Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Vấn đề xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.43 KB, 23 trang )

1

BÀI THU HOẠCH/ TIỂU LUẬN
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TÊN MƠN HỌC:

VĂN HOÁ VÀ PHÁT TRIỂN

TÊN BÀI THU HOẠCH/ TIỂU LUẬN:

VẤN ĐỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ,
CON NGƯỜI VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐẤT NƯỚC

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2022


MỤC LỤC


3

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Trong dịng chảy của văn hóa Việt Nam sau 35 năm đổi mới cho thấy, nhận thức
về văn hóa, con người ngày càng tồn diện, sâu sắc hơn. Tư tưởng, đạo đức và lối sống
- lĩnh vực then chốt của văn hóa đã có những chuyển biến tích cực; hệ thống chính sách
pháp luật về văn hóa tiếp tục được hoàn thiện, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia tích
cực vào hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hố. Văn hố đã có những đóng góp tích
cực, quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định tại Hội nghị Văn hóa tồn quốc


triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, ngày 24/11/2021: “Đứng trước
những thời cơ và thách thức mới, yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng nước ta
là phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, thực sự là “nền tảng tinh thần”, “động lực phát triển” và “soi đường
cho quốc dân đi”; phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của
toàn dân tộc để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thành công mục tiêu
đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa
thế kỷ 21”.
Như vậy, có thể thấy được rằng, xây dựng và phát triển văn hóa, con người có
vai trị vơ cùng quan trọng đối với mục tiêu phát triển và tiến bộ xã hội vì nó góp phần
kiến tạo nền tảng tinh thần cho đất nước; tạo động lực, nguồn lực nội sinh cho sự phát
triển bền vững đất nước và khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhận
thức được vai trò và ý nghĩa to lớn đó, bài nghiên cứu của tác giả tìm hiểu một số vấn
đề lý luận cơ bản về xây dựng và phát triển văn hoá, con người; đánh giá những thành
tựu đạt được và khó khăn, hạn chế trong việc xây dựng và phát triển văn hoá, con
người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và luận giải nguyên nhân của
những khó khăn, hạn chế; từ đó, đề xuất một số giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng


4

xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước trong giai đoạn hiện nay.
PHẦN II: NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận về xây dựng và phát triển văn hoá, con người
1.1. Khái niệm xây dựng và phát triển văn hoá, con người
Xây dựng và phát triển văn hoá là hoạt động của chủ thể văn hoá tác động làm
nảy sinh những giá trị mới của nền văn hố về quy mơ và chất lượng theo hướng chân,
thiện, mỹ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần dân tộc, khoa học, nhân văn, dân chủ, tiến bộ,

thúc đẩy toàn bộ các lĩnh vực hoạt động văn hoá, tạo ra các điều kiện cơ bản và cơ hội
cho con người tham gia vào quá trình sáng tạo, sản xuất, truyền bá, đánh giá và thưởng
thức các giá trị văn hoá, tạo ra mơi trường văn hố lành mạnh làm động lực thúc đẩy
quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [6, tr. 59]. Còn xây dựng và phát triển con người
là q trình tác động có chủ đích của các chủ thể để tạo điều kiện và cơ hội cho con
người phát triển tồn diện cả về trí tuệ, đạo đức, thể lực và năng lực thẩm mỹ [14]. Từ
những hoạt động phát triển văn hoá, con người được phát triển nhân cách, hình thành
phẩm chất, năng lực đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Như vậy, xây dựng và phát
triển văn hóa suy cho cùng cũng là vì con người, vì sự phát triển tồn diện của con
người; xây dựng và phát triển con người là vấn đề trung tâm của xây dựng, phát triển
văn hóa.
Phát triển văn hoá và con người Việt nam là một bộ phận cơ bản trong sự nghiệp
cách mạng của dân tộc, là một nhiệm vụ trọng yếu trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Xây dựng và phát triển văn hóa gắn với con người là cặp biện chứng, có mối quan hệ
tác động qua lại lẫn nhau. Văn hóa là mơi trường sản sinh ra những phẩm chất của con
người, có tác động đến sự hình thành nhân cách con người và con người lại là chủ thể
tác động trở lại văn hóa. Dưới tác động của con người, mơi trường văn hóa có thể thay
đổi và ngược lại. Chính vì vậy, phải đặc biệt chú ý làm sao để các giá trị văn hóa dân
tộc ln có tác động tích cực đến sự phát triển con người, hướng con người đến tự


5

nhận thức các chân giá trị thực sự, từ đó hành động có trách nhiệm với xã hội, với mơi
trường văn hóa để đóng góp vào sự phát triển lành mạnh của mơi trường văn hóa.
Xây dựng, phát triển đồng bộ và tồn diện văn hố và con người là điều kiện để
đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước. Phát triển bền vững đất nước đòi hỏi một
sự hợp lực chung của cả dân tộc, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, từ chính trị, kinh
tế, xã hội, văn hố, an ninh, quốc phịng, đối ngoại,… để tăng cường sức mạnh tổng
hợp quốc gia, trong đó phát triển văn hố và con người giữ vai trị quan trọng. Văn hố

