Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

(TIỂU LUẬN) quan điểm của triết học mác lênin về tri thức, vai trò của tri thức và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.35 KB, 14 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

Đề tài: “Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tri thức, vai trò của tri thức và
sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên”

Họ và tên:
Mã số sinh viên:
Lớp TC:
GV hướng dẫn:


Mục lục
Lời mở đầu............................................................................................................3
I. Khái niệm tri thức............................................................................................4
II. Quan điểm của Mác-Lênin về tri thức.............................................................5
III.

Vai trò của tri thức........................................................................................8

III.1. Vai trò đối với nền kinh tế..........................................................................8
III.2. Vai trò của tri thức với chính trị.................................................................9
IV.

Vai trị của tri thức trong văn hóa, giáo dục................................................11

V. Vận dụng quan niệm của triết học Mác – Lênin về tri thức trong nghiên cứu,
học tập của sinh viên............................................................................................13
VI.


Kết luận.......................................................................................................13

VII. Tài liệu tham khảo......................................................................................14

2


Lời mở đầu
Sự xuất hiện của triết học Mác là một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử triết
học. Đó là kết quả tất yếu của sự phát triển lịch sử tư tưởng triết học và khoa học
của nhân loại, trong sự phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội, mà trực
tiếp là thực tiễn đấu tranh của giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Đó cũng là kết
quả của sự thống nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của C.Mác
và Ph.Ăngghen. Trong sự nghiệp nghiên cứu khoa học của mình, Mác đã nghiên
cứu tồn diện và sâu sắc tồn bộ tri thức nhân loại đã sáng tạo ra, Mác đã nghiền
ngẫm lại một cách có phê phán, khơng hề bỏ sót một điểm nào. Trong hệ thống
di sản lý luận mà V.I.Lênin để lại cho nhân loại, thì quan điểm về trí thức đóng
vai trị quan trọng. Theo ơng, trí thức có vai trị to lớn trong xã hội, việc xây
dựng liên minh giữa giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức là sự bảo đảm vững
chắc cho việc xây dựng nền sản xuất công nghiệp hiện đại và đứng vững trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Muốn trở thành người cộng sản, nhất là
đối với thanh niên, thế hệ trẻ thì phải khơng ngừng học tập, nghiên cứu để có tri
thức tồn diện, phong phú và sâu sắc. Ông cũng nhấn mạnh: “Muốn trở thành
người cộng sản, nhất là đối với thanh niên, thế hệ trẻ thì phải khơng ngừng học
tập, nghiên cứu để có tri thức tồn diện, phong phú và sâu sắc”. Có thể nói trong
suốt lịch sử lồi người, tri thức ln đóng vai trị quan trọng trong việc đưa nhân
loại tiến hóa và phát triển khơng ngừng trong hàng ngàn năm. Nhận thấy tiềm
năng khai thác to lớn này, em đã quyết định lựa chọn đề tài: “Quan điểm của triết
học Mác - Lênin về tri thức, vai trò của tri thức và sự vận dụng quan điểm đó
trong nghiên cứu, học tập của sinh viên” là đề tài cho bài tập lớn triết học này.

Cuối cùng, vì đây là bài tập lớn đầu tay nên có thể khơng tránh khỏi những sai
sót, nên em rất mong nhận được những góp ý của cơ để ngày càng hồn thiện
hơn những sản phẩm tiếp theo của mình.
Em cảm ơn cơ vì theo dõi bài làm của em!

3


I.

Khái niệm tri thức.

