Tải bản đầy đủ (.pdf) (222 trang)

Luận án tiến sĩ quá trình vận động tới sự điển phạm hóa của văn học nhà nho ở việt nam từ trần nhân tông qua nguyễn trãi đến lê thánh tông luận án TS văn học 65 22 01 21

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 222 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐỖ THU HIỀN

QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG TỚI SỰ ĐIỂN PHẠM HÓA
CỦA VĂN HỌC NHÀ NHO Ở VIỆT NAM
TỪ TRẦN NHÂN TÔNG QUA NGUYỄN TRÃI
ĐẾN LÊ THÁNH TÔNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Hà Nội - 2014

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐỖ THU HIỀN

QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG TỚI SỰ ĐIỂN PHẠM HÓA
CỦA VĂN HỌC NHÀ NHO Ở VIỆT NAM
TỪ TRẦN NHÂN TÔNG QUA NGUYỄN TRÃI
ĐẾN LÊ THÁNH TÔNG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62 22 01 21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học:


PGS.TS. Nguyễn Kim Sơn
GS.TS. Trần Ngọc Vƣơng

Hà Nội - 2014

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai cơng bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả luận án

Đỗ Thu Hiền

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


LỜI CẢM ƠN

Luận án đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn
Kim Sơn và GS.TS. Trần Ngọc Vƣơng. Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành và
sâu sắc tới các thầy đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tơi trong q trình thực hiện luận
án, và trong suốt con đƣờng theo đuổi công việc nghiên cứu khoa học của tôi.
Tôi cũng xin cảm ơn Khoa Văn học, Phòng Đào tạo Sau đại học, Trƣờng Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã luôn tạo điều kiện cho tơi trong q trình học
tập. Xin cảm ơn Viện Harvard- Yenching đã trao cho tôi cơ hội thực tập tại Viện
trong thời gian làm luận án.

Tôi gửi lời cảm ơn tới các nhà khoa học của hội đồng chấm luận án các cấp
và các nhà khoa học khác thuộc Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân vănĐại học Quốc gia Hà Nội, Viện Văn học, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội, Trƣờng
Đại học Khoa học Huế, Trƣờng Đại học Sƣ phạm TPHCM, Trƣờng Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn- Đại học Quốc gia TPHCM… đã gửi lời góp ý, nhận xét để
tơi có thể hồn thiện luận án của mình.
Xin cảm ơn các đồng nghiệp trong Khoa Văn học, Trƣờng Đại học Khoa học
Xã hội Nhân văn, bạn bè và gia đình đã luôn tạo mọi điều kiện giúp đỡ, động viên
tôi trong quá trình viết luận án.
Đỗ Thu Hiền

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài: ........................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................................. 4
3. Phạm vi, đối tƣợng và mục đích nghiên cứu .......................................................... 17
4. Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................................... 26
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án ............................................................. 28
6. Cấu trúc đề tài ........................................................................................................... 28
CHƢƠNG 1: GIAI ĐOẠN KHỞI ĐẦU CỦA VĂN HỌC NHÀ NHO – TRƢỜNG HỢP
TRẦN NHÂN TÔNG ...................................................................................................... 29
1.1. Thiền tông từ Huệ Năng đến Trần Nhân Tông ................................................... 29
1.2. Quan niệm - đặc trƣng thẩm mỹ của văn học Thiền gia và sự gặp gỡ Nho gia 36
1.3. Từ cƣ trần lạc đạo đến các vấn đề thế sự ............................................................. 43
1.3.1. Cư trần lạc đạo ................................................................................................ 43
1.3.2. Vấn đề dân tộc ................................................................................................. 54
1.3.3. Từ thơ Thiền cảnh đến sự xuất hiện của vấn đề đạo lý- thế sự qua thể thơ
vịnh vật ....................................................................................................................... 59

1.4. Hình tƣợng vị Bồ tát trang nghiêm- trƣợng phu trung hiếu .............................. 63
1.5. Những yếu tố thời gian- không gian nghệ thuật từ Thiền gia đến Nho gia .... 70
1.5.1. Từ thời gian vũ trụ vĩnh hằng đến thời gian hƣớng về quá khứ ................ 70
1.5.2. Từ không gian vũ trụ vô cùng đến không gian thế tục ............................... 74
Tiểu kết........................................................................................................................... 78
CHƢƠNG 2: GIAI ĐOẠN ĐỊNH HÌNH CỦA VĂN HỌC NHÀ NHO- TRƢỜNG HỢP
NGUYỄN TRÃI .............................................................................................................. 80
2.1. Nguyễn Trãi trong bƣớc chuyển giao của lịch sử từ Phật giáo sang Nho giáo . 80
2.2. Sự định hình của quan niệm và đặc trƣng thẩm mỹ của văn học nhà Nho ...... 87
2.3. Các vấn đề đạo lý- thế sự và dân tộc .................................................................. 100
2.3.1. Nhân nghĩa và an dân ................................................................................... 101
2.3.2. Đạo lý thế sự qua trường hợp thơ giáo huấn và thơ đề vịnh....................... 104
2.3.3. Hành đạo hay ẩn dật ..................................................................................... 110
2.4. Hình tƣợng trung tâm .......................................................................................... 116
2.4.1. Hình tượng cái tơi trữ tình ............................................................................ 116
2.4.2. Sáng tạo các hình tượng nhân vật theo mơ hình nhân cách lý tưởng của
Nho gia ..................................................................................................................... 124
2.5. Định hình các yếu tố thời gian và khơng gian nghệ thuật của văn học nhà Nho
....................................................................................................................................... 131
2.5.1. Thời gian quá khứ mơ hồ.............................................................................. 131
2.5.2. Không gian trần thế mang tính ước lệ ......................................................... 136
Tiểu kết......................................................................................................................... 140

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


CHƢƠNG 3: GIAI ĐOẠN ĐIỂN PHẠM CỦA VĂN HỌC NHÀ NHO-TRƢỜNG HỢP LÊ
THÁNH TƠNG.............................................................................................................142
3.1. Hồng đế Nho gia trong bối cảnh độc tôn Nho giáo.......................................... 142
3.2. Quan niệm văn chƣơng để trị nƣớc và các đặc trƣng thẩm mỹ ...................... 147

3.3. Sự tập trung của vấn đề đạo lý và cảm hứng dân tộc thông qua các thể thơ đề
vịnh ............................................................................................................................... 153
3.3.1. Đạo lý- thế sự ................................................................................................. 154
3.3.2. Tự hào về chế độ, giang sơn ......................................................................... 165
3.4. Hình tƣợng vị hồng đế Nho gia ......................................................................... 169
3.5. Điển phạm hóa thời gian và không gian nghệ thuật ......................................... 175
3.5.1. Thời gian quá khứ gần .................................................................................. 175
3.5.2. Không gian sơn thủy ..................................................................................... 179
Tiểu kết......................................................................................................................... 181
KẾT LUẬN...................................................................................................................183
DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

......................................................................................................................................189
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................190
PHỤ LỤC .....................................................................................................................206

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Văn học nhà Nho chiếm một phần rất quan trọng trong lịch sử văn học trung
đại Việt Nam. Sự ảnh hƣởng của Nho giáo tới xã hội đã tạo ra một nền văn học nhà
Nho kéo dài suốt nhiều thế kỷ. Nho giáo ở Việt Nam cũng đƣợc hiểu là Nho gia,
theo Từ điển Nho- Phật- Đạo: “Học phái tƣ tƣởng quan trọng ở Trung Quốc do
Khổng Tử sáng lập” [170, tr. 1063], Nho sĩ là: “Chỉ các phần tử trí thức thời xƣa tin
tƣởng vào học thuyết của Khổng Tử” [170, tr. 1068]. Nhà Nho đƣợc Dƣơng Quảng
Hàm định nghĩa: “Nho nghĩa đen là học giả. Nhà Nho là ngƣời đã theo Nho học,
hiểu đạo lý của thánh hiền đời xƣa, có thể dạy bảo ngƣời đời cƣ xử cho phải đạo và,
nếu đƣợc đắc dụng, thì đem tài đức của mình mà giúp dân giúp nƣớc.” [30, tr. 80].