khơng chỉ là nền tảng tinh thần mà còn là mục tiêu, động lực cho sự phát triển bền
vững [6, tr. 74]. Sự phát triển bền vững đất nước ở Việt Nam hiện nay hướng vào mục
tiêu là dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh. Sự phát triển văn hoá, con
người Việt Nam phải hướng tới thực hiện mục tiêu nêu trên để đất nước phát triển bền
vững. Bên cạnh đó, thực tiễn đã chứng minh, một quốc gia muốn phát triển ổn định,
bền vững, bên cạnh dựa vào các yếu tố cứng như đất đai, tài nguyên khoáng sản, cơ sở
vật chất, hạ tầng xã hội, tài chính,... thì cần phải biết tận dụng, khai thác yếu tố mềm,
đó chính là nguồn lực con người với vai trị là nhân cách văn hóa năng động, sáng tạo
nhất, đóng góp quyết định đến sự phát triển giàu mạnh, phồn vinh của đất nước và xã
hội. Đặc biệt, trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, con người
chính là tài nguyên, của cải quý giá nhất, nguồn lực to lớn nhất, quyết định nhất để tạo
nên vị thế, sức mạnh và thương hiệu quốc gia trên trường quốc tế. Từ những lý do đó,
càng địi hỏi phải chú trọng quan tâm xây dựng mơi trường văn hóa và ni dưỡng
những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp cho con người, làm cho xã hội và con người
khơng ngừng hồn thiện các giá trị chân - thiện - mỹ, hướng đến mục tiêu đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững của đất nước.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển văn hố, con người
Trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm
xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam là một nền văn hóa tồn diện, giữ gìn được cốt
cách dân tộc, bảo đảm tính khoa học, tiến bộ, lấy con người làm trung tâm cho sự phát


6

triển của văn hóa. Theo Người, văn hóa là sản phẩm của con người, do con người tạo
ra nhằm đáp ứng nhu cầu của chính con người. Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Tồn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt

cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu
đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [9, tr. 458]. Trong xây dựng văn hóa, Người chú
trọng phát triển văn hóa giáo dục, diệt “giặc dốt”, nâng cao dân trí với quan điểm “Một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu” [10, tr. 7] nên “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây,
vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” [11, tr. 528], Người chỉ rõ nâng cao dân trí,
hiểu biết văn hóa cho nhân dân, giáo dục con người tồn diện chính là tạo nguồn lực
nội sinh to lớn cho sự phát triển của dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, mọi hoạt động văn hóa phải trở về với cuộc sống
thực tế của quần chúng, phản ánh được tư tưởng và khát vọng của quần chúng. Người
căn dặn cán bộ làm công tác văn hóa: “Một vấn đề nữa phải đặt rõ là văn hóa phục vụ
ai? Cố nhiên chúng ta phải nói là phục vụ cơng nơng binh, tức là phục vụ đại đa số
nhân dân” [11, tr. 558]. Không chỉ xác định văn hóa phải đi vào đời sống quần chúng,
phục vụ quần chúng, Người cịn nhấn mạnh: “khơng thể nói nghệ thuật vị nghệ thuật,
mà cần nói rõ văn hóa phục vụ cơng nơng binh” [11, tr. 559]. Vì vậy, bên cạnh tính dân
tộc, tính khoa học, văn hóa phải mang tính đại chúng; ra đời từ trong quần chúng, là
sản phẩm do quần chúng nhân dân tạo ra và quay trở lại để phục vụ cho chính đời sống
của nhân dân. Theo Người, văn hố khơng tách rời kinh tế và chính trị, nó chịu sự chi
phối của kinh tế và chính trị nhưng mặt khác, nó có tác động trở lại to lớn đến kinh tế
và chính trị, cụ thể “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, khơng thể
đứng ngồi, mà phải ở trong kinh tế và chính trị” [8, tr. 368] và “Trong sự nghiệp vĩ đại
kháng chiến, kiến quốc của dân tộc ta, văn hoá gánh một phần rất quan trọng” [7, tr.


7

464]. Chính vì thế, Người coi văn hố nghệ thuật cũng là mặt trận, và anh chị em nghệ
sỹ là những chiến sỹ trên mặt trận ấy. Để làm tròn nhiệm vụ, chiến sỹ nghệ thuật cần có
lập trường vững, tư tưởng đúng... về sáng tác, thì cần thấu hiểu, liên hệ và đi sâu vào
đời sống của nhân dân thì mới bày tỏ được cái tinh thần anh dũng và kiên quyết của
quân và dân ta, đồng thời để giúp phát triển và nâng cao tinh thần ấy. Trong bản “Di

chúc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Đảng: “cần phải có kế hoạch thật tốt để phát
triển kinh tế và văn hóa, nhằm khơng ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” [12, tr.
612]. Cùng với chú trọng phát triển kinh tế, Người đã nêu rõ tầm quan trọng của văn
hóa, về mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để mang lại đời sống khơng những “ấm
no” mà còn phải “hạnh phúc” cho nhân dân.
1.3. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng và phát triển văn hoá, con người
Theo Tổng kết kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII thì lĩnh vực phát triển
văn hóa, con người, được Đại hội XIII nhận định: “đạt nhiều kết quả quan trọng. Nhận
thức về văn hóa, xã hội, con người ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn”. Hiện nay, nhiều
lĩnh vực, loại hình văn hóa mới ra đời, đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội; nhiều giá
trị văn hóa truyền thống tốt đẹp đã được kế thừa, bảo tồn và phát huy; phát triển con
người Việt Nam toàn diện - từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội; các vấn đề an sinh xã hội được quan tâm và bảo đảm, giảm nghèo bền
vững, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao rõ rệt,... Tuy nhiên,
Đảng ta cũng nhận định, lĩnh vực văn hóa xã hội chưa có nhiều đột phá, hiệu quả mang
lại chưa cao. Sở dĩ như vậy vì “Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và
chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền
vững đất nước. Vai trị của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng
tầm” [2, tr. 64].
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò, ý nghĩa đặc biệt của việc xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong định hướng phát triển đất nước
giai đoạn 2021 – 2030, cụ thể Đảng khẳng định: “phát triển con người toàn diện và xây