"Tri thức" là một khái niệm mơ hồ nhưng nhận được nhiều sự quan tâm của mọi
người, nhưng khơng có một lời giải thích hay định nghĩa chính xác về khái niệm
này. Ngay từ khi cịn nhỏ, cất tiếng khóc chào đời đến khi bắt đầu tiếp xúc với
những kiến thức đơn giản, thì các bạn đã hình thành con người có tri thức, từ
việc tiếp thu kiến thức đến áp dụng nó một cách hồn hảo. Từ thời xa xưa, tri
thức là người nuôi dưỡng, bảo vệ, truyền bá những giá trị truyền thống cũng như
nét đẹp văn hóa mà cha ơng ta để lại, sau lớn dần nó hình thành tri thức chun
mơn, khả năng sẵn có của chính mình. Có rất nhiều định nghĩ khác nhau về tri
thức, ở các lĩnh vực hay hoàn cảnh khác nhau, vậy thì hiện nay người ta định
nghĩa tri thức như thế nào ?
Có rất nhiều cách định nghĩa về tri thức nhưng có thể hiểu “Tri thức là tất cả
những dữ liệu, thơng tin, kỹ năng,... có được qua trải nghiệm thực tế hoặc học
tập. Tri thức có thể chỉ về sự hiểu biết về một đối tượng hay sự vật về lý thuyết
và thực hành và khả năng, kỹ năng để áp dụng nó vào việc tạo ra cái mới nhằm
mục đích phát triển kinh tế xã hội.
Trong triết học, tri thức là kết quả của quá trình nhận thức của con người về thế
giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của
thế giới ấy và diễn đạt chúng dưới hình thức ngơn ngữ và các hệ thống ngơn ngữ

khác.
Có hai loại tri thức thường gặp:
- Tri thức ẩn (còn được gọi là know-how) bao gồm cảm nhận, hiểu biết, trực
giác hay các linh cảm, dự đốn… nên khó thể hiện ra bằng lời một cách rõ
ràng hay có thể chuẩn hóa, ghi lại và vì thế, khó trao đổi với người khác.
Tri thức ẩn thuộc về từng cá nhân, được lưu trữ trong bộ não từng người
qua quá trình học và trải nghiệm; phát triển trong quá trình tương tác với
những người khác, thơng qua q trình thử và sai, những thành công và
thất bại.
- Tri thức hiện là những tri thức được giải thích và mã hóa dưới dạng văn
bản, tài liệu, âm thanh, phim, ảnh,… thông qua ngơn ngữ có lời hoặc
khơng lời, ngun tắc hệ thống, chương trình máy tính, chuẩn mực hay
các phương tiện khác. Đây là những tri thức đã được thể hiện ra ngoài và
dễ dàng chuyển giao, thường được tiếp nhận qua hệ thống giáo dục và đào
tạo chính quy.
4


II.

Quan điểm của Mác-Lênin về tri thức.

Khi xem xét ý thức với các yếu tố hợp thành các quá trình tâm lý tích cực đem
lại sự hiểu biết của con người về thế giới khách quan, ta có: tri thức, tình cảm,
niềm tin, ý chí ...; trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất. Muốn cải tạo
được sự vật, trước hết con người phải có sự hiểu biết sâu sắc về sự vật đó. Do đó,
nội dung và phương thức tồn tại cơ bản của ý thức phải là tri thức. Ý thức mà
không bao hàm tri thức, khơng dựa vào tri thức thì ý thức đó là một sự trừu
tượng trống rỗng, khơng giúp ích gì cho con người trong hoạt động thực tiễn.
Theo C.Mác: “phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì tồn

