Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

TIỂU LUẬN PHÁP TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QPAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.81 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRUNG TÂM GIÁO DỤC THỂ CHẤT – QUỐC PHÒNG


TIỂU LUẬN
KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ
QUỐC PHÒNG- AN NINH

Họ và tên
Mã số sinh viên:
Lớp :
Giảng viên hướng dẫn :

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 12 tháng 11 năm 2022
Page 1 of 24

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài tiểu luận ,tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ


từ cô. Trước tiên, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến cô Trần người trực
tiếp giảng dạy học phần Giáo dục Quốc phòng An ninh , đã truyền đạt nhiều kiến
thức bổ ích và ln dành nhiều thời gian tận tình chỉ bảo, định hướng để tơi có thể
hồn thành đề tài tiểu luận của mình. Và có lẽ mọi người đều nghĩ rằng học học
phần Giáo dục Quốc phịng An ninh là nhàm chán, nhưng khơng nhờ có học phần
này đã giúp tơi hiểu hơn về lĩnh vực chính trị, quân sự, các đặc điểm của nền Quốc
phịng An ninh nước ta. Ngồi ra giảng viên Trần Thị Yến Vy cũng làm tăng tính
sinh động cho buổi học bằng những slide được cô chuẩn bị chu đáo, cơ ln quan
tâm rằng học sinh của mình đã hiểu bài chưa. Hơn hết tôi xin cảm ơn giảng viên
của mình đã giúp tơi hồn thành tốt được học phần này.
Xin chân thành cảm ơn các dồng chí của tiểu đội 10 đã luôn giúp đỡ , hỗ trợ


tôi trong suốt quá trình học. Trong quá trình nghiên cứu và hồn thiện tiểu luận tơi
chắc chắn khơng thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế , kính mong nhận được
sự góp ý chân thành và sâu sắc từ cơ để tiểu luận của tơi được hồn thiện hơn.
Đồng thời , để tơi có thêm nhiều kinh nghiệm thực tiễn cho những lần nghiên cứu
sau.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn !
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 12 tháng 11 năm 2022
Tác giả
Page 1 of 24

MỤC LỤC:

PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài: ............................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu đề tài ........................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:............................................................. 2
4. Phương pháp nghiên cứu:.......................................................................... 3
5.Kết cấu đề tài: ............................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÍ LUẬN VỀ KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ
HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG AN NINH Ở VIỆT
NAM.................................................................................................................... 3
1. Khái quát vấn đề kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng
cố Quốc phòng An ninh .................................................................................. 3
2. Cơ sở lí luận của sự kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường
củng cố Quốc phòng- An ninh: .................................................................... 11
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN SỰ KẾT
HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ
QUỐC PHÒNG- AN NINH............................................................................. 15
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.......................................................................... 18



1. Kết luận:..................................................................................................... 18
2. Kiến nghị: .................................................................................................. 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 20
Page 1 of 24

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Củng cố quốc phòng – an ninh phải đi đôi với phát triển kinh tế – xã hội,
phát triển kinh tế – xã hội phải gắn với củng cố tăng cường quốc phòng – an ninh. Đây là
hai nhiệm vụ then chốt, quan trọng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn nhận thức
sâu sắc trong tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Trình
độ phát triển kinh tế của một quốc gia sẽ là cơ sở rất lớn để tiềm lực an ninh quốc phịng
của quốc gia đó dựa vào đó để phát triển vững mạnh hơn nữa. Bởi vì có nhận định đó là
do, để tạo nên được nền tảng kỹ thuật, vật chất, công nghệ và nhân lực cho quốc phịng,
an ninh thì nền kinh tế của quốc gia đó phải phát triển thì mới thực hiện việc đầu tư củng
cố an ninh quốc phòng. Bên cạnh việc phát triển an ninh quốc phịng thì nền kinh tế phát
triển còn phát triển đất nước trên nhiều mặt, nhiều phương diện thơng qua nguồn vốn tích
lũy, nguồn thu ngân sách không ngừng được tăng lên cửa quốc gia mình. Khi một quốc
gia mà dân giàu thì nước mới mạnh, khi người dân có cuộc sống vật chất, tinh thần cao
thì niềm tin đối với Đảng, Nhà nước ngày càng nhiều và được củng cố vững chắc hơn,
đây cũng là một phần phát triển dựa trên sự phát triển của nền kinh tế. Từ đó, Đảng và
Nhà nước ta đã càng ngày càng củng cố được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường
ổn định xã hội và tiềm lực quốc phòng, an ninh.
Từ khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng, do nắm vững quy luật và
biết kế thừa kinh nghiệm của lịch sử nên đã thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế- xã hội
với tăng cường củng cố Quốc phòng An ninh một cách nhất quán. Trong cuộckháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược(1945-1954) Đảng ta đề ra chủ trương “ Vừa kháng chiến ,
vừa kiến quốc”, “ Vừa chiến đấu, vừa tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm”; vừa thực
hiện phát triển kinh tế ở địa phương vừa tiến hành chiến tranh nhân dân rộng khắp- “ Xây

