngũ trí thức là sự cố kết của các GCTL trong một chỉnh thể thống nhất, nhằm giúp đỡ


9

lẫn nhau phát triển. Mỗi thành tố có vị trí, vai trò đặc thù do bản chất, vai trò của mỗi
giai cấp và tầng lớp trong cách mạng và xã hội quy định. Sức mạnh và chất lượng của

khối liên minh phụ thuộc vào chất lượng của từng thành tố trong đó. Vì thế, củng cố,
tăng cường khối liên minh giai cấp cơng nhân, nơng dân và đội ngũ trí thức gắn liền
chặt chẽ với quá trình xây dựng, phát triển của mỗi GCTL do Đảng lãnh đạo, tạo thành
nhân tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở kế thừa phát triển tư
tưởng liên minh giai cấp của chủ nghĩa C.Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo vào điều
kiện hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ
tư tưởng liên minh giữa các GCTL ngay trong Văn kiện chính thức Đại hội Đảng tồn
quốc lần thứ II, tháng 2/1951: “Chính quyền dân chủ nhân dân dựa vào Mặt trận dân
tộc thống nhất lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và lao động trí
thức làm nền tảng, do giai cấp cơng nhân lãnh đạo” [5, tr. 121].
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền
kinh tế: “Công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển,
như hai chân đi khoẻ và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích.
Thế là thực hiện liên minh công - nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời
sống ấm no sung sướng cho nhân dân” [11, tr. 376], Người nhấn mạnh, liên minh là
phải giúp đỡ nhau thực sự, chứ không phải chỉ liên minh cửa miệng. Hơn nữa, “Vì
hồn cảnh kinh tế lạc hậu, mà nơng dân thường có tính thủ cựu, rời rạc, tư hữu. Cho
nên giai cấp công nhân phải đoàn kết họ, giúp tổ chức họ, và lãnh đạo họ, thì họ là một
lực lượng rất to lớn vững chắc. Thế là công nông liên minh” [9, tr. 258]. Trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội, theo Người, giai cấp công nhân không chỉ cần liên minh với
nông dân, mà cịn phải liên minh với đội ngũ trí thức, vì sự nghiệp phát triển kinh tế,
văn hoá và khoa học - kỹ thuật: “Cách mạng cũng cần có lực lượng của trí thức (chúng
ta quen gọi là lao động trí óc). Thí dụ: Cần có thầy thuốc để săn sóc sức khoẻ cho nhân
dân; cần có thầy giáo để dạy văn hố và đào tạo cán bộ; cần có kỹ sư để xây dựng kinh
tế, v.v… Vì lẽ đó, trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ


10

nghĩa, lao động trí óc có vai trị quan trọng và vẻ vang; và cơng, nơng, trí cần phải đồn

kết chặt chẽ thành một khối” [10, tr. 376]. Ngoài ra, Người nhấn mạnh: “Trong sự
nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một
vai trị quan trọng và vẻ vang; và cơng, nơng, trí cần phải đồn kết chặt chẽ thành một
khối” [8, tr. 214], trong đó, giai cấp cơng nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo
khối liên minh đó, thơng qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Theo Người, Đảng Cộng sản Việt Nam là “Đảng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết
nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân” [9,
tr. 50] và “Đảng là bộ đội tiền tiến của nhân dân lao động (công nhân, nông dân và lao
động trí óc)” [9, tr. 274]. Ngay khi thành lập Đảng, Người đã vạch ra sách lược cơ bản
là phải lôi cuốn được giai cấp vô sản, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đi theo
cách mạng, hình thành nên khối liên minh cơng- nơng- trí, nịng cốt của khối đại đồn
kết tồn dân thơng qua Sách lược vắn tắt của Đảng. Như vậy, ngay từ khi thành lập
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra nhiệm vụ vận động cơng nhân, nơng dân, trí
thức đồn kết lại đứng lên làm cách mạng với các chính sách như cơng nơng trí thức
hố; trí thức cơng nơng hố (anh em trí thức cũng biết trọng lao động, cũng biết làm
lao động, hợp thành một khối với công nông, nâng cao trình độ cơng nơng về văn hóa,
lý luận) mà Đảng giữ vai trò là tổ chức xây dựng và lãnh đạo khối liên minh cơng nơng - trí.
2. Thực trạng và nguyên nhân thực trạng liên minh giữa các giai cấp, tầng lớp ở
Việt Nam hiện nay
2.1. Thành tựu trong liên minh giữa các giai cấp, tầng lớp ở Việt Nam hiện nay
Liên minh GCTL ở nước ta ngày càng toàn diện, phong phú, đoàn kết, giúp đỡ
nhau trên các lĩnh vực và đi vào chiều sâu, do vậy, đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng của việc phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, nhằm thực hiện thắng lợi sự