8

dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở
thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc” [3, tr. 330].
Văn hóa là động lực phát triển đất nước và con người với “tài năng, trí tuệ, phẩm chất
của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất

của đất nước” [3, tr. 330]. Một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội
XIII được Đảng ta xác định là “phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế” [3, tr. 336]. Trong Văn
kiện Đại hội XIII, vấn đề phát triển con người đã được gắn kết chặt chẽ với xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đảng đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát triển con người tồn diện
và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực
sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển bền vững đất nước và hội nhập
quốc tế. Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã nhấn mạnh một số nhiệm vụ quan trọng hiện
nay là “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ
giá trị văn hoá và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình
Việt Nam trong thời kỳ mới. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ
trẻ em, thiếu niên, nhi đồng. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc,
ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là cho thanh niên. Thực hiện
những giải pháp đột phá nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối
sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt
đẹp, bền vững trong truyền thống văn hoá Việt Nam,… Từng bước vươn lên khắc phục
các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn
kết chặt chẽ, hài hoà giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại,… Khẩn trương triển
khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành cơng nghiệp văn hố và dịch vụ gắn
phát triển văn hoá với phát triển du lịch. Xây dựng nền báo chí, truyền thơng chun
nghiệp, nhân văn và hiện đại,… Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin
độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần


9

phong mỹ tục. Nâng cao sức đề kháng của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là của thanh,
thiếu niên đối với văn hoá phẩm ngoại độc hại” [2, tr. 143-147].
Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: “Phát triển tồn diện, đồng bộ các

lĩnh vực văn hố, bảo đảm vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu
những tinh hoa văn hoá nhân loại tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập
quốc tế” [2, tr. 262]. Một trong những quan điểm phát triển bền vững đất nước giai
đoạn 2021-2030 được nêu ra tại Đại hội XIII là “Khơi dậy khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết
dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con
người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển;
lấy giá trị văn hoá, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo
đảm sự phát triển bền vững. Phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì
đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân” [2, tr. 215]. Những định hướng cơ bản
trong đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam có ý
nghĩa quan trọng, quyết định đến sự phát triển, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con
người Việt Nam nói riêng và sự thành công của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc,
hội nhập quốc tế.
2. Thực trạng và nguyên nhân thực trạng vấn đề xây dựng và phát triển văn hoá,
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
2.1. Những thành tựu trong vấn đề xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong những năm qua
Trong những năm qua, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đã có chuyển biến tích cực và đạt nhiều kết quả quan trọng, cụ thể như sau:
Thứ nhất, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được mở
rộng và đi vào chiều sâu mang lại hiệu quả thiết thực. Các nội dung, tiêu chí trong
phong trào đều gắn với cuộc sống hằng ngày của người dân, do đó việc thực hiện trở


10

thành xu hướng tất yếu để xây dựng đời sống văn hóa, mơi trường văn hóa phong phú,
lành mạnh. Việc xây dựng các gia đình văn hóa - tế bào của xã hội, phong trào xây

dựng gương người tốt, việc tốt, các điển hình tiên tiến,... ngày càng được phát huy,
nhân rộng, tổng kết phong trào đã có trên 1.200.000 gương người tốt, việc tốt;
18.651.317/21.771.790 gia đình được cơng nhận “Gia đình văn hóa”; 73.984/104.609
được cơng nhận làng, thơn, ấp, bản, tổ dân phố văn hóa; 84.785/114.972 được cơng
nhận cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp văn hóa. Trên tồn quốc có 70 thiết chế văn hóa
cấp tỉnh; 589/707 quận, huyện có trung tâm văn hóa - thể thao hoặc nhà văn hóa huyện,
đạt tỷ lệ khoảng 83,3%; 6.102/11.027 xã, phường, thị trấn có trung tâm văn hóa - thể
thao, đạt tỷ lệ 55,3%; 68.222/113.607 thơn, bản, bn, làng... có nhà văn hóa, đạt tỷ lệ
60%; các thiết chế văn hóa thuộc các bộ, ngành, đoàn thể bao gồm 28 nhà văn hóa lao
động cấp tỉnh, 17 nhà văn hóa lao động cấp huyện và trên 100 nhà văn hóa cơng nhân
trong các doanh nghiệp; 80 cung, nhà thiếu nhi cấp tỉnh, 189 cung, nhà thiếu nhi cấp
huyện, nhà văn hóa thiếu nhi các ngành và các nhà văn hóa thuộc quân đội, công an
nhân dân [15].
Thứ hai, các sản phẩm, dịch vụ văn hoá ngày càng phát triển, đa dạng về nội
dung và hình thức, đáp ứng nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ đa dạng của công chúng.
Những năm gần đây, thị trường văn hóa đang hình thành và phát triển đa dạng cả về
nội dung và hình thức. Nhiều loại hình, sản phẩm, dịch vụ văn hóa mới đã, đang được
tìm tịi, thể nghiệm, trình diễn, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng, có chiều sâu của
các tầng lớp nhân dân và bắt đầu vươn ra thế giới. Nhiều sản phẩm mới được sáng tác,
đầu tư, dàn dựng công phu, phong phú và khá đặc sắc, xuất hiện nhiều điểm sáng trong
các lĩnh vực của các ngành cơng nghiệp văn hóa. Diện mạo của một nền cơng nghiệp
văn hóa sơi động, đa sắc, phát triển ngày một chuyên nghiệp đang từng bước hình
thành, bước đầu tham gia tích cực vào q trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
[5]. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Các lĩnh vực, loại hình, sản phẩm văn
hóa phát triển ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu mới, nhiều mặt của đời sống xã