tại đối với ý thức là tri thức..., cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức,
chừng nào ý thức biết cái đó”. Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau như: tri thức
về tự nhiên, xã hội, con người; và có nhiều cấp độ khác nhau như: tri thức cảm
tính và tri thức lý tính; tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận; tri thức tiền khoa
học và tri thức khoa học v.v.. Tích cực tìm hiểu, tích lũy tri thức về thế giới xung
quanh là yêu cầu thường xuyên của con người trên bước đường cải tạo thế giới.
Tuy nhiên, không thể đồng nhất ý thức với sự hiểu biết, tri thức về sự vật.
Nhắc đến tri thức thì khơng thể khơng nhắc đến tầng lớp trí thức. Trên cơ sở quá
trình phát triển của lịch sử nhân loại và đặc biệt là thực tiễn đấu tranh cách mạng
của phong trào cách mạng và công nhân quốc tế, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác – Lênin đã có những luận điểm khoa học về các giai tầng trong xã hội
tư bản. Cùng với việc khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, chủ
nghĩa Mác – Lênin đã đánh giá cao vai trị, vị trí của tầng lớp tri thức cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ, giai cấp công nhân chỉ có thể
hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình khi liên minh với các giai cấp và tầng lớp
lao động khác, trước hết là với giai cấp nông dân, tầng lớp tri thức và lãnh đạo,
họ tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng. Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin về tri thức, Đảng ta khơng ngừng có các chủ trương, đường
lối nhằm chăm lo xây dựng đội ngũ tri thức ngày càng trưởng thành, góp phần to
lớn vào sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin tập trung nghiên cứu về tri thức trong
điều kiện cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản diễn ra
gay gắt. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trí thức là bộ phận tinh hoa
của xã hội chun lao động trí óc phức tạp, có trình độ học vấn đại diện cho trí
5


tuệ đương đại mà xã hội đạt được. Họ là những người sáng tạo, phổ biến và vận
dụng tri thức vào đời sống xã hội. Lênin đã dùng thuật ngữ trí thức để chỉ “tất cả
mọi người có học thức, các đại biểu của những nghề tự do nói chung, các vại

biểu của những người lao động trí óc”. Từ góc độ cơ cấu giai cấp - xã hội, trí
thức không phải là một giai cấp, mà là một lớp xã hội đặc biệt. Do vị trí của
mình trong phân cơng lao động xã hội, trí thức khơng có quan hệ riêng và trực
tiếp với sở hữu tư liệu sản xuất, do đó khơng đại biểu cho phương thức sản xuất
xã hội nào cả, khơng có hệ tư tưởng độc lập. Chính vì vậy, tri thức ln phải gắn
với những gia cấp nhất định. Từ thực tiễn phong trào cách mạng vơ sản Nga.
Lênin nhận thấy: “ Những trí thức với tính cách là một tầng lớp đặc biệt trong xã
hội tư bản. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chú trọng đào tạo và sử
dụng trí thức để phục vụ chia lợi ích của mình. C.Mác và Ph.Ăngghen đã không
định, trong chủ nghĩa tư bản: “Giai cấp tư sản tước hết hào quang thần thánh của
tất cả những hoạt động xưa nay được trọng vọng, tôn sùng. Bác sĩ luật gia, tu sĩ,
thi sĩ, bác học đều bị giai cấp tư sản biến thành những người làm th và trả
lương của nó”. Trong q trình đấu tranh giai cấp và tác động nhiều mặt về lợi
ích đã làm cho tầng lớp trí thức phân hóa thành những bộ phận khác nhau Lênin
cho rằng, nếu không nhập cuộc với một giai cấp thì giới trí thức chỉ là một con
số không mà thôi. Trong cách mạng vô sản, giai cấp cơng nhân, mỗi mặt, phải
tích cực đào tạo trí thức mới từ con em của giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân; mặt khác phải cải tạo, giác ngộ và sử dụng trí thức cũ để hình thành một
ĐNTT đơng đảo góp phần xây dựng xã hội mới.
Về đặc điểm lao động của trí thức, Lênin đã thấy được, lao động nói chung là
sáng tạo, nhưng từ sự phân cơng lao động xã hội mà tính sáng tạo trội lên thuộc
về lao động trí óc của người trí thức. Lao động của người trí thức có tính sáng
tạo cao, do đó, quyền được tự do biểu hiện bản chất cá nhân của mình là điều
kiện để lao động của người trí thức đạt hiệu quả cao. Lênin viết: “ Người trí thức
đấu tranh, tuyệt nhiên khơng phải là bằng cách dùng thực lực theo lối này hay lỗi
khác, mà là bằng cách dùng những lí lẽ. Vũ khí của họ chính là sự hiểu biết của
cá nhân họ lòng tin của cá nhân họ. Họ chỉ nhờ vào những phẩm chất cá nhân
của họ, cho nên mới có thể đóng góp được một vai trị nào đó. Vì vậy, đối với họ,
quyền được hồn tồn tự do biểu hiện bản chất cá nhân của mình là điều kiện
đầu tiên để công tác được kết quả”


