Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận quan điểm của chủ nghĩa mác – lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa, liên hệ với quá trình thực hiện dân chủ ở trường ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.3 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Tiểu luận cuối kỳ
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
về dân chủ xã hội chủ nghĩa
và nhà nước xã hội chủ nghĩa,
liên hệ với quá trình thực hiện dân
chủ ở trường ta hiện nay
MÃ SỐ LỚP HP: 10CLC
GVHD:
NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 2
HỌC KỲ: I – NĂM HỌC: 2020-2021

TP.HỒ CHÍ MINH – THÁNG 11 NĂM 2021


DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN HỌC KỲ I,
NĂM HỌC 2021 - 2022 Nhóm: 2
Tên đề tài: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa và
nhà nước xã hội chủ nghĩa, liên hệ với quá trình thực hiện dân chủ ở trường ta hiện
nay.
STT
1
2
3
4
5


6
7
8
Nhận xét của giảng viên:
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
TP.HCM, ngày tháng 10 năm 2021
Ký xác nhận của giảng viên


MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................................1
2. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA . 3

1.1 Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa........................................................................... 3
1.1.1 Khái niệm dân chủ.........................................................................................3
1.1.2 Đặc trưng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.................................................3
1.1.3 Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ...................................... 4
1.2 Nhà nước xã hội chủ nghĩa................................................................................4
1.2.1 Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa...................................................... 4
1.2.2 Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.......................................................5
1.2.3 Chức năng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa........................................6
1.2.4 Đặc trưng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa......................................... 7
1.3 Mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa 8

1.4 Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa........................... 9
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG DÂN CHỦ VÀ VẤN ĐỀ DÂN CHỦ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM..................................................................................11
2.1 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân của Đảng ta.............................................................................................11
2.2 Thực trạng xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta....................13
2.3 Liên hệ với quá trình thực hiện dân chủ ở Trường Đại học Sư phạm Kĩ
thuật TPHCM hiện nay..........................................................................................17
2.4 Giải pháp nhằm bổ sung, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.................................. 18
KẾT LUẬN............................................................................................................. 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................23


LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch
sử, trong đó có thành tựu về dân chủ. Dân chủ vừa là biểu hiện kết quả của đổi mới
vừa là động lực thúc đẩy đổi mới. Dân chủ đã trở thành nhu cầu trực tiếp hằng ngày
của nhân dân, không chỉ là mơ ước, khát vọng mà trở thành hiện thực cuộc sống,
thành hành động cụ thể và là lợi ích thiết thân của nhân dân. Dân chủ XHCN là
mục tiêu, động lực của sự nghiệp đổi mới, của tiến trình cách mạng XHCN. Thực
hành dân chủ, phát triển dân chủ, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN là
con đường tất yếu khách quan để đổi mới thành công và xây dựng CNXH thắng lợi.
Xây dựng dân chủ XHCN là sự nghiệp to lớn, mới mẻ, chưa có tiền lệ trong
lịch sử, nên trong quá trình xây dựng và thực thi, những sai lầm, vấp váp, thậm chí
tổn thất là khơng tránh khỏi. Vì thế, để xây dựng và hồn thiện nền dân chủ XHCN
ở Việt Nam đòi hỏi việc nhận thức, tổ chức xây dựng, thực hành dân chủ phải khoa
học, thận trọng. Quá trình đổi mới vừa qua ở nước ta cũng đã nảy sinh khơng ít

những hạn chế, thách thức trên vấn đề dân chủ, từ đó địi hỏi cơng tác lý luận phải
giải đáp, làm sáng tỏ vấn đề này.
Nghiên cứu lý luận dân chủ XHCN từ gốc, trong đó có các tác phẩm lý luận
của V.I.Lênin sẽ có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Việc nghiên cứu
này khơng những góp phần nhận thức đầy đủ, đúng đắn và toàn diện, sâu sắc hơn
về lý luận dân chủ của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà cịn là để
vận dụng sáng tạo, đối chiếu với thực tiễn, giải đáp những vấn đề thực tiễn đất nước
đang đặt ra. Mặt khác, nghiên cứu kinh nghiệm đổi mới, sáng tạo của nhân dân ta
cũng như kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong quá trình đổi mới gần 25 năm qua
có thể tìm thấy nhiều lời giải cho việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN
trong điều kiện mới. Đó thực sự là việc làm cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn,
trước hết của giới lý luận ở nước ta.
Theo ý nghĩa đó, người viết chọn đề tài: Tìm hiểu quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa, liên hệ với
quá trình thực hiện dân chủ ở Trường Đại học Sư phạm Kĩ thuật TPHCM hiện nay.

1


Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận: Phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa trên các nguyên
lý, phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đồng thời tuân thủ các
nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét, đánh giá vấn đề.
* Phương pháp chung: Phương pháp lôgic - lịch sử, quy nạp, diễn dịch, phân
tích tổng hợp...
* Phương pháp cụ thể: Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, thu thập
tài liệu, phân tích, sắp xếp,... để làm sáng tỏ vấn đề. Ngồi ra, trong q trình nghiên
cứu, tác giả cịn tiến hành trao đổi, thảo luận với đồng mơn, tranh thủ sự giúp
đỡ của thầy cô trong khoa để bổ sung cho tiểu luận.
2.


2


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1 Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.1.1 Khái niệm dân chủ
Dân chủ là một phương pháp ra quyết định tập thể trong đó mọi thành viên
đều có quyền ngang nhau khi tham gia ra quyết định. Dân chủ cũng để chỉ một hình
thức nhà nước, trong đó mọi thành viên đều tham gia vào việc ra quyết định về các
vấn đề của mình, thường bằng cách bỏ phiếu để bầu người đại diện trong quốc hội
hoặc thể chế tương tự. Dân chủ được định nghĩa thêm như "chính quyền của nhân
dân, đặc biệt là: sự thống trị của số đơng" hoặc "một chính phủ trong đó quyền lực
tối cao được trao cho người dân và thực hiện bởi họ trực tiếp hoặc gián tiếp thông
qua một hệ thống đại diện thường liên quan đến việc tổ chức định kỳ các cuộc bầu
cử tự do". Theo nhà khoa học chính trị Larry Diamond, chế độ dân chủ bao gồm
bốn yếu tố chính:
- Một hệ thống chính trị cho việc lựa chọn và thay thế các chính phủ thông
qua bầu cử tự do và công bằng.
- Sự tham gia tích cực của cơng dân, trong chính trị và đời sống dân sự.
- Bảo vệ quyền con người của mọi cơng dân.
- Pháp quyền, trong đó tất cả mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật,
khơng ai đứng trên luật pháp.
1.1.2 Đặc trưng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền dân chủ của công dân sẽ
không ngừng được được mở rộng trong tất cả lĩnh vực hoạt động của xã hội, nhà
nước. Thông qua hệ thống cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội và tổ chức chính
trị, chính trị – xã hội với sự tham gia tích cực của đơng đảo quần chúng nhận dân
lao động vào các hoạt động chính trị hàng ngày.
Mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa chính là xố bỏ chế độ người bóc lột