11

hội” [2, tr. 64]. Những sản phẩm và dịch vụ văn hóa lành mạnh có chức năng giáo dục,

định hướng giá trị, giải trí… góp phần nâng cao nhận thức của con người.
Thứ ba, xây dựng nếp sống văn hóa, đạo đức, lối sống ngày càng được chú trọng
và phát huy hiệu quả. Xã hội đã hình thành những mơ hình xây dựng lối sống, nếp
sống và mơi trường văn hóa tiến bộ, hình thành những chuẩn giá trị về tư tưởng và đạo
đức đó là lịng u nước, thương người, năng động, sáng tạo, sống có khát vọng và bản
lĩnh chính trị vững vàng, có mục đích rõ ràng, luôn hướng tới cái mới, cái khác biệt,
tiếp thu xu hướng văn hóa tiến bộ lành mạnh từ bên ngồi. Bên cạnh đó, hình thành
những chuẩn mực tư tưởng, đạo đức, lối sống văn hóa mới, mọi người hướng tới một
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và tiến bộ; các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”,
“Uống ước nhớ nguồn”,… những cử chỉ đẹp, lối sống đẹp, lòng nhân ái ngày càng lan
tỏa trở thành ý thức tự giác trong xã hội; xuất hiện nhiều tấm gương đạo đức, hành
động xả thân vì xã hội, dũng cảm cứu người trong các tầng lớp nhân dân, nhất là trong
thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh COVID-19,... Hơn nữa, việc thực hiện nếp sống văn minh
trong việc cưới, việc tang, lễ hội trên địa bàn cả nước đã có nhiều chuyển biến tích cực,
kịp thời đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, hạn chế và đẩy lùi
những hiện tượng tiêu cực, những hủ tục. Nhiều địa phương đã tổ chức cưới, tang văn
minh, tiết kiệm, gọn nhẹ, giảm bớt các hủ tục phiền hà. Nhiều nét văn hóa mới được
phát huy như tổ chức các đám cưới khơng hút thuốc, xuất hiện mơ hình tổ chức các
đám cưới tập thể.
Thứ tư, góp phần phát triển con người, nâng cao dân trí, dân chủ hố đời sống xã
hội, nâng cao tính năng động sáng tạo, tự chủ và tính tích cực xã hội của con người.
Vấn đề phát triển con người Việt Nam những năm qua được đánh giá có nhiều chuyển
biến tích cực và đạt kết quả quan trọng. Theo Báo cáo, Chỉ số phát triển con người
(HDI) năm 2019 là 0,704 đưa Việt Nam vào nhóm phát triển con người cao và xếp thứ
117 trong số 189 quốc gia và vùng lãnh thổ; từ năm 1990 - 2019, giá trị HDI của Việt
Nam đã tăng gần 46%, nằm trong số các nước có tốc độ tăng HDI cao nhất trên thế


12


giới. Tiến bộ phát triển con người của Việt Nam đã đạt được với mức độ bất bình đẳng
vừa phải và ổn định, cụ thể là mức giảm giá trị HDI của Việt Nam do bất bình đẳng vào
năm 2019 là 16,5%, giảm thu nhập do bất bình đẳng là 19,1% và hệ số GINI (đo lường
bất bình đẳng thu nhập) ở mức 35,7, là một trong những mức thấp nhất trong khu vực
Đơng Á và Thái Bình Dương. Báo cáo Phát triển con người toàn cầu năm 2020 cũng
chỉ ra rằng Việt Nam đã và đang thực hiện tốt bình đẳng giới; với chỉ số phát triển giới
(GDI) là 0,997, Việt Nam đứng thứ 65 trong số 162 quốc gia và nằm trong nhóm cao
nhất trong 5 nhóm trên thế giới; đặc biệt, tỷ lệ nữ đại biểu quốc hội đưa Việt Nam vào
nhóm cao nhất trong 3 nhóm trên toàn cầu. Về chất lượng phát triển con người, Việt
Nam thực hiện tốt các chỉ số y tế, giáo dục, việc làm và phát triển nông thôn. Việt Nam
nằm trong nhóm đầu trong 3 nhóm về số năm khơng sống khỏe theo tỷ lệ phần trăm
tuổi thọ (11,7%) và số giường bệnh (32 giường/100.000 dân) [4].
Thứ năm, các giá trị văn hóa Việt Nam được giữ gìn, phát huy, lan tỏa và được
thế giới ghi nhận và trở thành một phần trong kho tàng văn hóa nhân loại. Các giá trị,
chuẩn mực cốt lõi của văn hóa, của mơi trường văn hóa được gìn giữ, phát huy; các giá
trị mới, chuẩn mực mới từng bước được hình thành, hồn thiện; nhiều giá trị di sản văn
hóa vật thể và văn hóa phi vật thể được bảo tồn, tơn tạo; nhiều phong tục, tập quán của
đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng; hoạt động tín
ngưỡng, tơn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được quan tâm; truyền
thống văn hóa gia đình, dịng họ, cộng đồng được phát huy. Hệ thống di sản văn hóa
được khai thác, gắn kết việc đẩy mạnh xây dựng mơi trường văn hóa, xây dựng đời
sống văn hóa, phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững. Các loại hình của văn hóa
Việt Nam ngày càng gần với các chuẩn mực quốc tế, được cộng đồng thế giới biết đến
và đánh giá tích cực. Tính đến năm 2020, cả nước có 28 di sản văn hóa vật thể và phi
vật thể được UNESCO ghi danh, trở thành tài sản di sản chung của văn hóa nhân loại;
có 301 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; 191 nhóm hiện vật và nhóm hiện vật được
cơng nhận là bảo vật quốc gia. Ngồi ra, cịn có gần 3.500 di tích quốc gia; 122 di tích