6


Về vai trị của trí thức, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, trí thức có vai trị
quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất đại công nghiệp.
Cơ sở vật chất của nền đại công nghiệp là sản phẩm lao động của con người, là
sức mạnh đã vật hóa của tri thức. Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho
thấy tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản
xuất trực tiếp. Khi đề cập đến vai trò to lớn của khoa học Ăngghen đã nhắc lại
luận điểm của C. Mác: “Khoa học là một động lực lịch sử, là một lực lượng cách
mạng". Mức độ, phạm vi tác động của khoa học phụ thuộc chủ yếu vào ĐNTT.
Mặc khơng có địa vị KT - XH và hệ tư tưởng độc lập, nhưng trí thức có vai trị
quan trọng trong việc giúp giai cấp thống trị khái quát lý luận để hình thành hệ tư
tưởng của giai cấp thống trị.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen đánh giá cao vai trò
của trí thức trong cuộc đấu tranh để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân. Hai ông khẳng định, dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, trí thức có thể vươn lên
nhận thức được về mặt lý luận tồn bộ q trình vận động lịch sử. Do đó, trong
những điều kiện nhất định, đặc biệt trong thời kỳ cao trào cách mạng, có một bộ
phận có thể: “tách ra khỏi giai cấp này và đi theo giai cấp cách mạng", "chạy
sang hàng ngũ giai cấp vô sản. Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăngghen coi việc đào
tạo ĐNTT là nhiệm vụ bức thiết chuẩn cho công cuộc xây dựng xã hội mới. Trí
thức tiến bộ có vai trị quan trọng trong việc xây dựng lý luận cách mạng của của
cấp công nhân. Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, ngày càng nhiều tri
thức công nhân và làm cho số người lao động trí óc trong cơng nhân ngày càng
tăng. Ăngghen gắn liền “giai cấp vô sản tri thức” với “sinh viên”, coi sinh viên là
nguồn chủ yếu bổ sung cho giai cấp “vơ sản trí thức”. Ơng viết: “ Các bạn hãy cố
gắng làm cho sinh viên ý thức được rằng giai cấp vô sản lao động trí óc phải
được hình thành từ hàng ngũ sinh viên”. Sự liên minh giữa giai cấp cơng nhân

với trí thức tiến bộ và những người lao động khác là vấn đề có tính quy luật
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lênin cho rằng sự hợp tác giữa đại biểu khoa
học và cơng nhân - chỉ có một sự hợp tác như thế mới có thể thủ tiêu tồn bộ nạn
nghèo khổ bệnh tật và bẩn thỉu... trước sự liên minh của các đại biểu khoa học,
giai cấp vô sản và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được.

III.