11

nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, cụ thể như sau:
Thứ nhất, liên minh giữa các GCTL đóng vai trị quan trọng trong sự nghiệp

cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định chiến lược
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là lấy liên minh cơng nhân - nơng dân - trí
thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và coi đó là một nguyên tắc có ý nghĩa
như là một quy luật để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh. Đảng
khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc “là đường lối chiến lược của cách mạng Việt
Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo
đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, cụ thể tại Đại hội
lần thứ XIII xác định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc,
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc” [6, tr. 34]. Đảng ta đã xác định mục tiêu của cách mạng nước ta trong giai đoạn
hiện nay là “Phát huy ý chí và sức mạnh đại đồn kết toàn dân tộc kết hợp với sức
mạnh thời đại; đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hố, hiện
đại hố; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định; phấn đấu
để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa” [6, tr. 112]. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng bộ xã Nghĩa Bình lần thứ XII
(nhiệm kỳ 2020 - 2025) cũng đã xác định “Nhiệm vụ của Đảng bộ xã trong nhiệm kỳ
2020 - 2025 là hết sức quan trọng đề nghị đảng viên và nhân dân xã phát huy những
thành tựu đã đạt được, đồn kết một lịng, nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử
thách thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XII đã đề ra” và để
hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, Đại hội kêu gọi “toàn thể cán bộ, đảng
viên và nhân dân trong xã hãy đoàn kết, thống nhất, nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó
khăn, thực hiện thắng lợi các mục tiêu Đại hội lần thứ XII đã đề ra, xây dựng xã Nghĩa
Bình ngày càng vững mạnh” [4].
Thứ hai, vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng


12

khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng, Nhà nước đã được thực tiễn khẳng
định, hoàn thiện và ngày càng phát huy. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên

minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các GCTL xã hội, dân tộc, tôn giáo, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015).
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khẳng định vai trò quan trọng của GCTL mà mình đứng ra
đại diện thơng qua nhiều kết quả đạt được trong việc tham gia xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cụ thể là: tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội luôn đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động, gắn bó mật thiết với Nhân dân; tuyên truyền, vận động Nhân
dân thi đua lao động sáng tạo, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh của đất nước; tham gia xây dựng bộ máy
Nhà nước, chính sách, pháp luật, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức,…
[13]. Tại xã Nghĩa Bình, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cơ bản đã phát huy được vai
trò nòng cốt trong việc tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nướ, cụ thể như sau: hệ thống
tổ chức các đồn thể chính trị - xã hội từng bước được nâng lên cả về số lượng và chất
lượng hoạt động, trong nhiệm kỳ qua đã thu hút gần 50% quần chúng vào các tổ chức
đồn thể chính trị- xã hội, tăng 2% so với đầu nhiệm kỳ; trong nhiệm kỳ qua Mặt trận
tổ quốc và các tổ chức đồn thể chính trị - xã hội luôn đạt vững mạnh và xuất sắc, các
chi tổ, hội đạt vững mạnh, khá 95% trở lên, khơng có đoàn thể yếu kém (đạt 100%
nghị quyết),…[4]. Mặt trận - đồn thể xã Nghĩa Bình ngày càng thực hiện tốt chức
năng là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là cầu nối của nhân dân với Đảng và
chính quyền, thực hiện chức năng tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, tham gia
giám sát, phản biện xã hội, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân.
Thứ ba, xuất hiện ngày càng nhiều gương điển hình dám nghĩ, dám làm, nhiều