Khái niệm “văn học nhà Nho” đƣợc chúng tôi sử dụng theo nghĩa là loại hình tác
phẩm văn học đƣợc sáng tác theo khuynh hƣớng mỹ học Nho gia, chịu sự chi
phối của tƣ tƣởng Nho giáo, đƣợc coi là thứ văn chƣơng lý tƣởng của nhà Nho
về mặt lý thuyết. Chủ thể sáng tác của văn học nhà Nho là nhà Nho hoặc những tác
giả chịu ảnh hƣởng của Nho giáo. Đƣơng nhiên, trong hiện thực, nhà Nho vẫn có
thể sáng tác những thứ ngoài Nho giáo, và văn chƣơng Nho giáo vẫn có thể đƣợc
viết ra bởi những tác giả chịu ảnh hƣởng ít nhiều của Nho giáo nhƣng khơng phải là
nhà Nho, nhất là ở những giai đoạn hình thành của văn học nhà Nho nhƣ thế kỷ
XIII- nửa đầu thế kỷ XV. Định nghĩa này của chúng tôi đã chủ ý phân biệt rõ ràng
hai bộ phận “văn học có thuộc tính nhà Nho” và “văn học do nhà Nho sáng tác”.
Với quan niệm có sự tồn tại thực tế của một loại hình tác phẩm văn học nhà Nho
nhƣ thế trong lịch sử trung đại Việt Nam, chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu q trình
điển phạm hóa của bộ phận văn chƣơng này.
Quá trình vận động từ khi mới manh nha cuối thế kỷ XIII cho đến lúc trở
thành điển phạm ở nửa cuối thể kỷ XV là giai đoạn có ý nghĩa quyết định cho diện
mạo và những định hƣớng phát triển sau này của nền văn học nhà Nho ở Việt Nam.
Đây là lúc xã hội chuyển từ đa nguyên về văn hóa sang giai đoạn Nho giáo nổi trội
và áp đảo, văn học Việt Nam chuyển từ trạng thái chịu ảnh hƣởng của Tam giáo
sang trọng tâm là Nho giáo. Chúng tôi cho rằng nghiên cứu q trình điển phạm hóa

1

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


của văn học nhà Nho khả dĩ có thể giải quyết những vấn đề mang tính lý thuyết có ý
nghĩa nền tảng trong việc tìm hiểu nền văn học trung đại.
Những hƣớng nghiên cứu văn học nhà Nho ở Việt Nam giai đoạn từ cuối thế
kỷ XIII đến hết thế kỷ XV đã đƣợc triển khai chủ yếu tập trung ở các phƣơng diện
văn học nhƣ là sản phẩm của một hệ tƣ tƣởng, một mơ hình thiết chế xã hội, dựa

trên tổng thể văn hóa mà nó đã tồn tại trong quá khứ. Việc tìm hiểu văn học nhà
Nho ở giai đoạn này từ các yếu tố nội tại của chính nền văn học hay nói cách khác
là từ các yếu tố mang tính đặc trƣng bản chất đƣợc khái quát trên văn bản tác phẩm
chƣa đƣợc quan tâm nghiên cứu đúng mức. Đặc biệt, việc xem xét quá trình điển
phạm hóa của văn học nhà Nho thơng qua lựa chọn các trƣờng hợp tác giả và tác
phẩm tiêu biểu sẽ khiến các lý giải trở nên cụ thể và sáng rõ hơn.
Trần Nhân Tông là tác giả lớn nhất của thế kỷ XIII, là hiện tƣợng có sức
ngƣng tụ những vấn đề quan trọng của thời đại. Là trƣờng hợp tác giả tiêu biểu của
văn học Thiền, nhƣng sự ảnh hƣởng và sự tích hợp tƣ tƣởng Thiền- Nho trong vị
hoàng đế- Thiền sƣ- thi nhân này là khá rõ nét. Trƣớc ông, các yếu tố văn học nhà
Nho cịn hết sức mờ nhạt. Việc tìm hiểu tác phẩm của Trần Nhân Tơng có thể cho
thấy một trong những cách thức khởi đầu của văn học nhà Nho- là nảy sinh từ trong
lòng của văn học Thiền, hay nói chính xác hơn là ngày càng mở rộng, trƣởng thành
từ trong chính khối hỗn nhập văn chƣơng Thiền- Nho với yếu tố Thiền là căn bản.
Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn Trần Nhân Tông nhƣ trƣờng hợp để nghiên cứu sự
khởi đầu của văn học nhà Nho từ trong văn học Thiền.
Nguyễn Trãi là tác giả nổi bật nhất của văn học nhà Nho nửa đầu thế kỷ XV.
Sinh ra trong thời đại Tam giáo tịnh hành thời Vãn Trần, bản thân thâu thái đƣợc tất
cả tinh hoa của Tam giáo, nhƣng về phƣơng diện nhân cách, tƣ tƣởng, và hành động
ông đã thể hiện là một nhà Nho lớn bậc nhất trong lịch sử đất nƣớc, đã có cơng
trong việc sử dụng Nho giáo giải quyết vấn đề dân tộc, góp phần đƣa cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn đến thắng lợi. Ông cũng là ngƣời đầu tiên đã giúp nhà Lê sơ soạn lễ
nhạc, định triều nghi, thiết lập một xã hội theo mơ hình của các Tiên Thánh. Nhà
Nho cùng thời nhƣ Nguyễn Mộng Tuân coi ông là “Nho lâm kỷ hứa chiêm Sơn
Đẩu” (Rừng Nho lâu nay coi ông nhƣ là Thái Sơn, Bắc Đẩu). Ngƣời đời sau nhƣ Lê
Thánh Tông ngợi ca ông: “Ức Trai tâm thƣợng quang khuê tảo” (Ức Trai trong lòng

2

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



rạng vẻ văn chƣơng). Chính vì vậy, chúng tơi lựa chọn Nguyễn Trãi nhƣ trƣờng hợp
của giai đoạn văn học nhà Nho đã định hình.
Lê Thánh Tơng chính là giai đoạn điển phạm của văn học nhà Nho, là trƣờng
hợp mà những quy phạm, những chuẩn mực của bộ phận văn học này đã đƣợc xác
lập và đƣợc coi là khuôn mẫu để các nhà Nho noi theo. Lê Thánh Tơng là một vị
hồng đế Nho gia nổi tiếng, là ngƣời đƣa Nho giáo lên địa vị độc tơn. Ơng đã xây
dựng đƣợc một triều đại thịnh trị bậc nhất trong lịch sử trung đại theo mơ hình Nho
giáo. Việc chỉ ra đƣợc vị trí các sáng tác văn chƣơng của ba tác giả này trong quá
trình vận động và phát triển của văn học nhà Nho ở Việt Nam sẽ làm sáng rõ những
vấn đề không chỉ của bản thân văn học nhà Nho mà cả của văn học Thiền và nhiều
vấn đề liên quan đến lịch sử dân tộc. Ngay đƣơng thời, thơ ông đã trở thành điển
phạm cho các triều thần họa theo. Thân Nhân Trung từng bình thơ nhà vua rằng:
“Đó là tấm gƣơng tốt đẹp đã phát ra một cách tự nhiên, không cần mƣợn sự đẽo gọt
mà trăm sự xảo diệu vẫn lộ rõ. Bọn thần thƣờng vẫn cố gắng làm theo phƣơng pháp
ấy, mà rút cục vạn phần dƣờng nhƣ không làm nổi một” [165, tr. 284]. Đào Cử viết
lời bạt Quỳnh uyển cửu ca có đoạn: “Nghĩa lý cao xa, từ khí hùng hồn. Cái tình
khích lệ chƣa chan ở lời nói. Thực là lời văn dạy đời của bậc đế vƣơng chân chính.
Hồng đế lại đặc biệt ban thƣởng, chọn ra 28 bề tôi gần gũi cho họa vần, lấy tƣợng
28 ngôi sao trên bầu trời, và tƣợng 28 vị công thần treo ở Vân Đài đời Hán, tổng
cộng đƣợc 200 bài, dâng lên vua xem, rồi cho vựng tập thành sách, đặt tên là tập
“Quỳnh uyển cửu ca”…. So với bài Cửu công, Quyển a của nhà Ngu, nhà Chu thật
nhƣ cùng một lối. Giúp cho thế nƣớc vững bền, hoàng đồ củng cố, giữ cho đƣợc
thịnh trị mãi mãi, tốt đẹp đến vô cùng, chẳng phải là do từ đấy mà ra sao?” [165, tr.
324-325]. Vũ Quỳnh cho rằng: “Văn thơ thì hay hơn cả các quan văn học” [110, tr.
712]. Hà Nhậm Đại cũng tán đồng: “Về sáng tác thơ văn thì trội hơn hẳn các vị bề
tơi văn chƣơng thời đó” [110, tr. 716]. Sau này, Lê Quý Đôn nhận định về Lam Sơn
lƣơng thủy là: “tuy ít dùng chữ lạ lùng hiểm hóc, nhƣng khí cốt hào mại cao siêu,
lời văn bay bƣớm sinh động, không kém gì cổ nhân” [110, tr. 722]. Phan Huy Chú

trong phần Văn tịch chí của bộ Lịch triều hiến chƣơng loại chí sau này trích tuyển
rất nhiều thơ ơng và đƣa ra nhận xét: “Lời phóng khống, câu xinh đẹp, so với tác
phẩm của các đế vƣơng từ xƣa chƣa ai có thể theo kịp” [15, tr. 443]. Giai đoạn này