dựng là kháng chiến”, địch đến thì đánh, địch lui ta lại tăng gia sản xuất. Trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước(1954-19750) kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường
củng cố Quốc phòng An ninh đã được Đảng ta chỉ đạo thực hiện ở mỗi miền, trong đó
miền Bắc đã xây dựng phát triển chế độ xã hội mới, nền kinh tế mới,văn hóa mới, nâng
cao đời sống nhân dân; kết hợp chặt chẽ chăm lo củng cố Quốc phòng An ninh vững
mạnh,đánh thắng giặc ngoại xâm, bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
và giúp
Page 2 of 24

sức cho tiền tuyến lớn ở miền Nam. Ở miền Nam Đảng ta chỉ đạo ra quân đánh giặc đồng
thời cũng bảo vệ xây dựng căn cứ địa miền Nam , bảo vệ hậu phương miền Bắc.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng với bối cảnh


thế giới, khu vực đầy biến động, tiềm ẩn nhiều bất trắc, phức tạp, khó lường sự tranh
chấp chủ quyền biên giới, biển và đảo đang diễn ra gay gắt. Các thế lực thù địch vẫn
khôngngừng tăng cường thực hiện âm mưu, hoạt động “Diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật
đổnhằm xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong khi đó ở trong
nướccịn tồn tại, phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực, tình trạng tham nhũng, quan liêu, hách
dịch,biểu hiện xa rời mục tiêu, lí tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, “tự
diễnbiến”, “tự chuyển hóa”... đã và đang tác động ảnh hưởng đến vai trị, uy tín lãnh đạo
củaĐảng, Nhà nước ta. Chính vì vậy, kết hợp giữa phát triển kinh tế – xã hội với củng cố
quốcphòng an – an ninh là hai nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm đảm bảo cho sự phát
triển bền vững của đất nước.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên , người nghiên cứu chọn đề tài “Kết hợp phát
triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng An ninh” làm để tài tiểu luận
với mong muốn nghiên cứu về nền kinh tế , xã hội và Quốc phịng An ninh của nước ta
đồng thời cũng tìm ra những giải pháp cụ thể thiết thực . Góp phần làm cho nền kinh tếxã hội phát triển , nền Quốc phịng An ninh được củng cố tồn diện và tốt hơn.


2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài góp phần làm sáng tỏ quan điểm, chủ trương, đường lối trong sự kết hợp phát triển
kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố Quốc phịng An ninh. Từ đó vận dụng vào trong
công cuộc phát triển kinh tế- xã hội và xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa
hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng An
ninh.
3.2.Phạm vi nghiên cứu
Những vấn đề liên quan đến đường lối, chủ trương, quan điểm trong việc phát
triển kinh tế- xã hội với tăng tường củng cố Quốc phòng An ninh.

Page 3 of 24

4. Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mac-Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh, chủ trưng, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam; các
văn bản của các cấp về giáo dục và phát triển giáo dục.


Đề tài sử dụng cách tiếp cận theo quan điểm hệ thống- cấu trúc; phân tíchtổng hợp; quan
điểm lịch sử; quan điểm thực tiễn để xem xét những nội dung liên quan đến
vấn đề nghiên cứu và định hướng, chỉ đạo cho quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.

5.Kết cấu đề tài:
Tiểu luận bao gồm: Phần mở đầu; hai chương; kết luận và kiến nghị; danh
mục và tài liệu tham khảo.