13

kinh nghiệm hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả. Thành tựu đất nước gần 35 năm đổi mới

mang đậm dấu ấn của lớp cán bộ lãnh đạo, quản lý có tư duy đổi mới, năng động, sáng
tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, có khả
năng tổng kết thực tiễn, vận dụng sáng tạo những chủ trương của Đảng, chính sách của
Nhà nước để giải quyết những vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn. Họ là biểu tượng sinh
động, tiêu biểu của tầm cao trí tuệ, đức hy sinh, tinh thần dấn thân vì lợi ích chung;
những đổi mới, sáng tạo, dám làm, dám đột phá của họ dù thành công hay chưa thành
cơng đều mang lại những bài học có giá trị cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Gần đây
tiếp tục xuất hiện nhiều cán bộ tận tụy, tâm huyết trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ,
sâu sát thực tế, đi đầu trong đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đương đầu với
khó khăn, dám đối mặt và giải quyết những vấn đề tồn đọng, phức tạp. Những ý tưởng
đổi mới, sáng tạo của cá nhân người lãnh đạo đã trở thành ý tưởng của tập thể lãnh đạo,
được hiện thực hóa thành những mơ hình mới, cách làm hay trong cả nước.
Thứ tư, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là
vùng khó khăn. Việc thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển nơng nghiệp,
khuyến khích và trợ giúp nông dân đã phát huy tác dụng, bộ mặt nông thơn có nhiều
thay đổi, đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thơn ngày
càng được cải thiện, xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn. Cùng với quá trình đổi
mới, quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc làm và đời sống của giai
cấp công nhân ngày càng được cải thiện. Theo đó, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân nói chung, của nơng dân nói riêng, được nâng cao, cải thiện rõ rệt, kết quả
này cũng chỉ có thể đạt được trong sự liên minh chặt chẽ giữa cơng nhân, nơng dân, trí
thức và với tồn xã hội. Theo kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm
nghèo và an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2016-2020 trên cả nước thì tỷ lệ hộ nghèo
đã giảm từ 9,88% năm 2015 xuống còn cịn 2,75% năm 2020, trung bình giảm
1,43%/năm, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm 4%/năm; tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện
nghèo cuối năm 2020 còn 23,42%, trung bình giảm 5,4%/năm. Tại xã Nghĩa Bình, hiện


14


hộ nghèo đến cuối năm 2019 của xã là 55 hộ với 199 khẩu, chiếm tỷ lệ 4,01% dân số
xã, giảm 1,67% so với đầu nhiệm kỳ, có 27 hộ cận nghèo với 118 khẩu, chiếm tỷ lệ
1,97% dân số toàn xã; UBND xã đã xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện bình
qn có 99,06% hộ đăng ký gia đình văn hóa trong đó có 95,54% hộ đạt GĐVH vượt
chỉ tiêu nghị quyết đề ra; trạm y tế xã đã được công nhận đạt chuẩn Quốc gia về Y tế
đến năm 2020, cơng tác chăm sóc sức khỏe và khám chữa bệnh cho người dân được
thực hiện tốt; Công tác giáo dục được quan tâm đầu tư phát triển về quy mô trường lớp,
tỷ lệ huy động trẻ từ 3 - 5 tuổi ra đạt 100%; tỷ lệ học sinh Tiểu học được lên lớp hàng
năm vượt so với chỉ tiêu Nghị quyết giao bình quân đạt 98,1%; tỷ lệ học sinh lên lớp
bậc THCS hàng năm bình quân đạt đạt 95,2% vượt so với chỉ tiêu Nghị quyết được
giao; việc thực hiện chỉ tiêu giải quyết việc làm mới cho lao động đều vượt so với chỉ
tiêu huyện giao, cụ thể là từ năm 2015 đến nay tổng số lao động có việc làm mới là
1.428 người,…[4].
Thứ năm, nền kinh tế Việt Nam đã có chuyển dịch tích cực theo hướng cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Qua 35 năm đổi mới, kinh tế Việt Nam đã đạt được những
kết quả tăng trưởng ấn tượng và từng bước hội nhập sâu rộng vào kinh tế khu vực và
toàn cầu. Đặc biệt, trong giai đoạn 2015-2020, kinh tế Việt Nam có sự chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế theo hướng hiện đại, giảm dần nguồn lực khu vực nông nghiệp, lâm
nghiệp và thủy sản, nguồn lực phân bổ cho khu vực cơng nghiệp, khai khống, xây
dựng và khu vực dịch vụ tăng dần. Trong giai đoạn 2015-2020, kinh tế Việt Nam đã đạt
kết quả tăng trưởng ấn tượng, đưa Việt Nam trở thành nước có thu nhập bình qn đầu
người ở mức trung bình; từ nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng
được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra mơi trường thu hút nguồn lực xã hội cho
phát triển [14].
Thứ sáu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát triển