người, tạo các điều kiện thuận lợi để thực hiện triệt để dân chủ, cơng bằng xã hội,
cơng lí cho mọi người, bình đẳng thực sự giữa nữ và nam, văn minh, giữa các dân
tộc.
Từ đó, tạo ra cơ hội cho mọi người dân hạnh phúc thông qua việc khẳng định và
thừa kế những quyền dân chủ đó một cách chính thức trong hiến pháp và các văn bản
quy phạm pháp luật. Từ đó đặt ra những bảo đảm vật chất và tinh thần để thực hiện các
quyền đó và khơng ngừng mở rộng các quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời,
luôn đề cao trách nhiệm cá nhân đối với Nhà nước và xã hội cũng như
3


phát huy không ngừng quyền làm chủ của nhân dân lao động.
1.1.3 Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ
Chủ nghĩa Mác – Lê kế thừa những nhân tố hợp lý trong hoạt động thực tiễn
và nhận thức của nhân loại về dân chủ. Dân chủ là một nhu cầu khách quan của
nhân dân lao động, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân.
+ Dân chủ là sản phẩm tiến hóa của lịch sử, là nhu cầu khách quan của con
người. Với tư cách là quyền lực của nhân dân, dân chủ là sự phản ánh những giá trị
nhân văn, là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân chống lại áp bức, bóc
lột, bất cơng.
+ Mỗi chế độ dân chủ gắn liền với nhà nước đều mang bản chất giai cấp thống
trị xã hội. Dân chủ trong xã hội có giai cấp mang tính giai cấp, gắn liền với giai cấp
đã thiết lập nên nền dân chủ đó.
+ Dân chủ cịn được hiểu với tư cách là một hệ giá trị phản ánh trình độ phát
triển cá nhân và cộng đồng xã hội trong q trình giải phóng xã hội, chống áp bức,
bóc lột và nơ dịch để tiến tới tự do, bình đẳng. Theo V.I.Lênin “dân chủ là bình
đẳng. Rõ ràng là cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản để dành quyền bình đẳng có
một ý nghĩa rất lớn, nghĩa là phải hiểu bình đẳng cho đúng, hiểu theo nghĩa xóa bỏ
giai cấp”.
Trong xã hội có giai cấp và nhà nước, quyền lực của nhân dân được thể chế

hóa bằng chế độ nhà nước, pháp luật và cũng từ khi xã hội có giai cấp, dân chủ
được thực hiện dưới hình thức mới – hình thức nhà nước với tên gọi là “chính thể
dân chủ” hay “nền dân chủ”.
1.2. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Khát vọng về một xã hội cơng bằng, dân chủ, bình đăng và bác ái đã xuất hiện
từ lâu trong lịch sử. Xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân lao động muốn thốt
khơi sự áp bức, bất công và chuyên chế, ước mơ xây dựng một xã hội dân chủ,
công băng và những giá trị của con người được tơn trọng, bảo vệ và có điều kiện để
phát triển tự do tất cả năng lực của mình, nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết
quả của cuộc cách mạng do giai cấp vô sản và nhân dân lao động tiến hành dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Tuy nhiên, chỉ đến khi xã hội tư bản chủ nghĩa xuất hiện, khi mà những mâu
thuẫn giữa quan hệ sản xuất tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất với tính chất xã hội hóa
ngày càng cao của lực lượng sản xuất trở nên ngày cảng gay gặt dẫn tới các cuộc
4


khủng hoảng về kinh tế và mâu thuẫn sâu sắc giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản
làm xuất hiện các phong trào đấu tranh của giai cấp vơ sản, thì trong cuộc đâu tranh
của giai cấp vơ sản, các Đảng Cộng sản mới được thành lập để lãnh đạo phong trào
đấu tranh cách mạng và trở thành nhân tố có ý nghĩa quyết định thăng lợi của cách
mạng. Bên cạnh đó, gial cấp vơ sản được trang bị bởi vũ khí ly luận là chủ nghĩa Mác
- Lênin với tư cách cơ sở lý luận đề tổ chức, tiến hành cách mạng và xây dựng nhà
nước của giai cấp mình sau chiến thắng. Cùng với đó, các yếu tố dân tộc và thời đại
cũng tác động mạnh mẽ đến phong trào cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân
lao động của mỗi nước. Dưới tác động của các yếu tố khác nhau và cùng với đó là
mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp vơ sản và nhân dân lao động với giai cấp bóc lột,
cách mạng vơ sản có thê xảy ra ở những nước có chế độ tư bản chủ nghĩa phát triển
cao hoặc trong các nước dân tộc thuộc địa.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cuộc cách mạng do giai cấp
vô sản và nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tuy
nhiên, tùy vào đặc điểm và điều kiện của mỗi quốc gia, sự ra đời của nhà nước xã
hội chủ nghĩa cũng như việc tơ chức chính quyền sau cách mạng có những đặc
điểm, hình thức và phương pháp phù hợp. Song, điểm chung giữa các nhà nước xã
hội chủ nghĩa là ở chỗ, đó là tổ chức thực hiện quyên lực của nhân dân, là cơ quan
đại diện cho ý chí của nhân dân, thực hiện việc tổ chức quản lý kinh tế, văn hóa, xã
hội của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Như vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước mà ở đó, sự thống
trị chính trị thuộc về giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra
và có sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên
địa vị làm chủ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội trong một xã hội phát triển
cao — xã hội xã hội chủ nghĩa.

1.2.2. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa
So với các kiểu nhà nước khác trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa là
kiểu nhà nước mới, có bản chất khác với bản chất của các kiểu nhà nước bóc lột
trong lịch sử. Tính ưu việt về mặt bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thẻ
hiện trên các phương diện:
Về chính trị, nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp cơng nhân,
giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quân chúng nhân dân lao động. Trong
xã hội xã hội chủ nghĩa, giai cấp vô sản là lực lượng giữ địa vị thống trị về chính trị.
Tuy nhiên, sự thống trị của giai cấp vơ sản có sự khác biệt về chất so với sự thống trị
của các giai cấp bóc lột trước đây. Sự thống trị của g1ai cấp bóc lột là sự
5


thống trị của thiểu số đối với tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động trong xã
hội nhằm bảo vệ và duy trì địa vị của mình. Cịn sự thơng trị về chính trị của giai cấp
vơ sản là sự thống trị của đa số đối với thiểu số giai cấp bóc lột nhăm giải phóng giai