Chương 1: NHỮNG LÍ LUẬN VỀ KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ
HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG AN NINH Ở VIỆT
NAM
1. Khái quát vấn đề kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường
củng cố Quốc phòng An ninh
1.1 Một số khái niệm cơ bản
*Hoạt động kinh tế
Hoạt động kinh tế với tư cách là một hoạt động sử dụng nguồn lực của xã hội nhằm
tạo ra các sản phẩm (hữu hình hay vơ hình) thỏa mãn nhu cầu khác nhau của con người
cho đến nay vẫn là hoạt động chủ yếu, đóng vai trị nền tảng trong đời sống xã hội lồi
người. Đối với mỗi quốc gia, thành công trong lĩnh vực phát triển kinh tế luôn là cơ sở
quan trọng để tạo dựng những thành tựu trong các lĩnh vực khác.
*Quốc phịng
Quốc phịng là cơng việc giữ nước của một quốc gia bao gồm tổng thể các hoạt động
đối nội và đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, qn sự, văn hóa, xã hội... .
Theo Điều 2 Luật Quốc phòng năm 2018 khái niệm quốc phòng được quy định như sau:
“Quốc phịng là cơng cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó
sức mạnh quân sự là đặc trưng lưc lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt” ( Luật Quốc
phòng 2018).
*An ninh
An ninh là trạng thái ổn định an toàn, khơng có dấu hiệu nguy hiểm để đe dọa sự
tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân, của tổ chức, của toàn xã hội. Bảo vệ an
ninh
là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn dân và của cả hệ thống chính trị do lực
lượng
an ninh làm nịng cốt, bảo vệ an ninh luôn kết hợp chặt chẽ với củng cố quốc phòng.
Page 4 of 24

*Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng An
ninh

Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng An ninh ở
nước ta là hoạt động tích cực, chủ động của Nhà nước và nhân dân trong việc gắn kết


chặtnchẽ hoạt động kinh tế- xã hội với Quốc phòng An ninh trong một chỉnh thể thống
nhất trên phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương, thúc đẩy nhau cùng phát triển,
góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.2 Nội dung kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng có Quốc
phịng An ninh
a) Đối với các vùng kinh tế trọng điểm
-Đặc điểm của vùng kinh tế trọng điểm
Vùng kinh tế trọng điểm là vùng có tiềm năng lớn về công nghiệp, nông nghiệp,
ngư nghiệp, lâm nghiệp, giap lưu quốc tế... là vùng đóng góp chủ yếu cho tổng thu nhập
quốc dân, tập trung nhiều đầu mối giao thông quan trọng, nhièu sân bay... Hiện nay, nước
ta xác định 4 vùng kinh tế trong điểm; phía Bắc, phía Nam, miền Trung, vùng đồng bằng
Sơng Cửu Long.
Về kinh tế, các vùng kinh tế trọng điểm là nơi có mật độ dân cư và tính chất đơ thị
hóa cao, gắn liền với các khu công nghiệp lớn, khu kinh tế các liên doanh có vốn đầu tư
nước ngồi...
Về Quốc phòng An ninh, mỗi vùng kinh tế trọng điểm thường nằm trong các khu
vực phịng thủ, hướng tiến cơng chiến lược chủ yếu trong chiến tranh xâm lược của địch.
-Nội dung kết hợp cần tập trung như sau:
Trong quy hoạch, xây dựng các thành phố, khu công nghiệp nên chọn bố cục phân
bố vừa phải, phân bố đều trên diện tích lớn, khơng nên xây dựng tập trung ở các siêu đô
thị lớn, nhằm tạo thuận lợi cho công tác quản lý, chính trị để giữ vững an ninh thời bình,
hạn chế hậu quả hỏa lực của địch trong thời chiến.
Phải gắn kết chặt chẽ việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với kết cấu hạ tầng quốc
phòng của các dân tộc. Kết hợp xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với xây dựng cơng trình,
trang thiết bị quốc phịng, trận địa, cơng trình phịng thủ dân sự...