15


đô thị và xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều kết quả đáng kể. Q trình xây dựng
nơng thơn mới, sau nhiều năm triển khai đã có những khởi sắc rõ rệt, hạ tầng kinh tế xã hội được cải thiện, cơ cấu lại ngành công nghiệp đã phát huy hiệu quả, kinh tế nơng
thơn đã có nhiều chuyển biến tích cực góp phần nâng cao thu nhập và cải thiện đời
sống của người dân nông thôn, cụ thể là kinh tế nông thôn liên tục tăng trưởng khá và
chuyển mạnh theo hướng công nghiệp - dịch vụ, ngành nông nghiệp đang chuyển đổi
theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững góp phần nâng cao thu nhập
cho người dân nông thôn và từng bước thu hẹp khoảng cách với đô thị. Đặc biệt, kết
cấu hạ tầng kinh tế, xã hội nơng thơn đã có những đổi thay vượt bậc, hiện đại hóa một
bước theo hướng đồng bộ, bộ mặt nông thôn ngày càng khang trang, lĩnh vực giáo dục,
văn hóa, y tế, thương mại nơng thôn được tập trung đầu tư, nâng cao chất lượng, từng
bước đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của người dân, đồng thời, đang dần bắt kịp
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội khu vực nông thôn, thu hẹp dần khoảng cách với khu
vực đô thị [12]. Xã Nghĩa Bình ln đẩy mạnh thực hiện phong trào “Tồn dân đồn
kết xây dựng nơng thơn mới, đơ thị văn minh” cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”,
và cuộc vận động “ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí
Minh” vận động đóng góp xây dựng đường bê tơng xi măng, đường điện thắp sáng,
ủng hộ đồng bào các tỉnh, thành bị lũ lụt, vận động xây dựng căn nhà Đại đoàn kết, nhà
tình thương tặng sổ tiết kiệm… Từ năm 2015 đến nay đã tiến hành đầu tư xây dựng
được 6.250m đường giao thông nông thôn BTXM; cải tạo nâng cấp được 20km đường
cấp phối sỏi đỏ; xây dựng được 6km đường điện chiếu sáng nông thôn; xây dựng nhà
làm việc một cửa của xã; sửa chữa nhà văn hóa thơn Bình Hịa và thơn Bình Lợi; xây
dựng được 01 cây cầu bằng bê tông xi măng dài 12m và hiện đang tiến hành làm cơng
trình Hồ chứa nước ĐaoU2. Đến nay tỷ lệ hộ dân trên địa bàn xã sử dụng điện
(1330/1370) đạt 97,08%, vượt 2,08% so với Nghị quyết giao; về chương trình xây
dựng nơng thơn mới, xã đạt 11/19 tiêu chí nơng thơn mới, tăng 07 tiêu chí so với nhiệm
kỳ trước [4].