cấp mình và giải phóng tất cả các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội. Do
đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa là đại biểu cho ý chí chung của nhân dân lao động.
Về kinh tế, bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu sự quy định của cơ sở
kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa, đó là chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất
chủ yếu. Do đó, khơng cịn tồn tại quan hệ sản xuất bóc lột. Nếu như tất cả các nhà
nước bóc lột khác trong lịch sử đều là nhà nước theo đúng nghĩa của nó, nghĩa là bộ
máy của thiểu số những kẻ bóc lột đẻ trấn áp đa số nhân dân lao động bị áp bức,
bóc lột, thì nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là một bộ máy chính trị - hành chính,
một cơ quan cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế - xã hội của nhân dân
lao động, nó khơng cịn là nhà nước theo đúng nghĩa, mà chỉ là “nửa nhà nước”.
Việc chăm lo cho lợi ích của đại đa số nhân dân lao động trở thành mục tiêu hàng
đầu của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Về văn hóa, xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nên tảng
tinh thần là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và những giá trị văn hóa tiên tiến,
tiến bộ của nhân loại, đồng thời mang những bản sắc riêng của dân tộc. Sự phân
hóa giữa các giai cấp, tầng lớp từng bước được thu hẹp, các giai cấp, tầng lớp bình
đăng trong việc tiếp cận các nguồn lực và cơ hội để phát triển.
1.2.3 Chức năng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Chức năng giai cấp của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thực hiện cả bằng tổ
chức có hiệu quả cơng việc xây dựng toàn diện xã hội mới, và bằng việc xây dựng
những công cụ bạo lực để đập tan sự phản kháng của kẻ thù chống lại sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, giữ vững an
ninh xã hội.
Bạo lực, trấn áp là cái vốn có của mọi nhà nước, do đó, bạo lực, trấn áp cũng là
cái vốn có của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác-Lênin đều cho rằng với bản chất của nhà nước vơ sản, thì việc tổ chức, xây dựng
mang tính sáng tạo nhằm cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa là chức năng căn bản, chủ yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Khi xác định những nấc thang, những giai đoạn phát triển của một cuộc cách
mạng xã hội do giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm đi tới giải phóng giai cấp cơng

nhân, nhân dân lao động và phát triển toàn diện con người, Mác và Ăngghen đều cho
rằng, việc công nhân giành lấy quyền lực nhà nước mới chỉ là giai đoạn đầu tiên.
6


Giai đoạn tiếp theo là, phải sử dụng quyền lực nhà nước “để tăng thật nhanh số
lượng những lực lượng sản xuất “. Như vậy, rõ ràng chức năng tổ chức và xây dựng
phải là chức năng chủ yếu của nhà nước của giai cấp công nhân.
Phát triển quan điểm của Mác, Lênin khẳng định, việc tích cực xây dựng chủ
nghĩa cộng sản, sáng tạo ra một xã hội mới, đó là chức năng quan trọng của nhà nước
xã hội chủ nghĩa, quan trọng hơn cả việc đập tan sự phản kháng của giai cấp tư sản.
Từ hai chức năng trên, nhà nước xã hội chủ nghĩa có những nhiệm vụ chính
là: quản lý kinh tế, xây dựng và phát triển kinh tế; cải thiện không ngừng đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân; quản lý văn hóa – xã hội, xây dựng nền văn hóa
xã hội chủ nghĩa, thực hiện giáo dục – đào tạo con người phát triển tồn diện, chăm
sóc sức khỏe nhân dân...Ngồi ra, nhà nước xã hội chủ nghĩa cịn có chức năng,
nhiệm vụ đối ngoại nhằm mở rộng quan hệ hợp tác, hữu nghị, bình đẳng, tơn trọng
lẫn nhau vì sự phát triển và tiến bộ xã hội đối với nhân dân các nước trên thế giới.
1.2.4 Đặc trưng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Trong quá trình hình thành và phát triển, dân chủ xã hội chủ nghĩa có những
đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là, với tư cách là chế độ nhà nước được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân
lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm
mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thiết chế chủ
yếu thực thi dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua chính đảng của nó.
Nhà nước bảo đảm thỏa mãn ngày càng cao các nhu cầu và lợi ích của nhân dân,
trong đó có lợi ích của giai cấp cơng nhân. Đây chính là đặc trưng bản chất chính trị
của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Điều đó cho thấy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có
bản chất giai cấp cơng nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
Hai là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về

những tư liệu sản xuất chủ yếu của tồn xã hội. Chế độ sở hữu đó phù hợp với q
trình xã hội hóa ngày càng cao của sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu không ngừng tăng
lên về vật chất và tinh thần của tất cả quần chúng nhân dân lao động. Đây là đặc trưng
kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng này được hình thành và bộc lộ
ngày càng đầy đủ cùng với q trình hình thành và hồn thiện của nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa. Đó là q trình cải tạo và xây dựng lâu dài kể từ khi bước vào thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội cho đến khi chủ nghĩa xã hội thực sự trưởng thành.
Ba là, trên cơ sở của sự kết hợp hài hịa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích
của tồn xã hội (do nhà nước của giai cấp công nhân đại diện), nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa có sức động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hội của
7


nhân dân trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Trong nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, tất cả các tổ chức chính trị - xã hội, các đồn thể và mọi công dân đều được
tham gia vào công việc của nhà nước (bằng thảo luận, góp ý kiến xây dựng chính
sách, hiến pháp, pháp luật...). Mọi cơng nhân đều được bầu cử, ứng cử và đề cử vào
các cơ quan nhà nước các cấp.
Bốn là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cần có và phải có những điều kiện tồn tại
với tư cách là một nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử nhưng vẫn là nền dân chủ
mang tính giai cấp. Thực hiện dân chủ rộng rãi với đông đảo quần chúng nhân dân,
đồng thời hạn chế dân chủ và thực hiện trấn áp thiểu số những thế lực phản động
chống phá chủ nghĩa xã hội. Trong nền dân chủ đó, chun chính và dân chủ là hai
mặt, hai yếu tố quy định lẫn nhau, tác động, bổ sung cho nhau. Đây chính là chuyên
chính kiểu mới và dân chủ theo lối mới trong lịch sử.
Năm là, nếu dân chủ xã hội chủ nghĩa không ngừng được mở rộng cùng với sự
phát triển kinh tế, xã hội; hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế hoạt động và trình
độ dân trí.
1.3. Mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa
Một là: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là cơ sở, nền tảng cho việc xây dựng và hoạt