3

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


đƣợc các nhà Nho xƣa coi là mẫu mực khuôn thƣớc về văn chƣơng. Phạm Đình Hổ
khi nhận xét về một bản dịch đã viết rằng: “Một ngày kia bản dịch này trở thành rực
rỡ huy hồng, khn theo đƣợc thơ thời Thiệu Bình và Quang Thuận… ” [54, tr.
35]. Bùi Huy Bích bình thơ ca các triều đại cho rằng: “Nƣớc Việt ta từ nhà Trần đến
buổi quốc sơ, thì khí thơ có chút hồn hậu, đến đời Hồng Đức thì thơ thanh tao, xinh
đẹp, về sau dần dần yếu ớt, đến thời Trung Hƣng thì thật thà vụng về, từ thời Vĩnh
Thịnh, Thái Bảo về sau, lại trôi chảy dễ nghe, gần đây lại hay chuộng khí phách”
[15, tr. 489]. Đến thế kỷ XIX, một ông vua cực kỳ Nho giáo là Minh Mệnh cũng
nhiều lần ngƣỡng vọng về thời đại văn chƣơng Hồng Đức. Do vậy, chúng tôi cho
rằng Lê Thánh Tông là trƣờng hợp tiêu biểu của giai đoạn văn học nhà Nho xác lập
điển phạm.
Xem xét các trƣờng hợp tác giả để khảo sát trong đó chỉ có Nguyễn Trãi là
nhà Nho, Trần Nhân Tơng và Lê Thánh Tơng là hai vị hồng đế, chúng tơi đã dựa
trên tiêu chí của “văn học có thuộc tính nhà Nho” chứ khơng phải “văn học do nhà
Nho sáng tác”. Đây ba tác gia quan trọng, tập trung những vấn đề lớn của văn học
trung đại ở các giai đoạn cuối thế kỷ XIII, nửa đầu và nửa cuối thế kỷ XV, có ý
nghĩa nhƣ những dấu mốc trong quá trình phát triển của văn học nhà Nho ở Việt
Nam.
Từ những lý do kể trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Quá trình vận động tới sự
điển phạm hóa của văn học nhà Nho ở Việt Nam từ Trần Nhân Tông qua Nguyễn
Trãi đến Lê Thánh Tông cho luận án của mình nhằm giải quyết một số vấn đề mang

tính lý thuyết của lịch sử văn học giai đoạn này.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Nếu không kể đến những quan niệm, nhận định, đánh giá và những cơng
trình sƣu tầm, ghi chép của “những ngƣời trong cuộc” từ thế kỷ XIX trở về trƣớc thì
văn học nhà Nho đã đƣợc nghiên cứu từ rất sớm. Trong Việt Nam văn học sử yếu
[30] của Dƣơng Quảng Hàm- cơng trình văn học sử bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của
thời hiện đại (1943), sau “Văn chƣơng bình dân”, tác giả đã bắt đầu phần văn học
thành văn bằng nhiều chƣơng viết về ảnh hƣởng của văn chƣơng Tàu, về Tứ thƣ,
Kinh thi... rồi mới đến một chƣơng duy nhất về sự truyền bá Phật giáo và Đạo giáo,
sau đó quay trở lại các vấn đề khoa cử, học thi, nhà Nho... Có thể thấy là tác giả đã

4

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


nhận diện ảnh hƣởng của Nho giáo và Phật, Đạo ở Việt Nam với các mức độ khác
nhau. Tuy không chia thành các dòng với các đặc trƣng riêng, nhƣng Dƣơng Quảng
Hàm đã có sự phân biệt đầu tiên đối với hai dòng văn chƣơng Thiền sƣ và nhà Nho:
“Xét Hán học nƣớc ta trong hai triều Lý, Trần, ta thấy lúc đầu hai phái Nho học và
Phật học đều ngang nhau mà tiến hành, rồi sau Phật giáo bị các nhà nho cơng kích
phải thối bộ dần mà nhƣờng chỗ cho Nho giáo. Trong việc trứ tác, các vị thiền sƣ
cũng chiếm một địa vị quan trọng. Còn các nhà Nho thì phần nhiều đều có cơng
nghiệp với xã hội và có phẩm cách thanh cao; trong thơ văn thƣờng trọng đạo lý
hơn là từ chƣơng, chƣa nhiễm phải cái thói chuộng hƣ văn vậy” [30, tr. 238].
Ở miền Nam giai đoạn 1945-1974, Việt Nam văn học sử giản ƣớc tân biên
của Phạm Thế Ngũ (1961) chia lịch sử văn học theo ngôn ngữ Hán, Nôm và Quốc
ngữ. Cách tƣ duy này tƣơng ứng với quan niệm của luận án về các giai đoạn điển
phạm hóa của văn học Việt Nam mặc dù chúng tôi cũng đồng ý với Thanh Lãng
rằng đây không phải phƣơng pháp tối ƣu để phân chia một nền văn học. Phần văn

học nhà Nho từ cuối thế kỷ XIII đến hết thế kỷ XV mà luận án quan tâm sẽ phải tìm
hiểu ở cả hai phần chữ Hán và chữ Nôm. Phạm Thế Ngũ đã soi chiếu văn học trung
đại từ sự ảnh hƣởng của Nho, Phật, Đạo. Ơng trình bày ngắn gọn nhƣng rất rành
mạch các giai đoạn “đạo Phật toàn thịnh” thời Bắc thuộc, Đinh, Lê, Lý sang “Tam
giáo tịnh lập” đời Trần và “Nho học độc tơn” ở đời Lê. Ngồi vài dịng dành cho
thơ Thiền và khơng khí hùng tráng của thơ đời Trần thì tác giả mặc định lịch sử văn
học Việt Nam là của của các nhà Nho. Cơng trình này đã có những nhận xét xác
đáng tuy mới sơ lƣợc về văn học chữ Hán các giai đoạn. Ví dụ nhƣ thời Hồng Đức:
“Vậy một khuynh hƣớng chủ yếu trong những sáng tác của các Tao Đàn Hồng Đức
là khuynh hƣớng giáo huấn hay đạo lý. Ý thơ biểu dƣơng phép trị nƣớc yên dân
cùng luân lý chính trị trong kinh sách của đạo Nho mà đời Hồng Đức bắt đầu nhiễm
ảnh hƣởng sâu xa” [98, tr. 141]. Nhìn chung, tuy phần viết về văn học chữ Hán và
Nôm giai đoạn từ cuối thế kỷ XIII đến hết thế kỷ XV tuy dung lƣợng không nhiều
nhƣng chúng tơi đánh giá rất cao những đóng góp của Phạm Thế Ngũ trong việc
nhìn nhận và phân tích những ảnh hƣởng của Nho giáo tới nền văn học trung đại
trong từng giai đoạn. Luận án của chúng tôi đã thừa hƣởng đƣợc một số luận điểm
quan trọng từ cơng trình này.

5

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Bảng lƣợc đồ văn học [71] của Thanh Lãng cho rằng văn học Việt Nam từ
thế kỷ XIII1 cho đến giữa thế kỷ XIX đều nằm trong phạm vi ảnh hƣởng của Nho,
Phật, Đạo “khuôn mẫu cho đƣờng lối suy tƣ của nhà văn Việt Nam trong gần bẩy
thế kỷ là đƣờng lối suy tƣ theo Tam giáo: đề tài văn học không bao giờ vƣợt khỏi
ảnh hƣởng của ba tƣ tƣởng của Khổng, Phật và Lão.” [71, tr. 2] Với quan niệm văn
học là một “sinh hoạt” có “đời sống” riêng, tác giả đã tìm ra những “cá tính” của
mỗi một thời đại văn học để dựng nên một bảng lƣợc đồ các “thế hệ” văn học. Phần

văn học cuối thế kỷ XIII đến hết thế kỷ XV đƣợc quy về hai thế hệ: Văn học của
thời đối kháng Trung Hoa (thế kỷ XIII- XIV) và Văn học của thời phát huy văn hóa
dân tộc (1428-1505). Chính vì chú trọng đến cái “cá tính” của mỗi thế hệ nhƣ thế
mà Thanh Lãng ít nhìn sự vận động của văn học các thời kỳ theo cùng một hệ vấn
đề, cụ thể nhƣ với trƣờng hợp Nho giáo. Nho giáo tuy đƣợc quan niệm là tƣ tƣởng
ảnh hƣởng xuyên suốt nền văn học “cổ điển” nhƣng khi triển khai trình bày các thế
hệ văn học, Thanh Lãng hầu nhƣ ít chú ý đến sự tác động của Nho giáo đến đời
sống văn học hay các tác giả, tác phẩm cụ thể.
Các bộ lịch sử văn học của miền Bắc từ năm 1945-1975: Sơ thảo lịch sử văn
học Việt Nam [144] của ban Văn- Sử- Địa, Lƣợc thảo lịch sử văn học Việt Nam [76]
của nhóm Lê Q Đơn chịu tác động của tình hình chính trị đƣơng thời cũng nhƣ
phƣơng pháp luận nghiên cứu Marxism và phản ánh luận của Lenin nên ít quan tâm
đến vấn đề văn học nhà Nho. Họ quy văn học chủ yếu vào các vấn đề dân tộc, đấu
tranh giai cấp và phản ánh hiện thực. Thậm chí, bộ Lƣợc thảo cịn nói rõ quan niệm
“khơng coi các thơ văn viết bằng chữ Hán của ta là những tác phẩm văn học thuần
tuý dân tộc, (...) chỉ có những tác phẩm viết bằng ngơn ngữ dân tộc mới hoàn toàn
là những tác phẩm văn học dân tộc” [76, tr. 6]. Chính vì thế, văn học chữ Hán bị
loại khỏi phạm vi nghiên cứu của bộ lịch sử văn học này, chỉ đƣợc đề cập đến một
cách sơ lƣợc ở phần phụ của mỗi giai đoạn văn học. Với quan niệm nhƣ thế, văn
học Việt Nam từ thế kỷ X- thế kỷ XV gần nhƣ bị bỏ qua. Cũng vì đứng trên lập
trƣờng đấu tranh giai cấp mà các tác giả bộ sách này đánh giá Nho giáo một cách
khá cực đoan và thiên kiến: “Nếu chúng ta nói đạo Phật, đạo Lão là những tơn giáo
1 Thanh Lãng quan niệm nền văn học cổ điển bắt đầu từ thế kỷ XIII với Hàn Thuyên và kết thúc vào năm 1862 [71, tr 1] Ơng khơng lý giải tại
sao lại chọn những mốc nhƣ thế.