16


Thứ bảy, điều quan trọng nhất không thể phủ nhận là, người dân ở mọi giai cấp
tầng lớp trong xã hội được quyền tự do kinh doanh trong các ngành, nghề mà pháp luật
không cấm, được Nhà nước tạo điều kiện và bảo trợ đã trở thành hiện thực. Việc hoàn
thiện các loại thị trường như thị trường sức lao động, thị trường khoa học và cơng
nghệ, thị trường vốn…chính là điều kiện và môi trường thuận lợi để các GCTL vừa
hiện thực hóa khả năng tham gia hoạt động kinh tế, vừa là điều kiện để họ tiếp cận điều
kiện phát triển và thụ hưởng thành quả lao động của mình.
2.2. Khó khăn, hạn chế và ngun nhân dẫn đến khó khăn, hạn chế trong liên minh
giữa các giai cấp, tầng lớp ở Việt Nam hiện nay
Nhìn chung, liên minh các GCTL ở nước ta trong thời kỳ đổi mới đang vận
động khá nhanh theo chiều hướng tích cực và có nhiều biểu hiện mới, đóng góp vai trị
to lớn và linh hoạt của nó trong q trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
hiện nay và hiển nhiên, vấn đề liên minh giữa các GCTL cũng gặp khơng ít khó khăn,
hạn chế có thể kể đến như sau:
Thứ nhất, các thế lực chống đối thường hay xun tạc ở một số khía cạnh của
liên minh cơng - nơng - trí của nước ta. Với mục đích xuyên tạc nội dung chính trị - xã
hội của liên minh, các thế lực chống đối thường nhắc đến tính chất dân chủ, tính nhân
dân của Nhà nước nhưng lờ đi những giai cấp đang chiếm đại đa số của Nhân dân và là
cơ sở, động lực đảm bảo cho sự phát triển của đất nước; các thế lực thù địch luôn lờ đi
vấn đề quan trọng nhất trong nội dung chính trị của liên minh giai cấp là xây dựng và
bảo vệ vững chắc chế độ chính trị, giữ vững độc lập dân tộc và định hướng lên xã hội
chủ nghĩa, thay vào đó là những đề xuất về quyền lợi của nhóm hoặc cá nhân; ngồi ra,
vai trị lãnh đạo đất nước và khối liên minh công - nơng - trí của giai cấp cơng nhân
thơng qua sự lãnh đạo của Đảng cũng bị cơng kích. Bên cạnh đó, nội dung kinh tế của
liên minh cơng - nơng - trí cũng bị các thế lực chống đối phủ nhận những thành quả
phát triển về kinh tế - xã hội như phủ nhận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ


17


nghĩa; những nỗ lực và thành tựu đạt được trong tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ,
công bằng xã hội thường khơng được nhìn nhận, hoặc bị xun tạc ý nghĩa,… Hơn
nữa, các thế lực chống đối thường tán dương “con người kinh tế” với tư duy thị trường
lấy lợi ích cá nhân, lợi nhuận vị kỷ, chủ nghĩa thực dụng, làm “hình mẫu”, những thành
tựu xây dựng đời sống văn hóa của các giai cấp tầng lớp trong đổi mới bị phủ nhận
hoặc xuyên tạc, tầm thường hóa.
Thứ hai, sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo trong nội bộ liên minh ngày
càng sâu sắc, ảnh hưởng đến sự thống nhất, đoàn kết của GCTL. Trong điều kiện hội
nhập quốc tế, dưới tác động của kinh tế thị trường, đang có sự chênh lệch cao và phân
hóa về thu nhập giữa các GCTL; trong từng bộ bận cũng có sự chênh lệch, cụ thể số
cơng nhân lao động tay chân đơn giản có vị thế yếu trên thị trường lao động, có thu
nhập thấp và nhiều khó khăn trong đời sống, công nhân làm việc trong các thành phần
kinh tế khác nhau thì thu nhập của họ cũng khác nhau. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học và công nghệ dẫn đến sự phân tầng giữa cơng nhân có thu nhập cao ở các
ngành độc quyền, những ngành nghề mới, lao động phức tạp với cơng nhân có thu
nhập thấp ở những ngành nghề truyền thống, lao động giản đơn. Q trình đơ thị hố
làm nảy sinh vấn đề chênh lệch thu nhập, khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng,
có thể thấy rõ giữa các khu vực thành thị và nông thôn, giữa các nhóm thu nhập trong
xã hội, giữa các vùng kinh tế, giữa các địa phương,… số người giàu đang giàu lên
nhanh và là nhóm người thiểu số sở hữu nhiều của cải, vật chất trong xã hội.
Thứ ba, lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị, lý tưởng cách mạng của một bộ
phận công nhân bị phai nhạt, ảnh hưởng đến vai trị tiên phong của giai cấp cơng nhân
nước ta trong hội nhập quốc tế. Hiện nay, mặt trái của hội nhập quốc tế đang làm cho
công nhân nước ta không đồng đều về nhận thức xã hội, giác ngộ giai cấp, bản lĩnh
chính trị, ý thức tổ chức và kỷ luật lao động; khơng ít cơng nhân cịn chưa nhận thức
đầy đủ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình; ý chí phấn đấu, ý thức tổ chức kỷ luật,