Vai trò của tri thức.
7


III.1. Vai trò đối với nền kinh tế.
Kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa trực tiếp vào việc sản xuất, phân phối và sử
dụng tri thức, thông tin. Trong nền kinh tế tri thức, quá trình thu nhận truyền bá,
sử dụng, khai thác,sáng tạo tri thức trở thành thành phần chủ đạo trong quá trình
tạo ra của cải. Kinh tế tri thức là nền kinh tế được phát triển chủ yếu dựa vào tri
thức và công nghệ hiện đại. Cơ sở của nền kinh tế tri thức là tri thức (thể hiện
trong con người và trong công nghệ)...
Đây là xu hướng của nền kinh tế hiện đại, trong đó tri thức, chất xám phát huy
tối đa khả năng sinh lợi và mang lại hiệu quả lớn trong các ngành như: nônglâm-ngư nghiệp, công nghiệp, dịch vụ.
Một vài đặc điểm của nền kinh tế tri thức:
 Tri thức là lực lượng sản xuất trực tiếp:
Tri thức là nguồn lực vơ hình to lớn, quan trọng nhất trong đầu tư phát triển,
nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức. Nền kinh tế tri thức lấy tri thức là nguồn
lực có vị trí quyết định nhất của sản xuất, là động lực quan trọng nhất cho sự
phát triển.
 Nền kinh tế dựa ngày càng nhiều vào các thành tựu của khoa học công nghệ:
Nếu trong nền kinh tế công nghiệp, sức cạnh tranh chủ yếu dựa vào tối ưu
hóa và hồn thiện cơng nghệ hiện có, thì trong nền kinh tế tri thức lại dựa chủ

yếu vào việc nghiên cứu, sáng tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới. Trong
nền kinh tế tri thức, cơ cấu sản xuất dựa ngày càng nhiều vào việc ứng dụng
các thành tựu của khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ chất lượng cao.
Kinh tế tri thức là nền tảng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đang
diễn ra chủ yếu tại các quốc gia phát triển như G20. Đây là cuộc cách mạng
số với các công nghệ tiên tiến như: Internet vạn vật (IoT), điện tốn đám mây,
trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tế ảo (AR), phân tích dữ
liệu lớn (SMAC)… để chuyển hóa thế giới thực thành thế giới số.
 Lao động tri thức chiếm tỷ trọng cao trong sản xuất:
Trong nền kinh tế tri thức thì lao động trí tuệ tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị
càng cao trong thời gian càng ngắn. Cơ cấu lao động sẽ phải chuyển dịch từ
lao động có trình độ thấp quen với cơng việc chân tay hoặc thiếu đổi mới
sang lao động trí tuệ vì phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học cơng nghệ, đặc
biệt là cơng nghệ cao. Do đó, việc làm trong sản xuất và phân phối hàng hóa
8


đang có xu hướng chuyển dịch thành cơng việc văn phịng. Số lượng cơng
nhân, nơng dân sẽ giảm đi nhiều, thay vào đó là sự gia tăng của nhân viên văn
phịng, cơng nhân tri thức.
 Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu:
Nền kinh tế tri thức chỉ được hình thành và phát triển thực sự khi lực lượng
lao động có trình độ cao, phân cơng lao động mang tính quốc tế và hệ thơng
sản xuất kết nối giữa các doanh nghiệp đến từ nhiều quốc gia.
Các quốc gia sẽ ln có gắng tạo ra các cơng dân tồn cầu, có thể làm việc ở
bất cứ nước nào có cùng trình độ, cần đến kinh tế tri thức và tiến tới tồn cầu
hóa thật sự.
III.2. Vai trị của tri thức với chính trị.
Những năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ln nhấn mạnh: “Trí thức Việt
Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy

mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh
tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc. Xây dựng
đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh
của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của
hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền
vững”.
 Đội ngũ trí thức góp phần xây dựng đường lối lãnh đạo của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư ở Việt Nam:
Thực tiễn đấu tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
trong hơn nửa thế kỷ qua đã chứng minh rằng, muốn cách mạng thành
công, muốn đất nước phát triển nhanh và bền vững cần có đường lối lãnh
đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách, pháp luật của
Nhà nước phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Sự nghiệp đổi mới, xây
dựng đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư chỉ đạt
được thành cơng khi có một hệ thống lý luận đúng đắn, khoa học và cách
mạng soi sáng. Đây không phải là công việc dễ dàng, các nhà lãnh đạo,
các nhà làm chính sách khơng thể tự mình làm được nếu chỉ dựa vào tri
thức và kinh nghiệm của bản thân. Do đó, họ phải tham khảo ý kiến và sử