6

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



mà giai cấp phong kiến lợi dụng để ru ngủ quần chúng, để cho việc thống trị của
chúng dễ dàng thì Nho giáo cịn hơn thế. Nho giáo nói trắng ra cái việc bảo vệ xã
hội phong kiến. Nho giáo đặt ra một kỷ cƣơng chung cho ngƣời trong giai cấp
phong kiến để đảm bảo sự thống trị của giai cấp đƣợc dài lâu, và cho ngƣời ở các
giai cấp bị trị, để họ không những phục tùng giai cấp phong kiến, mà còn nai lƣng
làm việc cho giai cấp ấy, chiến đấu để củng cố cái trật tự có lợi cho giai cấp ấy” [76,
tr. 181]. Từ đó, các tác giả này đã quan niệm về mối quan hệ giữa văn học và Nho
giáo nhƣ sau: “Đạo Nho làm nội dung cho văn chƣơng cử nghiệp, nhất là từ nhà
Hậu Lê trở về sau. Nhƣng tuy đạo Nho can thiệp vào nhiều phƣơng diện sinh hoạt
của ta, nó khơng có tác dụng to tát và tốt đẹp đối với văn thơ ta (văn thơ nôm). Cái
chủ nghĩa thực tế của nó, cái tƣ tƣởng mực thƣớc và gị bó của nó là kẻ thù của mọi
cuộc vƣợt lên của tƣ tƣởng, của tình cảm, nó khơng gây hứng thú. Các thơ truyện
của ta thƣờng lấy trung hiếu làm luận đề. Nhƣng cái hay cái đẹp lại xuất phát từ
những tình tiết khác” [76, tr. 182] Khi nhận định về văn học chữ Hán đến thế kỷ XV,
các tác giả bộ sách này chỉ nhìn nhận giá trị yêu nƣớc và tinh thần dân tộc.
Hai bộ giáo trình lịch sử văn học ra đời sau đó của Trƣờng Đại học Sƣ phạm
Hà Nội (xuất bản lần đầu năm 1961) [92] và Trƣờng Đại học Tổng hợp Hà Nội
(xuất bản lần đầu những năm 1970) [59] chƣa có nhiều chuyển biến khi xem xét văn
học Việt Nam dƣới góc độ sự ảnh hƣởng của Nho giáo, và dƣới góc độ những sáng
tác của nhà Nho. Bộ giáo trình của Trƣờng Đại học Sƣ phạm (Bùi Văn Nguyên) vẫn
còn cực đoan khi đứng từ quan điểm lập trƣờng đấu tranh giai cấp để gọi Nho giáo
là “nọc độc” [92, tr. 20] và nhìn nhận Nho giáo nhƣ sau: “Trƣớc sau, Nho giáo thời
Tây Chu hay Đông Chu, học thuyết về chữ lễ, chữ nhân hay nhân nghĩa cũng đều là
học thuyết của giai cấp chiếm nô hoặc giai cấp phong kiến. Nhƣ vậy chúng ta không
lấy làm ngạc nhiên thấy giai cấp phong kiến Trung Quốc sang ta, hay giai cấp
phong kiến Việt Nam, đều đón lấy Nho giáo... nhƣ một “bửu bối”, một công cụ sắc
bén, nhằm mê hoặc nhân dân ta bằng nhiều đƣờng, nhƣ con đƣờng khoa cử, đƣờng
làm quan, v.v... để dễ bề thống trị và bóc lột họ một cách tinh vi” [92, tr. 18]. Chính
từ xuất phát điểm này mà việc nhìn nhận ảnh hƣởng của Nho giáo tới văn học có
những thiên lệch: “những nhân sĩ tiến bộ nhƣ Chu An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh

Khiêm, Ngơ Thì Nhậm, Cao Bá Qt... lại tỉnh táo theo sát đời sống của nhân dân ta

7

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chứ không mù quáng theo các loại kinh,
truyện của Nho giáo.” [92, tr. 20] “Cách làm để tự tạo cho mình một lối thoát của
các nhân sĩ tiến bộ trên là gạn lọc những yếu tố tích cực trong Nho giáo để có thể
dung hịa với lẽ phải, trong dân gian…” [92, tr. 21]. Tác giả giáo trình đã đặt Nho
giáo trong thế đối lập với tính dân tộc, những yếu tố tiêu cực của văn học đƣợc gán
cho Nho giáo và những yếu tố mang tính giá trị đƣợc gắn liền với dân tộc.
Giáo trình của Trƣờng Đại học Tổng hợp ra đời muộn hơn, cái nhìn với Nho
giáo đã bớt khắt khe. Các tác giả đã khách quan nhìn nhận sự thật hiển nhiên văn
học trung đại Việt Nam là văn học viết của các nhà Nho, chịu sự ảnh hƣởng của
Nho giáo: “Ngày xƣa, các tầng lớp trí thức- kể cả một bộ phận không nhỏ của tăng
lữ nữa- chịu ảnh hƣởng của Hán học. Quan niệm về văn học của họ cũng chịu ảnh
hƣởng của Hán học. Và khi tìm hiểu dịng văn học viết thì khơng thể khơng tìm hiểu
ảnh hƣởng của quan niệm về văn học của tầng lớp trí thức Hán học, ít hoặc nhiều
đƣợc đào tạo trong nhà trƣờng của Nho giáo” [59, tr. 25]. Việc nghiên cứu các tác
giả, các tác phẩm văn học cụ thể đã ít nhiều đƣợc quy chiếu từ sự ảnh hƣởng của
Nho giáo tới văn học. Sự phát triển của Nho giáo và ảnh hƣởng của Nho giáo trong
văn học đã đƣợc xem xét đến. Ở giai đoạn văn học Lý- Trần, các tác giả đã có
những nhận xét đáng lƣu ý tuy mới sơ lƣợc về mức độ ảnh hƣởng của Nho giáo và
mối quan hệ với Phật, Đạo: “Cái khn Nho giáo có khi chỉ là hình thức. Và những
danh từ tu, tề, trị, bình, nhân, nghĩa, trung, hiếu trong trƣớc tác đời Trần lại thƣờng
phần nào tách rời khỏi cái khuôn khổ Nho giáo hoặc ít nhiều phá vỡ cái khn khổ
ấy để có thể vƣơn lên mà chứa đựng những nội dung thiết thực gần với cuộc đấu
tranh của dân tộc để xây dựng đất nƣớc, xây dựng con ngƣời” [59, tr. 86]. Tình hình

nửa cuối thế kỷ XV khác hẳn: “Nho học đặc biệt đƣợc đề cao. Ngƣời làm văn học
đều là những nhà Nho, nhiều ngƣời lại giữ những chức vị cao trong triều đình... Do
đó văn học nói chung đã phát biểu quan điểm chính thống của Nhà nƣớc phong kiến
và thƣờng nặng về xu hƣớng thù phụng, ca ngợi. Văn học đã thể hiện rõ rệt tính
chất quan phƣơng” [59, tr. 270]. Tuy nhiên, cơng trình này vẫn chịu ảnh hƣởng của
cách nhìn cũ nên đơi khi đánh giá Nho giáo chƣa thật sự công bằng. Đặc biệt, các
tác giả vẫn đem Nho giáo ra để đối lập với tính dân tộc. Ví dụ khi nhận xét về Chu
An, Đinh Gia Khánh viết: “Chu An là một nhà Nho. Vậy thì những điều giáo huấn