động của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chỉ trong xã hội dân chủ xã hội chủ nghĩa,
người dân mới có đầy đủ các điều kiện cho việc thực hiện ý chí của mình thơng qua
việc lựa chọn một cách cơng bằng bình đẳng những người đại diện cho quyền lợi
chính đáng của mình vào bộ máy nhà nước, tham gia một cách trực tiếp hoặc giản
tiếp vào hoạt động quản lý của nhà nước, khai thác và phát huy một cách tốt nhất
sức mạnh trí tuệ của nhân dân cho hoạt động của nhà nước. Với những tính ưu việt
của mình, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ kiểm sốt một cách có hiệu quả quyền
lực của nhà nước, ngăn chặn được sự tha hóa của quyền lực nhà nước, có thể dễ
dàng đưa ra khỏi cơ quan nhà nước những người thực thi cơng vụ khơng cịn đáp
ứng yêu cầu về phẩm chất, nằng lực, đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu hướng đến
lợi ích của người dân. Ngược lại, nếu các nguyên tắc của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa bị vi phạm, thì việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng sẽ không thực
hiện được. Khi đó, quyền lực của nhân dân sẽ bị biến thành quyền lực của một
nhóm người, phục vụ cho lợi ích của một nhóm người
Hai là: Nhà nước xã hội chủ nghĩa trở thành công cụ quan trọng cho việc thực thi
quyền làm chủ của người dân. Bằng việc thể chế hóa ý chỉ của nhân dân thành các
hành lang pháp lý, phân định một cách rõ ràng quyền và trách nhiệm của mỗi công
dân, là cơ sở để người dân thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời là công
8


cụ bạo lực để ngăn chặn có hiệu quả các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích chính
đáng của người dân, bảo vệ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa
nằm trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là phương thức thể hiện và thực hiện dân chủ.
Theo V.I.Lênin, con đường vận động và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa là
ngày càng hồn thiện các hình thức đại diện nhân dân thực hiện và mở rộng dân chủ,
nhằm lôi cuốn ngày càng đông đáo nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã
hội. Thông qua hoạt động quản lý của nhà nước, các nguồn lực xã hội được tập hợp, tổ
chức và phát huy hướng đến lợi ích của nhân dân. Ngược lại, nếu nhà nước xã hội chủ
nghĩa đánh mất bản chất của mình sẽ tác động tiêu cực đến nền dẫy chủ xã hội chủ

nghĩa, sẽ dễ dẫn tới việc xâm phạm quyền làm chủ của người dân, dẫn tới chuyện chế,
độc thi, thủ tiêu nền dân chủ hoặc dân chủ chỉ cịn là hình thức.

Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước là thiết chế có chức năng
trực tiếp nhất trong việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện những u cầu dân chủ
chân chính của nhân dân. Nó cũng là công cụ sắc bén nhất trong cuộc đấu tranh với
mọi mưu đồ đi ngược lại lợi ích của nhân dân; là thiết chế tổ chức có hiệu quả là
việc xây dụng xã hội mới là công cụ hữu hiệu để vai trị lãnh đạo Đảng trong q
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội được thực hiện. Chính vì vậy trong hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa Đảng ta xem Nhà nước là “trụ cột” một công cụ chủ yếu, vững
mạnh của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
1.4. Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa
Mác và Ăngghen cho rằng, giai cấp công nhân khi thực hiện sứ mệnh lịch sử
của mình, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người và mọi sự tha hóa của con người
do chế độ tư hữu sản sinh ra, thì trước hết họ phải cùng với nhân dân lao động “ phá
hủy nhà nước tư sản chiếm lấy chính quyền, thiết lập chun chính vơ sản. Bởi vì,
“giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến
cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá
độ chính trị và nhà nước của thời kỳ ấy khơng thể là cái gì khác hơn là nền chn
chính cách mạng của giai cấp vô sản” .
Sau khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công nhân phải nắm vững cơng
cụ chun chính, phải xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa vững mạnh, trở thành
một công cụ trấn áp các thế lực đi ngược lại lợi ích của nhân dân để bảo vệ thành
quả cách mạng của giai cấp vô sản.
9


Sự cần thiết tất yếu phải xác lập chuyên chính vô sản, xây dựng nhà nước xã
hội chủ nghĩa vững mạnh còn xuất phát từ thực tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội là thời kỳ còn tồn tại các giai cấp bóc lột, chúng hoạt động chống lại
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó khiến cho giai cấp cơng nhân và
nhân dân lao động thông qua nhà nước phải trấn áp bằng bạo lực khi cần thiết.
Lênin xem dấu hiệu tất yếu, điều kiện bắt buộc của chuyên chính là trấn áp bằng
bạo lực những kẻ bóc lột, phản động với tính cách là một giai cấp. Đồng thời, trong
thời kỳ quá độ cũng cịn có các giai cấp, tầng lớp trung gian khác, và do địa vị kinh
tế - xã hội vốn có, các giai cấp này thường dao động, họ khơng thể tự mình đi lên
chủ nghĩa xã hội. Trước thực tế đó, giai cấp cơng nhân phải tun truyền, thuyết
phục, lơi cuốn họ đi theo mình trong cơng cuộc xây dựng xã hội mới. Do đó, nhà
nước xã hội chủ nghĩa đóng vai trị là thiết chế cần thiết đảm bảo sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân đối với toàn xã hội.
Để mở rộng dân chủ tới mức tối đa với mọi tầng lớp nhân dân, kiên quyết đấu
tranh chống lại mọi hành vi đi ngược lại những chuẩn mực dân chủ, vi phạm những
giá trị dân chủ chân chính của nhân dân địi hỏi phải có một thiết chế nhà nước phù
hợp. Chính vì vậy, trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước phải được củng cố,
xây dựng để trở thành công cụ bảo vệ và phát triển thành quả của dân chủ. Dân chủ
cần phải có chun chính để giữ lấy dân chủ, để những hành vi gây tác hại tới quyền
dân chủ của nhân dân được xử lý kịp thời....các quyền đó phải được thể chế hóa trong
hiến pháp, pháp luật và được thực hiện bằng những thiết chế tương ứng của nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, q trình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa là quá
trình tất yếu gắn liền với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quá
trình này cho thấy, dân chủ và pháp luật, dân chủ và kỷ cương không bài trừ và phủ
định nhau, trái lại, đó chính là sự thống nhất biện chứng, là điều kiện, tiền đề tồn tại
và phát triển của nhau.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Với ý nghĩa đó, nhà
nước xã hội chủ nghĩa là phương thức, phương tiện; là một công cụ chủ yếu của
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bởi vậy, để đảm bảo cho sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành cơng thì việc xây dựng và khơng ngừng
hồn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa - một trong những cơng cụ chủ yếu của q

trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là một yêu cầu tất yếu khách quan
trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa.
10