9


dụng sự hiểu biết về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư của đội ngũ trí
thức Việt Nam trong quá trình xây dựng đường lối và chính sách.
Đội ngũ trí thức Việt Nam giữ vai trò nòng cốt trong việc cung cấp luận cứ
khoa học góp phần xây dựng đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đường lối
lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư phụ thuộc rất nhiều vào cơ sở khoa học của đường

lối, chính sách, pháp luật đó. Đội ngũ trí thức thơng qua những nghiên cứu
của mình, cung cấp những luận cứ khoa học cho q trình xây dựng đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh đó, đội ngũ trí thức Việt Nam tham gia công tác tư vấn, phản
biện các chính sách, pháp luật của Nhà nước về cách mạng công nghiệp
lần thứ tư ở Việt Nam. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng, xuất phát từ
đặc điểm nghề nghiệp của đội ngũ trí thức. Đội ngũ trí thức Việt Nam, với
vốn hiểu biết sâu rộng, kinh nghiệm phong phú, tư duy độc lập và ln có
chính kiến trong việc luận giải mọi vấn đề của đời sống xã hội, sẽ là lực
lượng quan trọng tham gia tư vấn, phản biện các chính sách, pháp luật cụ
thể của Nhà nước về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Họ là người đưa
ra những nhận xét, đánh giá, khuyến nghị đối với đường lối, chính sách
mà Đảng và Nhà nước nêu ra về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đây
là cơ sở quan trọng giúp Đảng, Nhà nước xây dựng đường lối, chính sách,
pháp luật sau này. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy, tư vấn, phản biện
đường lối, chính sách cho Đảng và Nhà nước là cơng việc vơ cùng phức
tạp, khó khăn, địi hỏi đội ngũ trí thức Việt Nam phải có đủ tri thức, bản
lĩnh, trách nhiệm và dũng khí.

IV.

Vai trị của tri thức trong văn hóa, giáo dục.

Cùng với việc cung cấp luận cứ, phản biện góp phần xây dựng đường lối, chính
sách, pháp luật phù hợp Việt Nam, đội ngũ trí thức Việt Nam cịn có vai trị to
lớn trong việc nâng cao dân trí và đào tạo nhân lực cho cách mạng cơng nghiệp
lần thứ tư ở Việt Nam.

10



 Nâng cao dân trí và giáo dục, đào tạo nhân lực cho Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam:
Xã hội phát triển càng đòi hỏi mặt bằng dân trí cao để có thể tiếp cận được
những dịch vụ mà xã hội cung cấp, đồng thời giúp cho người dân dễ dàng
hơn trong việc thích ứng với những yêu cầu của thị trường lao động trong
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trí thức chính là lực lượng nịng cốt trong
việc truyền bá tri thức, nâng cao trình độ dân trí, nâng cao nhận thức của xã
hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Đây được xem là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài
gắn với thiên chức của đội ngũ trí thức. Đội ngũ trí thức thơng qua nhiều cách
khác nhau để trao truyền tri thức đến các thành viên của xã hội. Q trình
truyền bá tri thức có sứ mệnh kép: một mặt, phổ biến tri thức nhằm nâng cao
dân trí; mặt khác, cung cấp nguồn dữ liệu bồi dưỡng các phẩm chất của con
người, tạo ra những thế hệ cơng dân thích ứng được với mơi trường xã hội
trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Với những phẩm chất riêng có, trí thức Việt Nam là những người trực tiếp
tiếp thu, sáng tạo ra tri thức, công nghệ và họ cũng là những người trực tiếp
truyền bá, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước trong giai đoạn phát triển
mới. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ dần xóa bỏ lao động giản đơn, đặt
ra yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao, đó là những người lao động có
trình độ chun mơn nghề nghiệp cao, có hiểu biết sâu, rộng về lĩnh vực nghề
nghiệp của mình, có khả năng tương tác khơng chỉ với con người mà cịn phải
có khả năng tương tác với các hệ thống máy móc và trí tuệ nhân tạo, kỹ năng
sử dụng công nghệ thông minh trên nền tảng internet. Đội ngũ trí thức, với
vai trị là lực lượng chính trong tiếp thu khoa học cơng nghệ trên thế giới,
nghiên cứu, sáng tạo giá trị mới về khoa học và công nghệ; vừa là những
người thầy thực hiện hoạt động đào tạo nguồn lực con người chất lượng cao,
tạo ra lực lượng lao động đáp ứng những địi hỏi, u cầu của Cách mạng
cơng nghiệp lần thứ tư.
 Xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam phù hợp với Cách mạng