8

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


của ông không thể tách rời những kinh điển của Nho giáo. Nhƣng phải thấy rằng
đức tính khảng khái, liêm khiết, không màng danh lợi, không ngại cƣờng quyền,
bao giờ cũng nghĩ đến nƣớc, đến dân mà ông nêu cao thì lại xứng đáng thuộc vào
những giá trị tinh thần của dân tộc” [59, tr. 84].
Nhìn chung, chúng tơi cho rằng, những hạn chế về mặt phƣơng pháp luận
khoa học và thế giới quan đã khiến các tác giả miền Bắc trong giai đoạn 1945-1975
nhận định về Nho giáo khá thiên lệch dẫn đến những né tránh hoặc phủ nhận ảnh
hƣởng, đặc trƣng, kể cả những giá trị, đóng góp mà Nho giáo đem lại cho văn học.
2.2. Kể từ sau đổi mới2, trong vòng mấy chục năm gần đây, nhiều cơng trình
nghiên cứu của các tác giả Trần Đình Hƣợu: Nho giáo và văn học Việt Nam trung
cận đại (1995), Loại hình học tác giả nhà Nho- Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam
(1995); Trần Ngọc Vƣơng: Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung (1997),
Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (2007, chủ biên) và Trần Nho Thìn: Văn học trung
đại Việt Nam dƣới góc nhìn văn hóa (2003, 2008), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X
đến hết thế kỷ XIX (2012)... đã đạt đƣợc những thành tựu có ý nghĩa đặt nền móng
cho việc nghiên cứu văn học nhà Nho. Điểm chung của những cơng trình này là

quan niệm nghiên cứu văn học theo phƣơng pháp xã hội học- lịch sử, kết hợp
phƣơng pháp loại hình học hay văn hóa học. Nhƣng khơng giống với xã hội học của
miền Bắc giai đoạn 1945-1986 tập trung vào vấn đề đấu tranh giai cấp, đánh giá tác
phẩm dựa trên những định kiến về đối tƣợng trong hiện thực, những cơng trình này
đều đƣợc thực hiện theo quan niệm xã hội học mang tinh thần khoa học và hiện đại.
Các tác giả xem xét văn học từ góc nhìn xã hội, lịch sử, tƣ tƣởng, triết học, tơn giáo
và các vấn đề văn hóa. Trần Đình Hƣợu có thể coi là ngƣời đầu tiên đặt vấn đề
nghiên cứu văn học nhà Nho một cách hệ thống. Ông cho rằng: “Nếu hiểu A là văn
học do nhà nho viết và viết theo quan niệm văn học Nho giáo, là văn, thơ, phú, lục,
là văn học Đông Á... thì cũng cần làm sáng tỏ quan hệ giữa văn hóa và văn học giữa
Việt Nam và Trung Quốc, quan hệ giữa Nho giáo với Phật giáo, tƣ tƣởng LãoTrang, nhà Nho Việt Nam với tƣ cách là tác giả văn học, sự khác nhau khơng phải
là ít trong thực tế và lịch sử giữa các nƣớc Đông Á” [49, tr. 11]. Trần Nho Thìn theo
2 Đây là một mốc có tính chất tƣơng đối. Các cơng trình này đều xuất bản sau 1986, nhƣng thực chất nhiều bài viết trong đó đƣợc ra đời sớm hơn
thời điểm này rất nhiều.

9

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


đuổi phƣơng pháp tiếp cận văn hóa học, sử dụng cách thức phục nguyên lại đời
sống văn hóa của một thời đại nhất định, giải mã các hiện tƣợng văn hóa để giải
quyết các vấn đề của văn học. Từ góc nhìn này, ơng đã có một số những ý kiến xem
xét lại các luận điểm về văn học nhà Nho của Trần Đình Hƣợu, đặc biệt là ở việc
phân chia ba mẫu hình nhà Nho. Nhìn chung, nhóm các tác giả này dù có những
khác biệt nhất định nhƣng đã giải quyết đƣợc các vấn đề cơ bản mang tính lý thuyết
của văn học nhà Nho từ góc nhìn xã hội học- lịch sử và văn hóa học này:
- Xem xét một cách khách quan mối quan hệ giữa Nho giáo và văn học trong
tƣơng quan với Phật và Lão- Trang từ nguồn gốc lịch sử và quá trình phát triển của
Nho giáo, đặc biệt là từ thời Khổng Tử ở cả hai phƣơng diện: Nho giáo đã đem lại

và lấy mất của văn học những gì.
- Cơng nhận sự ảnh hƣởng của Nho giáo đến nền văn học trung đại Việt Nam
một cách toàn diện và sâu sắc, kể cả khía cạnh tích cực và tích cực của nó. Các tác
giả đã phác thảo diện mạo của nền văn học nhà Nho ở các giai đoạn, các thời kỳ,
các thể loại, cảm hứng, hệ thống nhân vật, tác giả, tác phẩm lớn...
Đặc biệt, Trần Đình Hƣợu trong bài viết “Xác định cái dân tộc, cái cổ điển
làm cơ sở để phân kỳ lịch sử văn học dân tộc” [49] đã đề cập đến tính cổ điển, điển
phạm của văn học trung đại. Theo ông, “Cái cổ điển vốn là nói về hình thức… Cái
đƣợc coi là cổ điển vừa có hình thức nghệ thuật hồn mỹ, vừa có nội dung đặc sắc,
có tính khái qt, có tính dân tộc, có tính nhân loại” [49, tr. 505].
Mặc dù các tác giả này đã xây dựng đƣợc một hệ thống lý thuyết khá hệ
thống về văn học nhà Nho nói chung, nhƣng nhiều vấn đề cụ thể trong đó vẫn cịn
chờ đƣợc giải quyết. Luận án của chúng tơi có thể coi là một sự tiếp tục trên cơ sở
những nghiên cứu này với sự gia tăng của các cách tiếp cận mới về một giai đoạn cụ
thể của văn học nhà Nho.
Trong xu hƣớng chung, vấn đề văn học nhà Nho đƣợc rất nhiều nhà nghiên
cứu văn học trung đại quan tâm đến. Có thể kể tên các cơng trình đáng chú ý có đề
cập đến vấn đề này: Về con ngƣời cá nhân trong văn học cổ Việt Nam (1997) của
các tác giả Nguyễn Hữu Sơn- Trần Đình Sử- Huyền Giang- Trần Ngọc VƣơngTrần Nho Thìn- Đồn Thị Thu Vân, Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học
trung đại Việt Nam (1997) của Phƣơng Lựu, Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại

10

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Việt Nam (1998) của Trần Đình Sử, Quy luật phát triển lịch sử văn học Việt Nam
(1998) và Đặc trƣng văn học trung đại Việt Nam (2001) của Lê Trí Viễn, Khảo và
luận một số tác gia- tác phẩm văn học trung đại Việt Nam (tập 1- 1999, tập 22001) của Bùi Duy Tân, Các khuynh hƣớng văn học Lý- Trần (2008) của Nguyễn
Phạm Hùng... Có thể nhận xét chung rằng các tác giả này đã góp phần làm rõ nét

thêm các vấn đề của văn học nhà Nho trung đại từ nhiều góc nhìn khác nhau.
Trong số này, chúng tôi đặc biệt chú ý Mấy vấn đề thi pháp văn học trung
đại Việt Nam (1998) của Trần Đình Sử. Tác giả đã sử dụng hệ thống lý luận khá
thịnh hành ở thời điểm đó do chính ơng là ngƣời tiên phong giới thiệu và áp dụng
để nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam. Cơng trình này đã bổ sung một mảng
lớn cịn chƣa có nhiều thành tựu trong nghiên cứu văn học trung đại nói chung và
văn học nhà Nho nói riêng là soi chiếu văn học từ bình diện ơng gọi là “mỹ học nội
tại” của sáng tác nghệ thuật, những hệ thống nguyên tắc nghệ thuật thể hiện trong
chính văn bản tác phẩm. Trần Đình Sử đã đạt đƣợc những thành tựu bƣớc đầu ở
hƣớng nghiên cứu này, ơng đã xây dựng đƣợc một mơ hình tổng quan về thi pháp
văn học trung đại trên các vấn đề cơ bản nhƣ loại hình văn học, các bình diện đặc
trƣng, thi pháp một số thể loại văn học, quan niệm về con ngƣời và thế giới và một
số phƣơng thức nghệ thuật. Ở từng yếu tố, ông đều tính đến sự tác động của các yếu
tố Nho, Phật, Đạo tới thi pháp văn học trung đại. Nhiều luận điểm trong luận án của
chúng tôi đƣợc phát triển từ những kết quả nghiên cứu của cơng trình này, cụ thể là
các phân tích về khơng gian- thời gian nghệ thuật.
Bên cạnh đó, mấy năm gần đây xuất hiện hƣớng nghiên cứu văn học nhà
Nho từ lý thuyết về thông diễn học của Nguyễn Kim Sơn trong cụm bài viết: Tâm
tính học Nho gia và đặc trƣng thẩm mỹ của văn chƣơng nhà Nho (2006), Bàn về
cảm hứng cƣ trần lạc đạo trong thơ Trần Nhân Tông (2006), Mấy phƣơng diện
thẩm mỹ của thơ Nho gia và Thiền gia (2007, viết chung với Trần Thị Mỹ Hòa),
Cội nguồn triết học và tinh thần nhập thế của Trần Nhân Tông (2008), Sự đan xen
giữa các khuynh hƣớng thẩm mỹ trong thơ Huyền Quang (2009). Tác giả đã bƣớc
đầu chỉ ra một số đặc trƣng thẩm mỹ của văn chƣơng nhà Nho trong tƣơng quan với
văn chƣơng Thiền gia và Đạo gia. Chúng tôi tiếp nhận những luận điểm này của tác