18


tính tiên phong gương mẫu của một bộ phận cơng nhân giảm sút; chủ nghĩa cá nhân,
thực dụng, cơ hội có điều kiện phát triển nhanh chóng. Một bộ phận cơng nhân trẻ cịn
bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội, sống buông thả, phai nhạt lý tưởng, suy thoái về
đạo đức, lối sống, xa rời bản chất tốt đẹp của giai cấp công nhân, gây ảnh hưởng đến
doanh nghiệp và hình ảnh người cơng nhân Việt Nam trong q trình hội nhập quốc tế.
Nhiều cơng nhân chỉ chú trọng làm trọn phận sự, ít quan tâm đến các vấn đề chính trị,
xã hội dẫn đến chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ
chức chính trị - xã hội.
Thứ tư, một bộ phận trí thức có năng lực hạn chế, chưa đáp ứng u cầu của sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Điều đó do
nhiều lý do khác nhau, như phẩm chất cá nhân, điều kiện đào tạo, làm việc, chế độ đãi
ngộ. Trước tiên là, chất lượng trí thức cịn nhiều biểu hiện hạn chế biểu hiện ở sự chủ
động, tích cực, ở năng lực lao động sáng tạo, năng lực ứng dụng, chuyển giao tiến bộ
khoa học công nghệ để giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển đất
nước nói chung. Số lượng chuyên gia đầu ngành rất thiếu, đội ngũ kế cận cịn hụt hẫng,
tình trạng thiếu các chuyên gia, các nhà khoa học đầu ngành kéo dài khiến cho năng
lực sáng tạo, chất lượng các cơng trình, đề tài, sản phẩm lao động của trí thức chưa đáp
ứng yêu cầu thực tiễn. Tình trạng nguồn lực trí thức trực tiếp làm nghiên cứu, phát
triển và chuyển giao khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, chưa đủ về số
lượng, chất lượng và cơ cấu đã tồn tại quá lâu, nên nhiều vấn đề khoa học công nghệ
đang được đặt ra bức thiết mà không được giải quyết kịp thời, khiến cho xã hội bức
xúc. Một bộ phận trí thức lại bị hạn chế trong làm việc tập thể, có biểu hiện cục bộ, độc
quyền khoa học. Một bộ phận khác, thiếu ý chí phấn đấu, ít cố gắng vươn lên về
chun mơn, thậm chí cơ hội chủ nghĩa, thích làm quan, ngại làm việc khoa học cơng
nghệ. Cũng có bộ phận trí thức thiếu ý thức trách nhiệm, chạy theo bằng cấp, thiếu
trung thực, yếu kém đạo đức nghề nghiệp, chạy theo lợi ích trước mắt,…


19


3. Một số giải pháp tăng cường liên minh giữa các giai cấp, tầng lớp ở Việt Nam
hiện nay
Nhìn từ thành tựu trong liên minh giữa các GCTL và những hạn chế khó khăn
cịn gặp phải, tác giả đề xuất một số giải pháp tăng cường liên minh giữa các GCTL ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay như sau:
Một là, phát huy vai trị của hệ thống chính trị trong việc xây dựng khối liên
minh và khối đại đoàn kết dân tộc. Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể
cần chăm lo, phát huy và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân
chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đề cao vai
trị chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong
toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước yêu cầu đổi mới, chỉ có mở rộng
dân chủ xã hội chủ nghĩa mới có đồn kết thật sự và bền vững. Phát huy vai trò nòng
cốt của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức hoạt động, đa dạng hóa các
hình thức vận động, tập hợp nhân dân thiết thực, hiệu quả trong phát triển kinh tế - xã
hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị và chủ động hội nhập
quốc tế. Thực hiện và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của các tầng lớp nhân
dân.
Hai là, phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, đảm bảo hài hồ lợi ích
giữa các GCTL. Hiện nay, nước ta đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, phát triển hết sức nhanh chóng địi hỏi phát triển mạnh mẽ kinh tế công nhân, và
nông nghiệp, mở rộng giao lưu hàng hóa giữa thành thị và nơng thơn, bảo đảm lợi ích
của nơng dân, từng bước đưa nông dân lao động vào những hợp tác xã sản xuất từ thấp
đến cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa bảo đảm đời sống vật chất và nâng cao trình