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG DÂN CHỦ VÀ VẤN ĐỀ DÂN CHỦ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
2.1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân của Đảng ta
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, quan điểm xuyên suốt của Đảng ta, đó là:
“Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển đất nước”. Để đáp ứng yêu cầu mở rộng dân chủ, Đảng và Nhà
nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
Đại hội VI của Đảng mở đầu công cuộc đổi mới đã đề ra phương châm “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và đúc kết bài học kinh nghiệm: Trong toàn
bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Đại hội VII của Đảng nêu yêu cầu, phải tổ chức và vận động các tầng lớp nhân
dân hăng hái tham gia xây dựng pháp luật, chính sách, đóng góp ý kiến với cơ quan
nhà nước các cấp xây dựng các quy chế, quy ước phù hợp với luật pháp và chủ
trương, chính sách của Nhà nước, tham gia phổ biến pháp luật trong nhân dân và tổ
chức các phong trào quần chúng thực hiện pháp luật và chính sách của Nhà nước.
Đại hội VIII của Đảng xác định nhiệm vụ xây dựng cơ chế để thực hiện
phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước; thực hiện tốt cơ chế làm chủ của nhân dân thông
qua các cơ quan dân cử, làm chủ trực tiếp bằng hình thức tự quản, bảo đảm dân chủ
trong quá trình ra quyết định và thực hiện các quyết định.
Đại hội Đảng lần thứ IX nêu rõ: “Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân
chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận

và quyết định những vấn đề quan trọng. Khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình
thức. Xây dựng Luật trưng cầu ý dân”.
Đại hội Đảng lần thứ X xác định: “Mọi đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung và phát triển năm 2011), một lần nữa Đảng ta khẳng định: “Sự nghiệp cách
mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên
những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và
nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết
11


với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất
khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của
Đảng”,“Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân”,“Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân
dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của
nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm sốt, ngăn
ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vơ trách nhiệm, lạm quyền,
xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị
mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng tiếp tục nêu rõ:“Tiếp tục phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát
từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia
ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa
ra những quyết định liên quan đến lợi ích, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận,
tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản
pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”, “Thể chế hóa và

thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và việc bảo đảm phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay không chỉ được khẳng định trong chủ trương, đường lối
của Đảng mà cịn được thể chế hóa và bảo đảm thực hiện thông qua Hiến pháp và
hệ thống pháp luật của Nhà nước. Trên phương diện xây dựng, hồn thiện thể chế
chính sách, pháp luật về thực hiện dân chủ, Đại hội XII đánh giá:“Đảng và Nhà
nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong
Hiến pháp năm 2013 và trong hệ thống pháp luật mới được ban hành và sửa đổi.
Khẳng định rõ các quyền con người, quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và
pháp luật; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội”.
Minh chứng sống động cho đánh giá trên của Đảng là nguyên tắc hiến định về
thực hành, phát huy dân chủ được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, như: “Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; Nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
12


Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”
(Điều 2);“Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận,
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh, mọi người đều có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3); “Nhân dân
thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông
qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà
nước”(Điều 6)... Quyền dân chủ của nhân dân còn được ghi nhận tại Chương II
Hiến pháp năm 2013 (quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của

công dân) cũng như trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác, như: Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật trưng cầu dân ý, Luật đất đai, Bộ luật tố
tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính
phủ, Luật tổ chức Chính quyền địa phương, Luật tiếp cận thơng tin, Luật báo chí,
Luật phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ luật lao động, Luật bảo hiểm y tế...
2.2. Thực trạng xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Nền dân chủ ở nước ta là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN). Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng nền dân chủ XHCN,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân
chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN.
Dân chủ là một phạm trù lịch sử, có vai trị quan trọng trong đời sống xã hội,
được định hình rõ trong chế độ nhà nước chủ nô, phong kiến và có bước phát triển
lớn trong chế độ tư bản chủ nghĩa, với nền dân chủ tư sản. Cuộc cách mạng của giai
cấp vơ sản nhằm xố bỏ triệt để chế độ áp bức, bất công, xây dựng một chế độ xã
hội hoàn toàn mới - chế độ XHCN với một nhà nước của dân, do dân, vì dân và nền
dân chủ XHCN gắn với nhà nước đó đã đem đến một nền dân chủ thật sự, quyền
sống chân chính của mỗi con người và mỗi công dân.
Ở Việt Nam, Cách mạng Tháng Tám do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh
đạo đã xố bỏ chế độ qn chủ phong kiến chuyên chế và chế độ thuộc địa của thực
dân, phát xít, xây dựng Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hồ. Đó là sự biến đổi căn
bản, sâu sắc và triệt để về xã hội và chính trị. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ
trở thành người chủ thật sự của đất nước, của xã hội; được sống trong độc lập, tự do,
dân chủ. Chỉ trong vịng một năm sau khi giành được chính quyền, chúng ta đã tổ chức
bầu cử Quốc hội, có bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên (11-1946). Chủ tịch Hồ
13


Chí Minh nêu rõ: Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là Nhà nước dân chủ,
nghĩa là nhân dân làm chủ; các cơ quan của Chính phủ từ tồn quốc đến các làng là

công bộc của dân, để gánh việc chung cho dân chứ không phải để thống trị dân.
Bản chất của nền dân chủ đó được nhận thức, thực hiện từ chính bộ máy, nhân viên
nhà nước, từ phía người dân và ngày càng phát triển, hồn thiện. Theo đó, dân chủ
đã trở thành thiết chế chính trị của xã hội dựa trên sự thừa nhận nhân dân là nguồn
gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng, tự do; các quyền và lợi ích hợp
pháp của nhân dân, của cơng dân về chính trị, kinh tế, xã hội được Nhà nước bảo
đảm, thực hiện ngày càng tốt hơn.
Cần khẳng định rằng, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta
trước đây, cơ chế kế hoạch hố tập trung, bao cấp đã có tác động tích cực đối với xã
hội, nhất là trong điều kiện chiến tranh. Song cơ chế đó cũng đã bộc lộ nhiều khiếm
khuyết, dẫn tới bệnh chủ quan, duy ý chí, quan liêu, cửa quyền... làm hạn chế dân
chủ. Khi đề ra đường lối đổi mới, Đại hội VI của Đảng (12-1986) đã nhấn mạnh bài
học lấy dân làm gốc, chủ trương phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân
theo phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Trong bối cảnh mơ
hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Đảng ta chủ trương: tiếp tục mở rộng
dân chủ XHCN; đề ra phương thức thực hiện dân chủ phù hợp và có hiệu quả. Hội
nghị Trung ương 6 (khóa VI, tháng 3-1989) chỉ rõ vấn đề có tính ngun tắc là:
"Xây dựng nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng
CNXH. Dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật, pháp luật, với ý thức trách
nhiệm công dân. Dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo để phát huy dân chủ đúng
hướng; mặt khác phải lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ trên cơ sở phát huy dân
chủ. Dân chủ với nhân dân nhưng phải nghiêm trị những kẻ phá hoại thành quả
cách mạng, an ninh trật tự và an toàn xã hội". Thực hiện tốt nguyên tắc đó đã bảo
đảm cho cơng cuộc đổi mới ở nước ta phát triển đúng định hướng XHCN, làm thất
bại mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hồ bình" của các thế lực thù địch.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Cương lĩnh
1991) đã nêu rõ: "Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong
giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo
đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được

thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố, xã
hội thơng qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân cử ra và bằng các hình thức dân
chủ trực tiếp. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hoá bằng
14


pháp luật và được pháp luật bảo đảm". Quan niệm, nhận thức lý luận và thực tiễn về
dân chủ ngày càng được làm sáng tỏ trong quá trình đổi mới. Hai mươi năm thực hiện
Cương lĩnh 1991 cũng là chặng đường khơng ngừng xây dựng, thực hiện và hồn thiện
nền dân chủ XHCN. Quá trình thực hiện dân chủ trong xã hội được gắn liền với thực
hành dân chủ rộng rãi trong Đảng; với xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN; với
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Q trình đó đã động viên và tổ chức nhân dân xây
dựng, củng cố, phát huy khối đại đoàn kết tồn dân tộc, tích cực tham gia xây dựng và
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không
ngừng củng cố sức mạnh, đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, tăng
cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội ở tất cả các cấp.
Điều đó cho thấy, nền dân chủ XHCN ở Việt Nam đã thực sự phát huy vai trò quan
trọng trên những vấn đề cơ bản của đất nước.
Về chính trị, đường lối của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước đều khẳng định
nguyên tắc: tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Điều 2, Hiến pháp 1992, nêu rõ:
Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Điều 3, Hiến pháp
1992, nhấn mạnh: Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về
mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và
của nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện cơng bằng xã hội, mọi
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Một nội dung căn bản thể hiện dân chủ về chính trị dưới chế độ XHCN ở nước
ta là: Luật Bầu cử bảo đảm cho nhân dân có điều kiện để lựa chọn những đại biểu
xứng đáng vào các cơ quan Nhà nước. Đảng và Nhà nước ta cũng hết sức quan tâm

động viên và tổ chức toàn dân tham gia xây dựng hệ thống chính trị; kiểm tra, giám
sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức chính quyền và cán bộ, đảng viên,
cơng chức; nhân dân đóng góp ý kiến, sáng kiến, trí tuệ để xây dựng, phát triển
cương lĩnh, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; tổ chức và
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng nền quốc phịng tồn dân
vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN.
Về kinh tế, dân chủ trong lĩnh vực này đã được mở ra bắt đầu từ Hiến pháp 1946
và tiếp tục được phát triển trong đường lối đổi mới Dân giàu là mục tiêu của Nhà
nước, của xã hội; mọi người dân có quyền sở hữu tư liệu sản xuất để sản xuất, kinh
doanh, làm giàu hợp pháp; được tự do lựa chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh
doanh; được thành lập doanh nghiệp không hạn chế về quy mô hoạt động trong những
15


ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh. Hiện nay, ở Việt Nam tồn tại và phát triển
5 thành phần kinh tế, 3 hình thức sở hữu; mọi người dân, với khả năng, trí tuệ đã và
đang đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước, làm giàu và nâng cao đời sống
của gia đình và cá nhân; nhà nước khơng ngừng hồn thiện hệ thống pháp luật, chính
sách bảo đảm cho sự phát triển đó; đồng thời, tích cực chăm lo hồn thiện chính sách
bảo đảm an sinh xã hội, xố đói giảm nghèo bền vững, không ngừng nâng cao đời
sống mọi mặt của nhân dân. của Đảng (1986). Đến Hiến pháp 1992, vấn đề dân chủ về
kinh tế được thể hiện trong đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN; cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh
doanh đa dạng dựa trên nhiều hình thức sở hữu, trong đó sở hữu tồn dân và sở hữu
tập thể là nền tảng;
Về văn hoá, giáo dục, khoa học, mọi người Việt Nam được quyền hưởng thụ và
phát triển các giá trị văn hoá, giáo dục, khoa học. Đảng đã đề ra và thực hiện đường lối
xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hoá Việt Nam theo hướng: dân tộc,

hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy các giá trị văn hiến của các dân tộc Việt
Nam, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, tinh hoa văn hố nhân loại; phát huy tài
năng, sáng tạo văn hoá trong nhân dân; nghiêm cấm truyền bá tư tưởng, văn hoá
phản động, đồi trụy, bài trừ mê tín, hủ tục; thực hiện tốt chiến lược phát triển giáo
dục - đào tạo và chiến lược khoa học - công nghệ; đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân
tài, bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ trên tất cả các lĩnh vực giáo dục, văn hoá, khoa
học, văn học, nghệ thuật; đồng thời, động viên và tổ chức toàn dân xây dựng đời
sống văn hố lành mạnh, văn minh từ gia đình đến cộng đồng, xã hội.
Về xã hội, Đảng và Nhà nước chăm lo xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng giai cấp
công nhân, giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, đóng góp xứng
đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm cho các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tương trợ và giúp nhau cùng tiến bộ; coi trọng
phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xố đói, giảm nghèo, nâng
cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hố, tiếng nói, chữ viết và truyền
thống tốt đẹp của các dân tộc; thực hiện nhất qn chính sách tơn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc khơng theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt
tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đảng và Nhà nước chú trọng thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
16


2.3. Liên hệ với quá trình thực hiện dân chủ ở Trường Đại học Sư phạm Kĩ
thuật TPHCM hiện nay.
Nhà trường đã không ngừng phát huy quyền làm chủ của CB GV NV; công
khai, dân chủ trong thực hiện chế độ, chính sách; bảo đảm lợi ích của người lao
động; động viên khen thưởng và xử lý kỷ luật kịp thời; tăng cường vai trò quản lý
của lãnh đạo trường; đảm bảo kỷ cương trong trường; đẩy mạnh phong trào thi đua,
thúc đẩy hồn thành nhiệm vụ chính trị của nhà trường.
Những nội dung của quy chế dân chủ đã đi vào nề nếp, tạo chuyển biến tốt trong
đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên cũng như trong hệ thống chính trị của trường.

Việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ tại trường đã đạt được nhiều kết
quả khả quan. Thực hiện chế độ hội họp theo đúng định kỳ, đồng thời đã phối hợp
tốt với công đồn để tổ chức hội nghị cơng nhân viên chức đầu năm học. Hàng
tháng tổ chức họp hội đồng và tổ chức sinh hoạt chuyên môn các tổ 2 lần/tháng, tổ
chức cơng đồn được tổ chức họp theo đúng định kỳ.
Lãnh đạo trường đã lắng nghe và tiếp thu những ý kiến của cá nhân, tổ chức,
đoàn thể trong trường, đã có các biện pháp giải quyết đúng theo chế độ, chính sách
hiện hành của Nhà nước và phù hợp với thẩm quyền được giao.
Đã phát huy được hiệu quả của Ban thanh tra nhân dân, trong năm học Ban
thanh tra nhân dân đã phối hợp với Ban giám hiệu nhà trường kiểm tra công tác
chuyên môn ( kết hợp kiểm tra nghiệp vụ sư phạm giáo viên,… công tác thu chi tài
chính của nhà trường (Giám sát việc cơng khai tài chính,…)
Về cơng tác chun mơn: Đã triển khai đầy đủ các văn bản, kế hoạch, việc
thực hiện chương trình, kế hoạch giảng dạy.
Về việc thực hiện quỹ hoạt động của Ban đại diện CMHS: Nhà trường đã tích
cực tham mưu với hội phụ huynh trong việc quản lý quỹ hội. Việc thu, chi tiền quỹ
hội đó được thơng qua trước toàn thể phụ huynh toàn trường trong các cuộc họp và
được 100% phụ huynh nhất trí.
Về Kinh phí ngân sách tự chủ: Đảm bảo chi đủ lương, công tác phí, nghỉ thai
sản, bảo hiểm, chế độ hưởng trong các ngày lễ tết… đều được chi trả đúng theo quy
chế chi tiêu nội bộ. Bên cạnh đó nhà trường đã mua sắm được khá nhiều trang thiết
bị như bàn ghế văn phòng , bàn ghế giáo viên, tủ thiết bị, các loại biểu bảng tuyên
truyền, các loại trang thiết bị phục vụ cho công tác GD học sinh.
Công tác chuyển xếp và nâng lương: Ban giám hiệu đã kết hợp với Cơng đồn và
Kế tốn chủ động XD kế hoạch từng thời kỳ và công khai đầy đủ những thông tin cá
nhân khi đến kỳ nâng lương, thực hiện đầy đủ các giấy tờ có liên quan. Việc nâng
17


lương trước thời hạn đã được cơng đồn, nhà trường xem xét đúng theo quy định

và đúng thủ tục, đúng đối tượng và được thực hiện công khai.
Việc thực hiện chế độ cơng khai tài chính theo đúng quy định của Nhà nước;
cơng khai các quyền lợi, chế độ, chính sách và việc đánh giá định kỳ đối với cán
bộ, giáo viên và nhân viên.
Công khai những quy định về sử dụng tài sản, xây dựng cơ sở vật chất, nâng
bậc lương, khen thưởng kỷ luật, đề bạt và các chế độ chính sách khác.
Thực hiện cơng khai các khoản thu quỹ, việc sử dụng quỹ và chấp hành chế độ
thu, chi, quyết toán theo đúng quy định hiện hành.
Đã thực hiện việc lấy ý kiến đóng góp xây dựng của các cá nhân và các tổ chức,
đoàn thể trong trường về các vấn đề: Như kế hoạch phát triển quy mô mạng lưới
trường, lớp, công tác tuyển sinh, giảng dạy, sáng kiến kinh nghiệm, quy trình quản
lý cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh; kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất, việc
xây dựng nội quy, quy chế nội bộ trong nhà trường v.v...
Đã thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý. Phối hợp
chặt chẽ với các tổ chức, đoàn thể, các cá nhân trong trường, phát huy dân chủ
trong tổ chức hoạt động.
Đa số cán bộ, giáo viên, nhân viên đã tích cực tham gia đóng góp ý kiến cho
các hoạt động của trường. Kiên quyết đấu tranh chống những hiện tượng gây bè
phái, mất đoàn kết và những hiện tượng vi phạm dân chủ, kỷ cương trong trường.
Đồng thời, thực hiện đúng những quy định của Pháp lệnh cán bộ công chức, Pháp
lệnh chống tham nhũng, Pháp lệnh thực hành tiết kiệm; giữ gìn phẩm chất, uy tín,
danh dự của nhà giáo, cán bộ, công chức; tôn trọng đồng nghiệp, phụ huynh và học
sinh; bảo vệ uy tín của nhà trường.
Bên cạnh những mặt tích cực trên, trường vẫn cịn nhiều sai phạm liên quan
đến vấn đề thiếu minh bạch trong vấn đề tài chính. Và gần đây là vấn đề trong việc
bầu chọn hiệu trưởng trường. Ngoài ban lãnh đạo nhà trường, cũng có một số ít
giảng viên khơng dân chủ trong vấn đề điểm số của sinh viên. Điểm số được nhập
không minh bạch, không công khai, những khiếu nại khơng được giải quyết hoặc
cịn trễ nải trong cơng bố điểm.
2.4. Giải pháp nhằm bổ sung, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây

dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, cần xây dựng Quy chế dân chủ trong Đảng. Mặc dù Đảng đã có Điều
lệ, song trong đó khơng bao quát hết các nội dung dân chủ trong Đảng. Cũng có ý kiến
cho rằng đã có Quy chế dân chủ cơ sở được áp dụng trong xã hội thì không cần
18


phải có quy chế dân chủ riêng trong Đảng. Tuy nhiên, ngồi tư cách cơng dân, đảng
viên của Đảng cịn có trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của người đảng viên.
Hơn nữa, là lực lượng chính trị tiên phong, đảm nhiệm trọng trách lãnh đạo Nhà
nước và xã hội, trong đó có nhiệm vụ lãnh đạo tổ chức thực hiện dân chủ trong hoạt
động của Nhà nước và trong toàn xã hội, Đảng phải đi đầu, phải nêu gương về thực
hiện dân chủ trong nội bộ tổ chức và hoạt động của Đảng. Vì vậy, cần xây dựng
Quy chế dân chủ trong Đảng, xây dựng và hoàn thiện các cơ chế bảo đảm dân chủ
trong Đảng và trong xã hội, như cơ chế kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với
Đảng; thể chế hóa quyền và trách nhiệm của Đảng trong xã hội; thể chế hóa quan
hệ giữa Đảng với các tổ chức trong hệ thống chính trị...
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện cơ chế nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động
của Đảng và Nhà nước. Trong đó phải xác định rõ nhân dân được kiểm tra, giám sát
các nội dung gì; kiểm tra, giám sát các nội dung đó bằng các hình thức và phương
pháp như thế nào; việc giải trình, trả lời chất vấn của những người bị kiểm tra, giám
sát trước nhân dân tiến hành ra sao; nhân dân phản hồi kết quả kiểm tra, giám sát
như thế nào...
Thứ ba, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát và phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đối với chủ trương, chính sách
của Đảng và chính quyền các cấp. Để làm được điều này, một mặt, cần có cơ chế
bảo đảm tạo điều kiện thuận lợi cho Mặt trận và các đoàn thể nhân dân có thể tiếp
cận các thơng tin liên quan, chất vấn những vấn đề hoặc những nội dung còn chưa
rõ ràng...; mặt khác, cần nghiên cứu và khẳng định quyền quyết định của nhân dân
đối với những vấn đề liên quan trực tiếp và mật thiết đến lợi ích của nhân dân.