11

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



giả nhƣ là những gợi ý để soi chiếu vào vấn đề điển phạm hóa của văn học nhà Nho
ở giai đoạn cuối thế kỷ XIII- hết thế kỷ XV.
Đoàn Thị Thu Vân trong luận án tiến sĩ Khảo sát một số đặc trƣng nghệ
thuật thơ Thiền Việt Nam thế kỷ XI-XIV (1995) [173] đã quan tâm đến khái niệm
“thơ Nho”: “Thơ Nho là thơ của các tác giả theo hệ tƣ tƣởng Nho gia và đề cập đến
những vấn đề thuộc phạm trù triết học, đạo đức Nho giáo” [173, tr. 154]. Tác giả
luận án đã bƣớc đầu chỉ ra những đặc trƣng nghệ thuật của “thơ Nho” thời Lý- Trần
trong thế đối sánh với thơ Thiền đƣơng thời trên một số phƣơng diện: sự thể hiện
con ngƣời, tính duy lý, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, thi liệu, giọng
thơ và kết luận là những sự khác biệt này xuất phát từ đặc trƣng về triết học của hai
dòng thơ, một bên là triết học nhân sinh, một bên là triết học bản thể.
Phát triển hƣớng nghiên cứu này, Huỳnh Quán Chi trong luận án tiến sĩ Thơ
Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV (2010) [12] đã triển khai đề tài
trên nhiều phƣơng diện, từ diện mạo của dòng thơ Nho đến những cảm hứng chính,
một số phƣơng diện thi pháp. Đây là cơng trình gần với đề tài luận án của chúng tôi
nhất dù phạm vi nghiên cứu của luận án này chỉ dừng lại từ giữa thế kỷ XIV đến
giữa thế kỷ XV với một thể loại tiêu biểu nhất của giai đoạn này là thơ. Huỳnh
Quán Chi đã bƣớc đầu phác thảo diện mạo của thơ Nho trong vòng một thế kỷ. Tuy
nhiên, tác giả luận án chƣa chỉ ra đƣợc những đặc trƣng của dòng thơ Nho ở giai
đoạn này so với các giai đoạn khác, chƣa quan tâm đến quá trình vận động của đối
tƣợng nghiên cứu. Tác giả coi thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV nhƣ
một đối tƣợng bất biến và thuần nhất để xem xét. Những yếu tố khác Nho nhƣ Phật
hay Đạo vẫn còn rất đậm nét ở thời đại Tam giáo này có vai trị thế nào trong thơ
Nho cũng chƣa đƣợc tác tính đến.
2.3. Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông không chỉ là các tác
gia văn học lớn mà họ đều là những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam ở
nhiều tƣ cách khác nhau. Xét từ tƣ cách là tác giả văn học và từ vấn đề điển phạm
hóa của văn học nhà Nho, chúng tơi nhận thấy tình hình nghiên cứu nhƣ sau:
Các nghiên cứu về Trần Nhân Tơng chủ yếu tập trung ở phƣơng diện hồng

đế- thiền sƣ mà ít lƣu ý tới tƣ cách tác giả văn học, có thể kể đến những bài viết về
văn chƣơng Trần Nhân Tông của các tác giả Trần Thị Băng Thanh, Đoàn Thị Thu

12

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Vân, Nguyễn Huệ Chi, Trần Nghĩa, Nguyễn Hữu Sơn, Phạm Ngọc Lan... và các
phần viết về tác giả này trong các nghiên cứu chung về thơ văn Lý- Trần của
Nguyễn Phạm Hùng, Nguyễn Hùng Hậu, Nguyễn Duy Hinh... Những tham luận của
hội thảo về Trần Nhân Tông với truyền thống văn hóa, đạo đức, trí tuệ dân tộc năm
2004 đƣợc tập hợp trong cuốn Trần Nhân Tông- vị vua Phật Việt Nam (2004) và hội
thảo Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông cuộc đời và sự nghiệp (nhân 700 năm
ngày nhập niết bàn 1308-2008) (2008) cũng đã đề cập đến nhiều mặt trong sự
nghiệp của Trần Nhân Tông, nhƣng số lƣợng bài viết trực tiếp về văn chƣơng của
ông chiếm tỉ lệ khơng lớn. Cho đến nay, mới chỉ có cuốn Tồn tập Trần Nhân Tơng
(2000) của Lê Mạnh Thát nghiên cứu tồn diện về Trần Nhân Tơng. Tuy nhiên, đối
với văn chƣơng Trần Nhân Tông, Lê Mạnh Thát mới chỉ dừng lại ở các vấn đề văn
bản và những giới thiệu mang tính chất tổng quan. Nhìn chung, ở các cơng trình
nghiên cứu này, Trần Nhân Tơng đƣợc đánh giá rất cao ở hai phƣơng diện: một là
tƣ tƣởng triết học Thiền, và hai là cảm hứng dân tộc thể hiện trong tác phẩm của
ơng. Bên cạnh đó, tinh thần nhập thế trong văn chƣơng của ông cũng đƣợc nhiều
nhà nghiên cứu lƣu ý tới. Ngoài ra, cũng đã có những bài viết bƣớc đầu nhận xét về
mối quan hệ Tam giáo hoặc các yếu tố Nho giáo trong văn chƣơng Trần Nhân Tơng
từ góc độ nội dung tƣ tƣởng nhƣ Tìm hiểu mối quan hệ Tam giáo trong tác phẩm
“Cƣ trần lạc đạo phú” [111] của Trần Nguyên Việt, hoặc kết hợp cả triết học và
mỹ học nhƣ loạt bài viết về Trần Nhân Tông và Huyền Quang của Nguyễn Kim
Sơn. Từ phƣơng diện triết học thì Nguyễn Kim Sơn cho rằng: “Có thể nhìn một
cách tổng quan về căn cội triết học của tinh thần nhập thế, mà nói theo cách của

chính Trần Nhân Tơng, là "cƣ trần lạc đạo", đó là một hệ thống với Phật tính luận,
phƣơng pháp tu luyện, con đƣờng giác ngộ của Thiền Tông, đặc biệt là Thiền Huệ
Năng làm trục tâm. Trên cơ sở đó, nó kết hợp với tƣ tƣởng Hòa quang đồng trần
trong triết học Lão tử, tƣ tƣởng Vô sở đãi và tùy tục trong tƣ tƣởng Trang tử, và
đƣơng nhiên không thể thiếu tƣ tƣởng lạc đạo của Nho gia. Xét về cơ cấu nó là sự
hội nhập triết học và phƣơng pháp tu dƣỡng, cảnh giới tinh thần của cả Tam giáo,
lấy Thiền làm cơ sở để tiến hành hội nhập” [131]. Cịn từ góc độ mỹ học thì tác giả
cho rằng: “Bài này rõ ràng có khí khái hơi khác với tinh thần tùy dun nhậm vận,
một loại cảm hứng và một triết lý thiền tiêu biểu và nổi bật trong thơ Trần Nhân

13

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Tơng, nó thiên về thơ ngơn chí kiểu Nho gia. Bài thơ thể hiện chí hƣớng muốn có
đƣợc những phẩm chất hơn ngƣời, mong làm nên sự nghiếp đế vƣơng nhƣ Hán Văn
Đế, Đƣờng Thái Tơng. Bài này có thể ví nhƣ một bơng hoa lạ báo hiệu sự nảy nở
và bắt đầu của loại thơ vịnh vật” [131]. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chƣa có cơng
trình nào đặt vấn đề nghiên cứu yếu tố Nho giáo trong văn chƣơng Trần Nhân Tông
một cách hệ thống, đặt Trần Nhân Tơng vào q trình điển phạm hóa của văn học
nhà Nho ở Việt Nam để soi chiếu.
Trong số ba trƣờng hợp mà luận án lựa chọn để khảo sát thì tình hình nghiên
cứu về Nguyễn Trãi là phong phú và phức tạp nhất. Thanh Lãng gọi Nguyễn Trãi là
“ông tổ của nền văn học cổ điển” “nền văn học cổ điển nếu khơng phải do Nguyễn
Trãi khai sinh thì cũng do Nguyễn Trãi đặt cho nó cơ sở vững chãi đầu tiên, cho
ngƣời ta tin vào tiềm lực hiện thực của nó.” [71, tr. 102] “Tất cả những dịng tƣ
tƣởng lớn, làm nòng cốt cho nền văn học cổ điển, đều thai nghén và hình thành ở
Quốc âm thi tập” [71, tr. 103]. Đây là quan niệm mà gần nhƣ nhà nghiên cứu nào
cũng nhất trí. Các nghiên cứu về Nguyễn Trãi đã đƣợc triển khai từ nhiều góc độ,

nhiều cách tiếp cận và cho đến nay đã đạt đƣợc rất nhiều thành tựu. Về yếu tố Nho
giáo trong văn chƣơng Nguyễn Trãi, các nhà nghiên cứu có ba quan niệm chính:
Quan niệm thứ nhất phủ định sự ảnh hƣởng của Nho giáo tới Nguyễn Trãi, coi
Nguyễn Trãi là biểu tƣợng cho vấn đề dân tộc, hình ảnh của ơng vì thế khơng thể có
chút dính dáng gì đến Nho giáo, là một thứ hệ tƣ tƣởng đầy tính tiêu cực của ngoại
bang, là công cụ của giai cấp thống trị. Theo các tác giả này, nếu Nguyễn Trãi có
chịu ảnh hƣởng của Nho giáo thì ơng cũng dân tộc hóa các yếu tố đó đi, biến nó
thành những yếu tố tích cực mang tinh thần dân tộc. Đây là quan niệm của nhóm
các nhà nghiên cứu miền Bắc giai đoạn 1945-1986, tiêu biểu là tác giả của các bộ
giáo trình nhƣ chúng tơi đã đề cập ở trên. Bùi Văn Nguyên viết trong Giáo trình của
Đại học Sƣ phạm: “Nhƣ chúng ta đã nói ở phần “đặc điểm”, vì hoàn cảnh xã hội
nƣớc ta lúc bấy giờ khác hẳn với xã hội thời Khổng, Mạnh, cho nên không phải
ngẫu nhiên mà quan điểm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi có nhiều yếu tố dân tộc và
dân chủ” [92, tr. 131]. Quan niệm thứ hai cho rằng Nguyễn Trãi là Thiền sƣ, và
đƣơng nhiên gần nhƣ không chịu ảnh hƣởng của Nho giáo. Đây là ý kiến của tác giả
hải ngoại, Võ Văn Ái trong cuốn “Nguyễn Trãi sinh thức và hành động” [1]. Tác