công nghiệp lần thứ tư:
Xây dựng và phát triển văn hóa là một nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt
đối với sự nghiệp cách mạng của nước ta trong bối cảnh Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Bởi vì, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Khơng có
một nền văn hóa phù hợp với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, con người
11


dễ bị tha hóa, trở thành “máy móc” biết nói. Văn hóa giữ vai trị quan trọng
bồi đắp con người Việt Nam về nhân cách, tâm hồn và trí tuệ, nhờ đó, con
người dễ thích ứng với những tác động từ Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư.
Đội ngũ trí thức, với những phẩm chất vốn có của mình, là lực lượng quan
trọng trong xây dựng và phát triển văn hóa nền văn hóa Việt Nam trong giai
đoạn phát triển mới của đất nước.
 Đội ngũ trí thức Việt Nam là lực lượng xung kích đấu tranh chống các
quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư:
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ra đời và phát triển trước hết ở những
nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất trên thế giới, phản ánh một giai đoạn
phát triển mới của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa. Lịch sử các cuộc cách
mạng trên thế giới đã chứng minh sự ảnh hưởng về mặt chính trị của các cuộc
cách mạng cơng nghiệp đối với đời sống chính trị thế giới và đời sống chính
trị của từng quốc gia dân tộc. Thêm vào đó, các nước tư bản đế quốc cũng
muốn lợi dụng Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, lợi dụng ưu thế của
Internet, các mạng xã hội, thực hiện diễn biến hịa bình thay đổi chế độ chính
trị ở Việt Nam. Trong bối cảnh đó, đội ngũ trí thức Việt Nam là lực lượng
xung kích trong việc nhận diện những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch, đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng. Cùng với việc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, đội
ngũ trí thức Việt Nam cũng là lực lượng quan trọng trong công tác tư tưởng,

lý luận của Đảng. Là lực lượng chủ chốt trong nghiên cứu, vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng
của Đảng.
Đội ngũ trí thức Việt Nam tham gia giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc
phù hợp với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
V.

Vận dụng quan niệm của triết học Mác – Lênin về tri thức trong nghiên
cứu, học tập của sinh viên.
Như đã nói ở trên, tri thức chỉ về sự hiểu biết về một đối tượng hay sự vật về
lý thuyết và thực hành và khả năng, kỹ năng để áp dụng nó vào việc tạo ra cái
mới nhằm mục đích phát triển kinh tế xã hội. Do đó khơng sai khi nói Vận
dụng tri thức vào thực tiễn là mức độ nhận thức cao nhất trong quá trình học
12