20


độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho cơng nhân nhằm
duy trì và củng cố khối liên minh công - nông - trí thức. Tiếp tục đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, chú trọng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp nông
thôn gắn với xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ
khoa học công nghệ của các ngành, lĩnh vực để thực hiện liên minh giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay.
Ba là, đổi mới nội dung hình thức và xây dựng, hồn thiện nhân rộng các mơ
hình liên minh GCTL. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội,
các tổ chức nghề nghiệp trong các loại hình doanh nghiệp. Đổi mới hoạt động của tổ
chức cơng đoàn, hướng về cơ sở, nắm bắt kịp thời, thường xuyên nhu cầu, nguyện
vọng, lợi ích chính đáng, hợp pháp của cơng nhân và đấu tranh, bảo vệ lợi ích của họ.
Bốn là, tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở, thực hiện tốt Quy chế và
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở; nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức nghề nghiệp, xã hội của các GCTL. Cụ thể là cần tiếp tục đổi
mới hệ thống chính trị ở cơ sở và thực hiện tốt Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn
giúp tác động trực tiếp nội dung liên minh về chính trị, nhấn mạnh đến vai trò lãnh đạo,
chỉ đạo, tổ chức thực hiện của các tổ chức đảng, Nhà nước, đoàn thể đối với việc tăng
cường khối liên minh. Đồng thời, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của các
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức nghề nghiệp của cơng nhân, nơng dân, trí thức thơng
qua đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và chất lượng hoạt động của cơng đồn,
nghiệp đồn, Mặt trận tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội ở nơng thôn; nâng cao
chất lượng hoạt động của liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật, hội liên hiệp văn học
nghệ thuật,…
Năm là, thường xuyên đổi mới và thực hiện tốt chính sách xã hội, chính sách đối
với các GCTL xã hội. Trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước,
cần đầu tư, quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về


21


số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chun mơn, kỹ
năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp của công nhân. Xây dựng, phát huy vai trị
của giai cấp nơng dân, chủ thể của q trình phát triển nơng nghiệp, xây dựng nơng
thơn mới. Nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp và cải thiện chất lượng cuộc
sống của cư dân nông thôn; thực hiện có hiệu quả, bền vững cơng cuộc xóa đói, giảm
nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp. Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn
mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; tôn trọng và phát huy tự
do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo; trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh
giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có cơ chế, chính sách đặc biệt để
thu hút nhân tài của đất nước. Ngoài ra, cần chăm lo bồi dưỡng và phát huy vai trò của
thế hệ trẻ, đội ngũ doanh nhân, phụ nữ, Cựu Chiến binh, người cao tuổi, các cá nhân
tiêu biểu, các nhân sĩ, trí thức, người dân tộc thiểu số, các tín đồ, chức sắc tôn giáo và
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi trong cơng cuộc đổi mới, xây dựng và phát
triển nhanh, bền vững đất nước và chủ động hội nhập quốc tế.
Sáu là, củng cố vững chắc khối đại đồn kết dân tộc, tập hợp đơng đảo các giai
cấp tầng lớp. Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy
mạnh mẽ tinh thần u nước, ý chí tự cường, sức mạnh đại đồn kết toàn dân tộc và
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Muốn làm được như vậy, Mặt trận
Tổ quốc cần thực hiện tốt hơn nữa vai trò nịng cốt trong việc chủ trì hiệp thương, phối
hợp với các tổ chức thành viên và các cấp chính quyền động viên, phát huy tốt hơn nữa
vai trị đồn kết các GCTL, nêu cao vai trò của các cá nhân tiêu biểu trong tác giới
đồng bào, các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Bảy là, kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh có thể ảnh hưởng tới khối liên
minh. Liên minh GCTL bền vững phải dựa trên việc tôn trọng nhu cầu, lợi ích của
chính bản thân các chủ thể tham gia liên minh. Vì vậy, vấn đề cơ bản và xuyên suốt,
vừa là nội dung, vừa là nguyên tắc mang tính quy luật trong việc xây dựng khối liên