14

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


giả này đã dành hơn 200 trang sách để chứng minh Nguyễn Trãi là một Thiền sƣ từ
cả hai phƣơng diện sinh thức và hành động. Quan niệm thứ ba công nhận ảnh
hƣởng của Nho giáo tới Nguyễn Trãi cũng nhƣ các sáng tác của ông với các mức độ
khác nhau. Đây là nhóm quan niệm chiếm đa số, của các tác giả trƣớc 1945, miền
Nam 1945-1975 và tình hình nghiên cứu chung 1975 đến nay. Có tác giả (nhất là ở
miền Nam 1945-1975) chủ yếu xem xét sự ảnh hƣởng của Nho giáo nhƣ Phạm Thế
Ngũ, Nguyễn Thiên Thụ. Phạm Thế Ngũ gọi cuộc đời Nguyễn Trãi là “một sự
nghiệp Nho thần”: “Chính là cái mối lo cao quý của bậc Nho thần trung trực khi

ngồi cao ở miếu đƣờng thì lo lắng vì dân, khi xa lánh ở giang hồ thì lo lắng vì vua”
[98, tr. 110]. Các tác giả từ sau đổi mới lại đây thì xem xét thêm sự ảnh hƣởng của
Nho giáo tới Nguyễn Trãi trong mối quan hệ với Phật, Đạo và vấn đề dân tộc một
cách khách quan. Trần Đình Hƣợu trong một bài viết từ năm 1979 nhƣng mãi sau
này mới in lần đầu trong cuốn Nho giáo và Văn học Việt Nam trung cận đại với tên
gọi Nguyễn Trãi và Nho giáo cho rằng: “Nguyễn Trãi, về mặt lịch sử là một nhà
Nho quá đặc sắc, sự nghiệp quá rộng lớn, ít ngƣời có thể so sánh, nhƣng về mặt văn
học thì lại là một nhà Nho- nghệ sĩ hết sức tiêu biểu. Muốn hiểu Nho giáo, nhà Nho,
văn học nhà Nho- với đặc sắc Việt Nam của nó- thì có lẽ ít có gƣơng mặt nào tiêu
biểu hơn Nguyễn Trãi” và khẳng định Nguyễn Trãi cơ bản là một nhà Nho dù ơng
có chịu ảnh hƣởng của Lão- Trang, chủ động chọn Nho giáo cho dân tộc nhƣng vẫn
bảo lƣu truyền thống Lý- Trần: “Ông đã lựa chọn Nho giáo, nhƣng là xu hƣớng
nhân đạo chủ nghĩa nhất trong Nho giáo thời đó... Nguyễn Trãi chọn Nho giáo thay
cho Phật giáo thời Lý Trần nhƣng không phải ông từ bỏ truyền thống Lý- Trần, mà
làm cho nó cao hơn vì rộng rãi hơn” [49, tr. 129-130]. Trần Ngọc Vƣơng có ba bài
viết về Nguyễn Trãi trong Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung xem xét
Nho giáo ở Nguyễn Trãi từ nhiều góc độ: là nguồn gốc của tƣ tƣởng nhân dân, trong
mối quan hệ với truyền thống và bản sắc dân tộc, trong tƣơng quan giữa nhà tƣ
tƣởng và nhà nghệ sĩ, giữa Nho giáo và Lão- Trang. Ông cho rằng: “Xét về câu chữ,
về tần số xuất hiện mang dấu ấn tƣ tƣởng thì, thì tƣ tƣởng Lão- Trang, đặc biệt là
Trang, có ảnh hƣởng đến Nguyễn Trãi khá hiển nhiên. Ảnh hƣởng của Phật giáo nói
chung, Thiền tơng nói riêng, đối với ơng khơng thật rõ ràng và có sức nặng đáng kể.
Nhƣng cả đối với học thuyết Lão- Trang này, Nguyễn Trãi khơng đồng hóa vào tâm

15

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


tƣởng và hiện thực hóa vào sự nghiệp mình những kết luận, những xác tín bản chất

nhất, nhƣ điều ơng đã làm đối với Nho giáo” [185, tr. 254]. Trần Nho Thìn thì nhận
định: “Có cảm tƣởng là tƣ tƣởng Lão- Trang hay Phật giáo đƣợc ông viện dẫn nhƣ
để che đậy, ngụy trang cho một thực tế tƣ tƣởng nào đó cần phải giải mã” [151, tr.
341]. Chúng tơi cho rằng các tác giả đã nhìn nhận đánh giá xác đáng sự ảnh hƣởng
của Nho giáo cũng nhƣ mối quan hệ với Lão- Trang ở Nguyễn Trãi, nhƣng yếu tố
Thiền còn cần phải làm rõ hơn nữa.
Các nghiên cứu về Lê Thánh Tông phần lớn thuộc về các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, qn sự, luật pháp, văn hóa. Cho đến nay chƣa có một chuyên luận nào thực
sự đáng kể về văn chƣơng Lê Thánh Tông. Xét về ảnh hƣởng của Nho giáo tới Lê
Thánh Tơng thì các nhà nghiên cứu gần nhƣ đều thống nhất ở điểm Lê Thánh Tơng
là ngƣời đã có vai trị quyết định trong việc hạn chế Phật, Đạo để độc tôn Nho thuật.
Quan niệm thứ nhất mà đại diện tiêu biểu là Trần Quốc Vƣợng coi đấy là tội của
của Lê Thánh Tơng vì “Điều quan trọng hơn nhiều và gây hậu quả nghiêm trọng ở
thế kỷ XVI là việc nhà Lê mô phỏng triều Minh xây dựng một nền quân chủ- Nho
giáo độc tôn, chuyên chế” [110, tr. 126]. Quan niệm thứ hai áp đảo hơn với đại đa
số các nhà nghiên cứu với góc nhìn có tính lịch sử cụ thể cho rằng lựa chọn Nho
giáo là một quá trình vận động phát triển từ cuối đời nhà Trần và mang tính tất yếu
trong điều kiện lịch sử đƣơng thời, do vậy họ nhìn nhận đánh giá một cách khách
quan ở cả đóng góp lẫn hạn chế của Nho giáo đối với đất nƣớc. Từ đó, các kiến giải
của họ đối với vấn đề Lê Thánh Tông và Nho giáo cũng mang tính cơng bằng hơn.
Họ đánh giá cao vai trị của Lê Thánh Tơng trong việc đã tạo ra đƣợc một thời đại
thịnh trị của Nho học, nhƣng cũng chỉ ra những mặt trái của nó cũng những tác
động lâu dài tới đất nƣớc. Trần Đình Hƣợu viết: “Nho học Việt Nam đến thời Lê
Thánh Tông đã đạt đến điểm cực thịnh. Và có lẽ đến đó nó cũng đã có bộ mặt tƣơng
đối ổn định. Thời thịnh trị đó đƣa lại vinh quang cho dân tộc. Nhƣng phải chăng
vinh quang cũng đẻ ra cả mặt trái của nó?” [110, tr. 251]. Các nhà nghiên cứu cũng
bàn đến mối quan hệ giữa Nho- Phật- Đạo ở thời Lê Thánh Tơng. Nguyễn Huệ Chi
cho rằng: “Có ngƣời đã đặt vấn đề trách cứ Lê Thánh Tông bài bác Phật giáo và
Đạo giáo để chỉ giữ lại một mình Tống Nho. Sự “nhất nguyên” đó có làm nghèo nàn
tƣ tƣởng xã hội đi không? Chúng tôi nghĩ, chắc là không thể nào tránh khỏi. Đây là