13


quốc gia đặc biệt, 168 bảo tàng thường xuyên lưu giữ và trưng bày khoảng 3 triệu tài
liệu, hiện vật... Áo dài Việt Nam ngày càng khẳng định vị trí là bộ trang phục đại diện
cho sắc phục Việt Nam, do người Việt Nam sáng tạo, biểu tượng cho hình ảnh người
phụ nữ Việt Nam và đại diện cho văn hóa bản sắc dân tộc Việt Nam ra thế giới. Các giá
trị văn hóa khơng chỉ góp phần quảng bá hình ảnh, đất nước con người Việt Nam mà
đã trở thành một nguồn lực nội sinh quan trọng cho phát triển. Hệ thống di sản văn hóa
trải khắp đất nước chính là nguồn lực to lớn cho cơng cuộc xây dựng đất nước thông
qua phát triển du lịch.
Thứ sáu, đội ngũ làm cơng tác văn hóa, văn nghệ có bước trưởng thành và ngày
càng nâng cao chất lượng. Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ văn hóa các cấp
khơng ngừng được bổ sung, gia tăng về số lượng lẫn chất lượng; bộ máy quản lý văn
hóa từ trung ương đến địa phương được kiện toàn, tạo mạng lưới cán bộ văn hóa rộng
khắp trên mọi miền, giúp cho lĩnh vực văn hóa, nhất là đời sống văn hóa tinh thần của
người dân ngày càng phong phú đa dạng. Đội ngũ cán bộ văn hóa có tâm, có tầm, có
trách nhiệm đã có những đóng góp quan trọng vào việc khai thơng, “mở đường” phát
triển văn hóa; sẵn sàng nhận những nhiệm vụ khó khăn, đem tri thức, thơng tin hữu ích
đến với đồng bào, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; cổ vũ,
khuyến khích mọi thành phần, tầng lớp khơng ngừng nỗ lực vươn lên, xây dựng cuộc
sống ngày càng ấm no, hạnh phúc. Tính đến năm 2020, riêng đội ngũ cán bộ, cơng
chức của Bộ Văn hố, Thể thao và Du lịch đã đạt 880 người; đội ngũ cán bộ văn hóa có
trình độ, năng lực ở các địa phương cũng tăng lên về số lượng, được biên chế ở các
phòng chuyên mơn thuộc cấp sở như phịng Nghiệp vụ văn hóa, phịng Xây dựng nếp
sống văn hóa và gia đình, phịng Quản lý di sản với mức định biên cán bộ khoảng từ 57 người/phòng. Ở cấp huyện, cán bộ văn hóa được định biên từ 5-7 người, làm việc ở
phịng Văn hóa Thơng tin. Hiện nay, 100% xã, phường, thị trấn trên cả nước đều bố trí
ít nhất 1 cán bộ cơng chức chun trách Văn hóa - Xã hội, giúp chính quyền xây dựng
kế hoạch tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch; vận động nhân dân và các


14


tổ chức, đơn vị thực hiện xã hội hóa, huy động các nguồn lực để xây dựng, phát triển
sự nghiệp văn hóa ở địa phương. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ văn hóa các cấp cịn
được tuyển dụng, biên chế, hợp đồng lao động tại các Trung tâm văn hóa cấp tỉnh, cấp
huyện (với định biên từ 10-15 người ở Trung tâm văn hóa cấp tỉnh; 8-10 người đối với
Trung tâm văn hóa cấp huyện) [13].
Thứ bảy, giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa được mở rộng và có nhiều khởi
sắc. Các hoạt động giao lưu văn hố, biểu diễn nghệ thuật, lễ hội văn hóa - du lịch,
chiếu phim, triển lãm sách, ảnh, sản phẩm văn hóa - nghệ thuật, hội thảo, xúc tiến,
quảng bá du lịch... nhằm giới thiệu hình ảnh đất nước, con người Việt Nam liên tục
được tổ chức ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tại các tổ chức như Tổ
chức Du lịch thế giới của Liên hợp quốc (UNWTO), Quỹ Văn hóa dân gian quốc tế
(IGF), Tổ chức Triển lãm thế giới (BIE), Tổ chức Sở hữu trí tuệ quốc tế (WIPO), Tổ
chức Văn hóa - Giáo dục và Khoa học của Liên hợp quốc (UNESCO), Chương trình
phát triển của Liên hợp quốc (UNDP)…, đại diện Việt Nam đã thể hiện được sự năng
động, tinh thần trách nhiệm, đóng góp một số sáng kiến được ghi nhận, góp phần nâng
cao vị thế đất nước. Cùng với đó là việc thành lập và hoạt động của các cơ sở văn hóa
của nhiều nước tại Việt Nam, như Viện Goethe của Đức, Thư viện Phịng Văn hóa Sứ
qn Mỹ; các trung tâm văn hóa và ngơn ngữ của Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc… tạo
điều kiện đẩy mạnh hoạt động giao lưu văn hóa của nước ta. Thực tế mỗi năm, nước ta
ký khoảng 20 văn bản hợp tác văn hóa với các nước và ngày càng chú ý hơn tới hiệu
quả của việc triển khai hợp tác [1]. Thông qua nhiều hoạt động giao lưu và hợp tác
quốc tế về văn hoá, Việt Nam từng bước nâng cao khả năng hội nhập văn hóa; tiếp
nhận hiệu quả những giá trị văn hóa, nghệ thuật và phương thức thể hiện hiện đại, hấp
dẫn, tiêu biểu của thế giới, làm phong phú và nâng tầm về cả hình thức, nội dung, giá
trị các sản phẩm văn hóa dân tộc.