Thứ tư, đẩy mạnh dân chủ hóa cơng tác cán bộ và cải tiến công tác bầu cử.
Cán bộ là gốc của mọi cơng việc, trong đó có việc thực hiện dân chủ. Vì vậy, cần
hồn thiện cơ chế dân chủ trong công tác cán bộ, bảo đảm lựa chọn và bầu cử đúng,
trúng những người có đủ đức, đủ tài theo những tiêu chuẩn xác định vào các cơ
quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Cơ cấu nhân sự đưa ra bầu phải có số dư,
phải tranh cử qua trình bày chương trình hành động...Cơng tác đánh giá, lựa chọn,
quy hoạch, đào tạo cán bộ..., phải thật sự được tiến hành một cách dân chủ, khách
quan và minh bạch; xử lý nghiêm việc chạy chức chạy quyền cả từ hai phía.
Thứ năm, cần mở rộng quyền dân chủ của nhân dân ở cấp cơ sở và bảo đảm các
hình thức thực hiện dân chủ, nhất là dân chủ trực tiếp. Đại hội XII của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã yêu cầu phải thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện
dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ đại diện là hình thức nhân dân
19


thực hiện quyền dân chủ thông qua các cơ quan đại diện của nhân dân và các tổ
chức chính trị - xã hội. Với hình thức dân chủ trực tiếp, mọi cơng dân có thể trực
tiếp thể hiện ý chí và nguyện vọng của mình một cách bình đẳng. Nó thể hiện sự
tham gia trực tiếp, tích cực và chủ động của người dân vào các hoạt động của Nhà
nước trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội...
Thứ sáu, kiên trì và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Lý luận
mácxít về dân chủ và bài học kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa nói chung và Việt Nam nói riêng trong việc thực hiện dân
chủ đã chỉ ra rằng, dân chủ phải luôn gắn liền với tập trung. Nói cách khác, nguyên
tắc tập trung dân chủ phải được quán triệt cả trong nhận thức lẫn trong hành động;
thực hiện nhất quán trong mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước, trên tất cả cáclĩnh
vực của đời sống xã hội. Kết hợp chặt chẽ tập trung với dân chủ là yếu tố quyết
định sức mạnh và hiệu lực trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, tổ chức quản lý của
Nhà nước. Khơng thể có dân chủ nếu khơng có tập trung; tập trung mà khơng dựa
trên dân chủ thì sẽ dẫn đến nguy cơ quan liêu, độc đoán, chuyên quyền. Sự gắn kết,

ràng buộc và chi phối lẫn nhau giữa tập trung và dân chủ là sự đảm bảo để khơng
dẫn tới tình trạng hoặc là chuyên quyền, độc đoán, hoặc là cực đoan, quá trớn –
những nguy cơ dẫn đến phản giá trị, phản phát triển.
Thứ bảy, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa địi hỏi phải gắn liền với việc tơn
trọng và thực hiện nghiêm pháp luật, giữ vững kỷ luật và kỷ cương xã hội, đề cao
trách nhiệm công dân. Sự tách rời giữa dân chủ với pháp luật sẽ dẫn đến những hệ
quả khơn lường, đe dọa ổn định chính trị và trật tự xã hội.Việc mở rộng dân chủ và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân phải gắn với việc đề cao và tăng cường pháp
luật, kỷ cương. Đây là mối quan hệ biện chứng: Thực hiện pháp luật nghiêm minh
là yếu tố bảo đảm quyền dân chủ và làm chủ của nhân dân; đồng thời, quyền dân
chủ và làm chủ của nhân dân được mở rộng và phát huy sẽ càng làm cho pháp luật,
kỷ cương trong xã hội được tơn trọng và tăng cường. Chính vì vậy, Đại hội XII của
Đảng đã nhấn mạnh: Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao
trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê
phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những
hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội và
những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Tóm lại, dân chủ là một thành tố cơ bản trong hệ đặc trưng “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân
dân ta đang ra sức xây dựng. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những
20


nội dung quan trọng trong đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
nhằm phát huy sức mạnh của tồn dân tộc. Trong cơng cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta coi dân chủ xã hội chủ
nghĩa không chỉ là một trong những nội dung thể hiện bản chất tốt đẹp, ưu việt của
chế độ xã hội chủ nghĩa, mà còn là mục tiêu, động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh
và bền vững của đất nước.


21


KẾT LUẬN
Trong di sản tinh thần quý giá mà V.I.Lênin để lại cho giai cấp cơng nhân và
lồi người tiến bộ, lý luận về dân chủ của Người chiếm một dung lượng khá lớn.
Đến V.I.Lênin, lý luận dân chủ của chủ nghĩa Mác-Lênin đã thực sự trở thành một
học thuyết khoa học. Lý luận dân chủ của V.I.Lênin có nội dung rất phong phú, từ
những vấn đề chung nhất của dân chủ đến DCTS với những hình thức, bản chất, giá
trị và những hạn chế lịch sử, nhưng nội dung, mục đích chính vẫn là nhằm vạch rõ
quy luật ra đời, phát triển của nền dân chủ XHCN và vạch ra con đường, cách thức
đúng đắn để giai cấp công nhân và nhân dân lao động đấu tranh xây dựng thành
công nền dân chủ XHCN trên thực tế. Với ý nghĩa đó, lý luận dân chủ của
V.I.Lênin thực chất là lý luận dân chủ XHCN.
Hiện nay, những hạn chế, yếu kém và những thách thức của nền dân chủ XHCN
ở nước ta là khơng ít và khơng thể xem thường. Nghiên cứu những yếu kém, hạn
chế và những vấn đề đặt ra của nền dân chủ XHCN nước ta hiện nay càng thấy sâu
sắc hơn rằng, để giải quyết mọi khó khăn, để tiếp tục xây dựng, phát triển nền dân
chủ XHCN thì khơng thể khơng có V.I.Lênin và những di sản vô giá của Người.
Trong điều kiện mới, để xây dựng, phát triển nền dân chủ XHCN, chúng ta
cần có những phương hướng, giải pháp đồng bộ, khoa học, sát thực, hiệu quả. Cần
tiếp tục khẳng định nền dân chủ XHCN vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị. Nâng cao đời sống mọi mặt, bảo đảm ngày một tốt hơn
quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân. Kịp thời đấu tranh, ngăn chặn những âm
mưu phá hoại của các thế lực thù địch.

22



×