16

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


chỗ yếu nhất trong cái mơ hình mà Lê Thánh Tơng chọn lựa” [110, tr. 149]. Xét từ
góc độ văn học, các nghiên cứu sự ảnh hƣởng của Nho giáo đối với văn chƣơng Lê
Thánh Tông khá nhiều nhƣng không mang tính hệ thống mà mới chỉ dừng lại ở một
vài bài viết về các phƣơng diện đơn lẻ hoặc ở những bài viết tổng quan về tác giả.
Thanh Lãng nhận định vai trị của Lê Thánh Tơng trong q trình điển phạm hóa
của văn học nhà Nho: “Từ Nguyễn Trãi, văn chƣơng đã thoát dần địa hạt tƣ tƣởng
thuần túy để đi đi tới chủ trƣơng văn nghệ thuần túy coi văn nghệ nhƣ là một trò
chơi, hứng thú, một mơn trang trí cho cuộc đời. Lê Thánh Tơng với Hội Tao Đàn,
đã đẩy nền văn nghệ từ chƣơng mới phôi thai đến chỗ cực thịnh” [71, tr. 109]. Bùi
Duy Tân cho rằng Lê Thánh Tơng là “thống sối văn đàn nửa sau thế kỷ XV” [110,
tr. 35] và “Lê Thánh Tơng là đầu đàn của loại hình tác gia: nhà văn- nho sĩ khi Nho
giáo trở thành quan phƣơng, chính thống” [110, tr. 72]. Nguyễn Huệ Chi khẳng
định: “Ông xứng đáng với danh hiệu Tao đàn nguyên súy khơng chỉ vì ơng là vị
hồng đế đƣơng triều mà chính vì những tìm tịi nghệ thuật có giá trị hàng đầu trong
sáng tác” [110, tr. 156]. Đỗ Lai Thúy gọi Lê Thánh Tơng là một “nhà Nho- hồng
đế- thi nhân” và quả quyết rằng: “Sự nghiệp sáng tác của Lê Thánh Tông rất khớp
với những chuẩn của văn học Nho giáo, với tính chất chính thống và chính thức của
nó” [110, tr. 662]. Trần Thị Băng Thanh nghiên cứu “Lê Thánh Tông và các mối
“dị đoan”” đã cho rằng “Quả là trong tâm hồn Lê Thánh Tơng vẫn có những mối
“dị đoan”, và đậm nét một “cái tôi” trữ tình!” [110, tr. 280]. Nhìn chung, các tác giả
khá thống nhất về nhận định Lê Thánh Tông là một tác giả điển phạm của văn học
nhà Nho.
Tóm lại, chúng tơi cho rằng cho đến nay vẫn chƣa có một cơng trình khoa
học nào đặt vấn đề nghiên cứu ba tác giả Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi và Lê

Thánh Tông trong sự vận động tới sự điển phạm hóa của văn học nhà Nho. Vì thế,
luận án của chúng tơi có thể coi là cơng trình đầu tiên tiếp cận vấn đề văn học nhà
Nho theo hƣớng này.
3. Phạm vi, đối tƣợng và mục đích nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
3.1.1. Điển phạm (canon) là một thuật ngữ của phƣơng Tây nhằm chỉ những
tác phẩm đƣợc xem là đỉnh cao của một nền văn học, với đặc trƣng là tính tồn bích

17

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


và tính quyền lực. Cho đến nay, lý thuyết về điển phạm đã có một lịch sử phát triển
khá lâu dài và phức tạp. “Canon” có nguồn gốc từ “kanna” của Hy lạp, chỉ một loại
cây sậy có ích, một loại cây thân thẳng sống ở đầm lầy với thân cứng. Sau đó, từ
“kanon” đã mở rộng nghĩa trên theo hƣớng ẩn dụ và hoán dụ sang chỉ những vật
dụng roi, thanh, thƣớc cũng nhƣ những nguyên tắc, quy chuẩn hoặc hình mẫu.
Trong kiến trúc, nó hàm nghĩa là sự đo đạc chính xác, trong nghệ thuật, nó là những
tỉ lệ chuẩn. Nghĩa thứ hai đƣợc phát triển rõ nhất ở thời cổ đại bởi nhà điêu khắc nổi
tiếng Polykleitos vào thế kỷ V. Đây là thời kỳ đầu tiên của điêu khắc cổ điển, giai
đoạn hình thành quan niệm về tính hiện thực trong nghệ thuật, sau này sẽ ảnh
hƣởng sâu sắc đến sự phát triển của nghệ thuật phƣơng Tây. Bức tƣợng Doryphoros
của Polykleitos, một trong những tác phẩm điêu khắc đƣợc sao chép nhiều nhất ở
thời cổ đại, chính là một minh họa cho quan niệm ấy. Mặc dù hiện nay bức tƣợng
này khơng cịn, nhƣng nó từng đƣợc ngƣời La Mã ngƣỡng mộ gần nhƣ tôn sùng và
coi là hình mẫu lý tƣởng để các tác phẩm điêu khắc khác noi theo, là “bức tƣợng mà
các nghệ sĩ gọi là Canon”. Bức tƣợng ấy cũng đƣợc xem là sự hiện thực hóa những
ý tƣởng trong cuốn sách duy nhất đƣợc biết đến của Polykleitos, tiêu đề là Kanon,
trong đó diễn giải chi tiết nền tảng lý thuyết và phƣơng pháp kỹ thuật của ông.

Những chi tiết tính tốn tốn học chính xác và “tỉ lệ lý tƣởng” cơ thể con ngƣời của
Polykleitos đã cung cấp một bản thiết kế ứng dụng thực tiễn và tiêu chuẩn mỹ học
cho các nhà điêu khắc về sau noi theo. Theo Polykleitos, điều cơ bản cần có của
“kanon” là sự mô phỏng tự nhiên hoặc hiện thực. Nhà nghiên cứu lịch sử mỹ thuật
Brunilde Ridgway cho rằng Doryphoros không đại diện cho cá nhân cụ thể mà là
mẫu hình tuyệt vời nhất về hình tƣợng một vận đơng viên Olympic. Có thể nói,
khơng có con ngƣời cụ thể nào trơng giống đƣợc nhƣ bức tƣợng này, hoặc theo cách
nói của Platon thì thế giới này chỉ có thể tạo ra đƣợc những bản sao nhạt nhịa của
nó. Đến Platon, điển phạm đƣợc giải thích nhƣ là một nguyên mẫu cho khái niệm về
ý niệm hay hình thức của Platon, một nguyên mẫu lý tƣởng hình thành nên những
tri thức đúng đắn và đƣợc coi là chuẩn mực để noi theo. Plato cho rằng Polykleitos
và Homer là những hình mẫu nhà điêu khắc và nhà thơ điển phạm, vì họ mang đến
ý niệm về sự nghiêm khắc, lịng tốt và tính chân thực- nói gọn lại là quan niệm của

18

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Platon về tri thức. Tại giai đoạn này, thuật ngữ “kanon” mang ý nghĩa là thƣớc đo
của đạo đức và tri thức.
Ở những thế kỷ sau, ngƣời La Mã la tinh hóa “kanon” thành “canon”. Họ bắt
đầu sao chép, phỏng theo các kiệt tác của ngƣời La Mã trong các lĩnh vực nghệ
thuật, kể cả văn chƣơng. Nhƣ vậy, sự xuất hiện những tác phẩm sao chép đƣợc cho
là một dấu hiệu cho thấy sự tồn tại của điển phạm. Tuy thế, sự mô phỏng các tác
phẩm nổi tiếng cũng có chức năng về mặt ý thức hệ, bởi vì sự viện dẫn các tiền lệ
lịch sử có tính điển hình thƣờng là một hành động để chính thống hóa quyền lực
chính trị đƣơng thời. Lúc này, sự phân biệt giữa các tác giả “cổ đại” và “hiện đại”,
“cổ điển” và “đƣơng thời”, đa số và thiểu số đã bắt đầu đƣợc cơng thức hóa. Đến
thế kỷ IV, điển phạm đƣợc coi là danh mục sách cần để học, ví dụ nhƣ sách văn học

của Cơ đốc giáo. Lịch sử hình thành các điển phạm kinh thánh kéo dài đến tận thế
kỷ XVI. Ở thời trung cổ này, đã có sự chuyển biến trong định nghĩa: điển phạm vẫn
đƣợc coi là khuôn mẫu về nghệ thuật và đạo đức, nhƣng bổ sung thêm phƣơng diện
là danh sách những kiến thức sƣ phạm về nghệ thuật tự do, đặc biệt là ngữ pháp,
thực hành ngôn ngữ, văn học.
Đến cuối thời trung cổ và bƣớc vào giai đoạn Phục Hƣng, văn học của các
ngơn ngữ nói ở châu Âu trở thành điển phạm chủ yếu qua con đƣờng mô phỏng các
tác phẩm cổ điển cổ đại, nhƣ cách mà văn học tiếng Latin đã làm trƣớc đó với di sản
của ngƣời Hy Lạp. Các nhà thơ cổ đại đƣợc sao chép nhằm mục đích chính thống
hóa văn học đƣơng đại và những giá trị mà nó đại diện cho. Tuy vậy, mơ phỏng và
sao chép các tác phẩm văn học cổ điển chỉ là một trong những cách thức mà các nền
văn học của các ngơn ngữ nói dùng để nâng cao vị trí của mình. Giữa điển phạm
hiện đại và cổ trung đại có những sự khác biệt lớn. Trƣớc hết, cuộc sống vật chất và
điều kiện xã hội đã tạo nên những thay đổi bản chất trong việc sáng tác, phát hành
và tiếp nhận tác phẩm văn học. Bên cạnh đó, phải tính đến sự hình thành của nhà
nƣớc- dân tộc hiện đại và tác động của nó tới việc xác định những điển phạm của
dân tộc. Cuối cùng, các mơn học về văn học thế tục đã góp phần vào q trình điển
phạm hóa những tác phẩm văn học theo của mỗi dân tộc.
Cuối thế kỷ XX, với đòi hỏi về sự bình đẳng của chủ nghĩa dân chủ, dƣới sức
ép của chủ nghĩa nữ quyền, chủ nghĩa đa văn hóa, văn hóa đại chúng và các lý

19

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


×