15


2.2. Khó khăn, hạn chế và nguyên nhân dẫn đến khó khăn, hạn chế trong vấn đề
xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước trong những năm qua
Sau 35 năm đổi mới đất nước, mặc dù đạt được rất nhiều kết quả quan trọng
trong việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam nhưng vẫn cịn khơng ít
hạn chế, yếu kém, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển bền vững đất nước, một số
hạn chế, yếu kém có thể kể đến như sau:
Thứ nhất, lĩnh vực văn hóa nhìn chung chưa được quan tâm tương xứng với
kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành mục tiêu, thành động lực nội sinh của sự
phát triển bền vững đất nước. Hiện nay, so với những thành tựu đạt được trên lĩnh vực
chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,... thành tựu trong lĩnh vực văn hóa là
chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả tới xây dựng con người và mơi
trường văn hóa lành mạnh. Đầu tư cho văn hóa từ Trung ương đến địa phương chưa
tương xứng với với vị trí, vai trị, tác dụng của văn hóa trong phát triển. Bên cạnh đó,
cơng tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm đổi mới, có lúc, có nơi cịn bị xem nhẹ,
đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và cịn dàn trải. Ngun nhân chủ yếu là
do một số tàn dư văn hóa cũ, lạc hậu; ảnh hưởng mặt trái của nền kinh tế thị trường,
hội nhập quốc tế; nhận thức và việc cụ thể hóa chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà
nước về văn hóa ở một số địa phương, lĩnh vực chưa theo kịp yêu cầu phát triển; điều
kiện kinh tế, xã hội của Việt Nam cịn khơng ít khó khăn, do đó đầu tư cho phát triển
văn hóa cịn hạn chế.
Thứ hai, nguồn nhân lực cho sự phát triển văn hóa cịn hạn chế. Thiếu các kỹ
năng và kiến thức chuyên môn, nhất là công tác lãnh đạo, quản lý văn hóa trong bối
cảnh nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, kinh tế tri thức, xã hội số, văn hóa số.
Năng lực đổi mới sáng tạo trong văn hóa, văn nghệ cịn nhiều hạn chế, bất cập. Đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, văn học, nghệ thuật chưa theo kịp với yêu cầu
của đời sống văn hóa, văn nghệ ngày càng mới mẻ, phức tạp. Cán bộ làm công tác văn


16


hóa ở các cấp cịn tình trạng chắp vá, trình độ chun mơn cịn hạn chế; cịn thiếu hụt
cán bộ có năng lực, uy tín, bản lĩnh ở tầm chiến lược, cả cơ quan của Đảng và các cơ
quan Nhà nước.
Thứ ba, mơi trường văn hóa cịn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái
với thuần phong mỹ tục; mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng. Văn
hóa ứng xử nơi cơng cộng, ở cơng sở, trong gia đình, nhà trường có nhiều bất cập; hiện
tượng mê tín, dị đoan có chiều hướng lan rộn; lối sống thiếu lý tưởng, hoài bão, thiếu ý
chí phấn đấu có phần gia tăng trong thế hệ trẻ; các hành vi bạo lực, phản cảm, ứng xử
thiếu văn hóa, bệnh dối trá, đạo đức giả, nói khơng đi đôi với làm, sự xuống cấp về đạo
đức, suy thoái về lối sống, sự băng hoại các giá trị văn hóa đang có chiều hướng phát
triển tạo nên sự lo lắng, bất an của xã hội. Việc cưới, việc tang, lễ hội còn biểu hiện
tiêu cực, hiện tượng thương mại hóa, mê tín dị đoan ở một số lễ hội chưa được xử lý
triệt để.
Thứ tư, khoảng cách đời sống văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô
thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Trong những năm qua, mặc dù
Đảng và Nhà nước đã có nhiều cơ chế, chính sách ưu tiên phát triển văn hóa vùng miền
núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, nhưng đời sống văn hóa tinh thần ở
nhiều nơi cịn nghèo nàn, đơn điệu, khoảng cách về hưởng thụ văn hóa so với khu vực
đô thị và các khu vực khác vẫn chậm được thu hẹp. Ở nhiều vùng, các sinh hoạt và
hoạt động văn hố cịn nhiều thiếu thốn, yếu kém; các thiết chế văn hóa, thể thao tuy đã
được quan tâm đầu tư xây dựng, nhưng hoạt động thiếu hiệu quả, nội dung, phương
thức nghèo nàn, trùng lặp, không phù hợp với truyền thống văn hóa và điều kiện kinh
tế, địa lý.
Thứ năm, các cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, tiêu cực xã hội
chưa thường xuyên, liên tục. Nhiều nơi còn coi nhẹ việc đấu tranh, phòng chống các
biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trên lĩnh vực văn hóa, ảnh hưởng đến nhiệm vụ xây dựng con người. Những giải