tập của con người. Đối với sinh viên thì đó là cơng việc nghiên cứu, học tập
của mình tại nhà trường. Sinh viên Việt Nam hiện nay là một bộ phận thanh
niên đã được tuyển chọn qua các kỳ thi quốc gia và được đào tạo trong các
trường đại học, cao đẳng. Họ là lớp người đang trưởng thành, đang chuẩn bị
hành trang nghề nghiệp cần thiết và chín muồi về nhân cách. Là bộ phận dân
cư có tuổi đời trẻ chủ yếu khoảng từ 18 - 23, sinh viên được xã hội đào tạo
theo hệ thống cơ bản để trở thành những nhà quản lý xã hội, lực lượng sản
xuất hiện đại và quan trọng trong tương lai. Vì vậy, họ mang trong mình
những đặc điểm của tầng lớp tri thức, như có khả năng lĩnh hội và sáng tạo tri
thức khoa học, kỹ thuật và công nghệ, khá nhạy cảm với những vấn đề chính
trị - xã hội... Hoạt động chủ yếu nhất của họ là hoạt động học tập và bước đầu
tham gia nghiên cứu khoa học, nắm vững một lĩnh vực tri thức nghề nghiệp
nhất định để sau này trở thành chuyên gia của nghề nghiệp đó. Do đó, việc
vận dụng quan điểm triết học, nhất là về tri thức, nhằm cung cấp cho sinh

viên nền tảng để nhận thức và tiếp thu những nguyên lý, quy luật khác, góp
phần hình thành thế giới quan khoa học trong nhân cách sinh viên Việt Nam.
Sinh viên cần phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức. Ngồi ra, cần phải
nắm rõ chương trình học và cũng phải thấy rõ khuynh hướng phát triển của
chuyên ngành theo học trong thời gian sau đó, yêu cầu của xã hội đối với
chuyên ngành đang học tập, nghiên cứu là gì? Xã hội hiện tại và tương lai địi
hỏi những gì, qua đó hồn thiện bản thân, nâng cao tri thức cho phù hợp với
nhu cầu của xã hội.
VI. Kết luận.
Những quan điểm, tư tưởng của V.I.Lênin về trí thức vẫn còn nguyên giá trị
lý luận và thực tiễn trong thời đại ngày nay. Đối với chúng ta, đó là những bài
học kinh nghiệm vô giá trong việc đào tạo hình thành một đội ngũ trí thức lớn
mạnh, đủ sức đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đối với các bạn sinh
viên, các bạn cần có cho mình một hành trang tri thức vững vàng, không
ngừng rèn luyện bản thân tiếp thu những kiến thức mới, đồng thời trang bị
cho mình bản lĩnh chính trị vững vàng, khơng được xê dịch bởi các thế lực
thù địch. Qua đó góp phần trở thành một cơng dân Việt Nam có phẩm chất và
năng lực tốt, đưa đất nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu như ước
nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
13


VII. Tài liệu tham khảo.
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Hội đồng biên soạn giáo trình Triết học
Mác – Lênin), Hà Nội – 2019.
2. V.I.Lênin. Toàn tập. NXB Tiến bộ - Matxcơva, 1978.
3. V.I.Lênin. Tồn tập. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, H. 2005.
4. C.Mác – Ph.Ăngghen Toàn tập. Hội đồng xuất bản C.Mác và Ph.Ăng-ghen
toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật (1994)

5. Tri Thức Học Trong Lịch Sử Triết Học | Học viện Đa Minh
(catechesis.net). Cập nhật 23/9/2018, truy cập 29/11/2021
6. Tri thức – Wikipedia tiếng Việt. Cập nhật 24/10/2021, truy cập 29/11/2021
7. Kinh tế tri thức là gì? Có vai trò như thế nào trong sự phát triển kinh tế
(muahangdambao.com). Cập nhật 26/5/2021, truy cập 30/11/2021.
8. Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc xây dựng đội
ngũ trí thức thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay - Tạp chí Cộng sản
(tapchicongsan.org.vn). Cập nhật 23/8/2012, truy cập 1/12/2021.
9. Tri thức là gì (magestore.com). Cập nhật 30/4/2020, truy cập 4/12/2021
10. Vai trị của đội ngũ trí thức Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư | Thực tiễn | Tạp chí mặt trận Online (tapchimattran.vn).
Cập nhật 24/10/2019, truy cập 5/12/2021.

14



×