22


minh cơng - nơng - trí thức là phải xác định đúng các nhu cầu, phát hiện kịp thời các
nhu cầu mới nảy sinh của cơng nhân, nơng dân, trí thức trong từng giai đoạn cụ thể;
trên cơ sở những tiềm năng và thực trạng kinh tế - xã hội từ đó có giải pháp để thỏa
mãn các nhu cầu; xử lý đúng đắn, kịp thời những mâu thuẫn nảy sinh giữa các giai cấp.
Làm tốt điều này, sẽ củng cố, tạo nền tảng vững chắc cho việc xây dựng và phát triển
xã hội, hồn thành sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngồi ra, cần chủ
động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ, khắc phục sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, giữ gìn sự đồn kết, thống nhất trong Đảng, sự
đồng thuận xã hội.


23

PHẦN III: KẾT LUẬN
Tăng cường xây dựng khối liên minh giữa các GCTL là một trong những nội dung
quan trọng nhất trong tiến trình làm cách mạng xã hội chủ nghĩa đi đến thành công.
Hiện nay, nước ta đang trong công cuộc tiến hành đổi mới đất nước, quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, đồng thời nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy có
những tác động tích cực nhưng vẫn cịn đó những mặt tiêu cực đang đợi chúng ta khắc
phục. Chính vì thế, trong q trình hoạch định chính sách, đường lối và sách lược phát
triển kinh tế, Đảng và nhà nước ta vẫn cần và quan tâm tới xây dựng hệ thống các giai
cấp một cách đồng bộ, để nó có thể phát huy tốt vai trò là cơ sở cho nền tảng đại đoàn
kết toàn dân đưa đất nước đến nhiều thắng lợi mới. Đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí
Minh từng nói: “Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết. Thành cơng, thành cơng, đại thành
cơng”. Theo đó, liên minh giai cấp cơng - nơng - trí thức là hạt nhân, là cơ sở của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, thu hút mọi lực lượng yêu nước, tiến bộ vào một
mặt trận chung thống nhất vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Không ngừng củng cố, nâng cao chất lượng khối liên minh công - nơng - trí
thức theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng trong

thời kỳ mới.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.

C.Mác và Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, Tập 4.
C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, Tập 7.
C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, Tập 8.
Đảng bộ xã Nghĩa Bình (2020), Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ xã Nghĩa Bình lần

thứ XII (nhiệm kỳ 2020 – 2025), Bình Phước.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1965), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, Tháng
2/1951.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, Tập 1, tr. 34.
7. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa
học (Dùng cho hệ đào tạo cao cấp lý luận chính trị), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
8. Hồ Chí Minh (2002), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, Tập 8.
9. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, Tập 8.
10. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, Tập 10.
11. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, Tập 13.
12. Tạp chí xây dựng & Đơ thị (2021), Xây dựng nơng thơn mới gắn với q trình đơ thị
hóa, Tạp chí Xây dựng & Đơ thị, Số 79/2021.
13. Ngơ Sách Thực (2022), Phát huy vai trò của MTTQ Việt Nam và nhân dân trong xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Những vấn đề đặt
ra,


Trang

thơng

tin

điện

tử,

Mặt

trận

Tổ

quốc

Việt

Nam,

Nguồn:

truy cập ngày
10/5/2022.
14. Nguyễn Văn Tun, Trần Hồng Tuấn (2021), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt
Nam và những vấn đề đặt ra, Tạp chí Tài chính, Số kỳ 2, 8/2021.
15. V.I.Lênin (1977), Tồn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, Tập 38.

16. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, Tập 40.
17. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Nxb. Tiến bộ Mátxcơva, Tập 39.
18. V.I.Lênin (2006), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Tập 44.



×