17

pháp mang tính đột phá khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam chưa
được đề xuất.
Thứ sáu, chất lượng văn hố vẫn cịn hạn chế. Việc thiếu quan tâm đến đời sống
văn hóa người dân, chạy theo các danh hiệu văn hóa; thả nổi trùng tu di tích, xây dựng
cổng chào, tượng đài, phù điêu, bảo tàng phơ trương, lãng phí… đã gây nên tình trạng
rối loạn trong hoạt động văn hóa. Phần lớn các hoạt động văn hóa lớn, các lễ hội tưởng
niệm, lễ hội du lịch, các chương trình nghệ thuật, các tuần văn hóa … đều được tổ chức
ở các thành phố lớn, các khu đô thị; khu vực nông thôn hiện nay dù đã có các Nhà văn
hóa nhưng có rất ít hoạt động, nội dung sinh hoạt còn chưa đa dạng và thiếu chiều sâu,
chủ yếu là dùng để họp hành. Các sinh hoạt văn hóa của đồng bào dân tộc và miền núi
còn chưa được coi trọng, chưa phát huy được thế mạnh bản sắc riêng về văn hóa.
3. Một số giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng xây dựng và phát triển văn hoá,
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong giai
đoạn hiện nay
Xuất phát từ 5 quan điểm về xây dựng và phát triển văn hoá, con người trong
giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã đưa ra 6 nhiệm vụ rất cơ bản và bao quát một cách toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực và các hoạt động văn hóa liên quan đến văn hóa, con người
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Để thực hiện tốt 5 quan điểm, 6 nhiệm vụ
trên, theo tác giả, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, đẩy mạnh giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn lực con người - động lực
quyết định nhất cho phát triển bền vững đất nước. Trong hệ thống động lực phát triển
đất nước, Hồ Chí Minh ln cho rằng xét cho đến cùng, con người chính là nguồn
động lực quan trọng nhất, quyết định nhất. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
cho sự phát triển. Vì vậy, giáo dục, đào tạo cần phải tiếp tục được coi là quốc sách hàng
đầu, chiến lược “trồng người” phải trở thành một trong những chiến lược trọng tâm,
hợp thành chiến lược phát triển đất nước. Cần giáo dục con người Việt Nam phát triển



18

tồn diện, có đức - trí - thể - mỹ, có thể chất, nhân cách, đạo đức, lối sống, ý thức tơn
trọng pháp luật, có trách nhiệm cơng dân.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa nói riêng và người Việt
Nam nói chung phát triển cả về đạo đức, phẩm chất, trình độ, năng lực. Xây dựng, phát
triển nguồn nhân lực văn hóa đóng vai trò quan trọng, là động lực của sự phát triển đất
nước nói chung, phát triển văn hóa nói riêng. Qua đó, yêu cầu phải xây dựng chiến
lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa. Quan tâm xây dựng các trường văn hóa, nghệ
thuật, tạo sự chuyển biến cơ bản về chất lượng và quy môn đào tạo. Đổi mới, nâng cao
chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế.
Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tơn vinh cán bộ lĩnh vực văn
hóa, nghệ thuật; trọng dụng người có tài, có đức.
Ba là, tiếp tục rà soát, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tạo cơ sở pháp lý
giải phóng mọi tiềm năng xã hội chăm lo, phát triển con người. Đổi mới cơ chế và
phương pháp giáo dục nhân cách, tư tưởng, lý luận chính trị, đạo đức cách mạng phù
hợp với từng đối tượng. Khẩn trương đúc kết và sớm ban hành hệ giá trị chuẩn mực
con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Xây dựng
lối sống “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”, tuân thủ pháp luật, bảo vệ
môi trường, uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa, tương thân, tương ái, quan tâm
giúp đỡ người khác, tôn vinh, nhân rộng các giá trị tốt đẹp, nhân văn.
Bốn là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về giá trị văn hóa
dân tộc Việt Nam. Đổi mới cơng tác tư tưởng, giáo dục lý luận chính trị, khắc phục
giáo điều, máy móc, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, tơn trọng đối thoại, phản biện xã hội,
tăng tính thuyết phục từ kết quả đổi mới đất nước, tạo sự nhất trí trong Đảng, đồng
thuận xã hội về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về giá trị văn
hoá dân tộc. Phổ cập rộng rãi các tác phẩm văn học, nghệ thuật, các chương trình giáo
dục văn hóa, nghệ thuật truyền thống và hiện đại nhằm nâng cao năng lực cảm thụ
thẩm mỹ, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm nhân văn, tạo bản lĩnh và sức đề kháng giúp



19

người dân chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, bảo vệ truyền thống văn hóa tốt đẹp
của dân tộc. Hơn nữa, cần đấu tranh chống các quan điểm sai trái, các khuynh hướng
sáng tác phản tiến bộ, nhân văn, tha hóa con người trong lĩnh vực văn hóa, văn học,
nghệ thuật.
Năm là, cần gắn kết chặt chẽ giữa phát triển văn hóa với phát triển con người.
Văn hóa được coi là một trụ cột để phát triển bền vững đất nước, nhưng trụ cột văn hóa
có mạnh, có kết hợp với các trụ cột chính trị, kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh để
mang lại sự bền vững hay không là phụ thuộc vào nhân tố con người. Con người phát
triển tồn diện thì khơng chỉ trụ cột văn hóa mà các trụ cột khác như kinh tế, chính trị,
xã hội và quốc phịng, an ninh cũng được bảo đảm vì con người chính là yếu tố quan
trọng để thực hiện phát triển hài hòa các yếu tố cho phát triển bền vững. Con người
càng phát triển các giá trị văn hóa dân tộc tốt đẹp cũng được giữ vững và nâng cao.
Như vậy, muốn phát triển văn hóa phải chăm lo, phát huy nhân tố con người, phát triển
văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với phát triển con người.
Sáu là, nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa”. Qua đó, cần đặc biệt chú trọng các phong trào hạt nhân, như phong trào xây
dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa và phong trào thi đua người tốt, việc tốt và các
điển hình tiên tiến. Thường xuyên chú trọng cơng tác tơn vinh, khen thưởng những
điển hình tiên tiến về tư tưởng, đạo đức, lối sống, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
Tiếp tục đẩy mạnh việc nêu gương người tốt, việc tốt; lấy nhân tố tích cực để đẩy lùi
tiêu cực; đồng thời, phê phán, đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng
chính trị, vi phạm những chuẩn mực đạo đức, lối sống.
Bảy là, tăng cường các nguồn lực cho văn hóa về đầu tư của Nhà nước, về xã
hội hóa, về quản lý, về thiết chế văn hóa, về nghiên cứu lý luận và đầu tư các nguồn
lực phát triển con người tồn diện. Để phát triển văn hóa, con người, Nhà nước cầu đầu
tư mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa, con người ngang với đầu tư cho phát triển
kinh tế. Bởi lẽ, chung quy mọi sự phát triển đều do con người, vì con người. Nếu giá trị



20

văn hóa bị biến đổi theo chiều hướng tiêu cực, con người bị suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Vì thế, Nhà
nước cần đầu tư cả về tài lực, vật lực và có kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ để thực hiện
mục tiêu xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam hiện nay.


21

PHẦN III: KẾT LUẬN
Văn hóa khơng chỉ là nền tảng tinh thần, mục tiêu, động lực của sự phát triển mà
nguồn vốn văn hóa truyền thống và những giá trị tiếp biến hiện tại đang là tài nguyên
vô giá, là sức mạnh nội sinh, “sức mạnh mềm”, góp phần quan trọng vào quá trình phát
triển bền vững đất nước. Trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập kinh tế ngày càng sâu sắc, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu trên các mặt về
xây dựng và phát triển văn hoá, con người. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
của nước ta trong phát huy cao độ nhân tố con người và yếu tố văn hóa để góp phần
thúc đẩy đất nước phát triển nhanh, bền vững. Tuy vậy, nước ta vẫn cịn nhiều khó
khăn, yếu kém và thách thức lớn đang chờ đón; điều đó đặt ra yêu cầu cấp thiết là coi
trọng xây dựng và phát triển văn hoá, con người với những giải pháp thiết thực, hiệu
quả.
Như vậy, trong thời gian tới, cần tiếp tục nâng cao nhận thức trong tồn Đảng, tồn dân
về vị trí, vai trị của phát triển văn hóa, xây dựng con người trong đổi mới và phát triển
bền vững đất nước; xác định phát triển văn hoá và xây dựng con người là nhiệm vụ
trọng tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị. Đồng thời, gắn
các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển văn hoá và xây dựng con người với các mục tiêu,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, vùng và địa phương, từng cơ quan,

đơn vị; tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá
trị văn hoá và chuẩn mực con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia
đình Việt Nam trong thời kỳ mới.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thanh Bình (2021), Giao lưu văn hóa thế giới trong chiến lược phát triển văn hóa

của Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, Cơ quan lý luận chính trị của Ban chấp hành Trung
ương

Đảng

Cộng

sản

Việt

Nam,

Nguồn:

truy cập ngày 19/02/2022.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, Tập I.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, Tập II.
4. Thanh Hằng (2020), Việt Nam vào nhóm các nước có chỉ sổ phát triển con người cao,
Báo điện tử Chính phủ, Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nguồn:

truy cập ngày 19/02/2022.
5. Cao Thu Hằng (2021), Phát triển sản phẩm và dịch vụ văn hoá ở nước ta hiện nay, Tạp

chí Cộng sản, Cơ quan lý luận chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt

Nam,

Nguồn:

/>
truy

cập

ngày

19/02/2022.
6. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Văn hố và phát triển
(Dùng cho hệ đào tạo cao cấp lý luận chính trị), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
7. Hồ Chí Minh (1995), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, Tập 5.
8. Hồ Chí Minh (1995), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, Tập 6.
9. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, Tập 3.
10. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, Tập 4.
11. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, Tập 11.
12. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, Tập 15.


13. Nguyễn Huy Phòng (2021), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ văn hố trong tình


hình mới, Tạp chí Tuyên giáo, Tạp chí của Ban Tuyên giáo Trung ương, Nguồn:
truy cập ngày 19/02/2022.
14. Phạm Thị Mỹ Phượng (2021), Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng

và phát triển văn hóa, con người hiện nay, Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Tiền Giang, Nguồn:
truy cập ngày 19/02/2022.
15. Trịnh Thị Thuỷ (2020), Nâng cao chất lượng, hiệu quả, tạo ảnh hưởng sâu rộng phong
trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, Tạp chí Cộng sản, Cơ quan lý
luận chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguồn:
truy
cập ngày 19/02/2022.



×