Về lâu dài, tại các thành phố, khu đô thị, khu kinh tế tập trung cần có kế hoạch xây
dựng dần về mặt kinh tế hệ thống “cơng trình ngầm”, đặc điểm địa bàn, khu vực có giá trị
quốc phịng, thơng qua việc bố trí nhà máy sản xuất, cơng trình, phê duyệt dự án đầu tư
nước ngồi.
Khắc phục tình trạng chỉ chú ý đến lợi ích, hiệu quả kinh tế trước mắt mà quên nhiệm
vụ quốc phòng - an ninh và ngược lại, khi tổ chức khu vực phòng thủ, cơng trình phịng
thủ chỉ chú ý đến các yếu tố ảnh hưởng đến quốc phịng, an ninh mà khơng bảo đảm xét
đến lợi ích kinh tế, trong việc thành lập khu công nghiệp tập trung, đặc khu kinh tế.
Page 5 of 24

Phải gắn với quy hoạch xây dựng lực lượng quốc phịng, an ninh, tổ chức chính trị,
đồn thể chính trị trong các tổ chức kinh tế này. Lựa chọn đối tác đầu tư, thỏa thuận thay
thế, tạo sự đan xen lợi ích giữa các nhà đầu tư nước ngồi trong khu cơng nghiệp, đặc
khu kinh tế, khu chế xuất.


Xây dựng và phát triển kinh tế ở các vùng kinh tế lớn phải đáp ứng nhu cầu của nhân
dân trong thời bình, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng đáp ứng yêu cầu chi viện cho chiến
trường trong thời chiến trên cơ sở kết hợp phát triển kinh tế địa phương với xây dựng hậu
phương của từng vùng kinh tế lớn để sẵn sàng chủ động di dời, sơ tán đến nơi an toàn khi
xảy ra chiến tranh, xâm lược.
b) Đối với vùng núi biên giới
-Đặc điểm của vùng núi biên giới
Vùng biên giới miền núi nước ta có chiều dài tiếp giáp với Trung Quốc, Lào và
Campuchia. Đây là địa bàn sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc thiểu số, mật độ dân
số thấp (trung bình 20-10 năm). 40 người/1 km2), kinh tế kém phát triển, trình độ dân trí
thấp, đời sống nhân dân cịn nhiều khó khăn. Vùng núi biên cương có ý nghĩa đặc biệt
trong thế trận phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Trong quá khứ, những vùng đất này là căn cứ
kháng chiến, là xương sống chiến lược của cả nước.
Ngày nay, vùng rừng núi biên giới vẫn là địa bàn chiến lược hết sức quan trọng trong

chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Kinh tế, văn hóa, xã hội cịn nhiều khó khăn, yếu kém. Hội,
quốc phòng, an ninh dễ bị địch lợi dụng. Dụ dỗ, xúi giục đồng bào thực hiện âm mưu
chiến lược “Diễn biến hịa bình”, tình hình bất ổn, biến động, diễn biến rất phức tạp ở
nhiều nơi.
Vì vậy, trước mắt và lâu dài, việc kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an
ninh ở vùng núi biên giới là phải làm.
-Việc kết hợp cần tập trung vào các nội dung sau:
Quan tâm đầu tư phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh khu vực biên giới,
vùng giáp ranh với các nước. Có biện pháp thích hợp để vận động, điều chỉnh dân cư từ
nơi khác đến vùng núi biên giới. Tập trung xây dựng trọng điểm. Đơ thị liên quan đến
kinhtế, quốc phịng, an ninh.Trước hết cần tập trung xây dựng và phát triển hệ thống kết
cấu hạ tầng, mở và hoànthiện các trục đường ngang dọc, đường tránh kinh tế, thực hiện
tốt chương trình xóa đóigiảm nghèo, chương trình phát triển kinh tế - xã hội 135 vì cộng
đồng nghèo.Đối với những nơi có vị trí địa lý quan trọng, vùng sâu, vùng xa cịn nhiều
khó khăn cần sự chung tay mọi nguồn lực, mọi lực lượng của cả trung ương và địa
phương cùng quan tâm, chung sức.Cần có chính sách năng động, nhất là các địa bàn
chiến lược trọng điểm dọc biên giới.Lực lượng vũ trang, lực lượng vũ trang làm nòng cốt
xây dựng khu kinh tế quốc phòng,khu kinh tế quốc phòng kinh tế tạo thế và lực mới cho
phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường sức mạnh quốc phịng, an ninh.
Page 6 of 24

Nước ta có biển dài và rộng, diện tích hơn 1 triệu km2 và ( gấp hơn 3 lần diện tích đất
liền). Biển và hải đảo nước ta có nhiều tiềm năng về hải sản và khoáng sản, là cửa ngõ
giao lưu thương mại quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển nhiều ngành công
nghiệp trọng điểm của nước ta.


Việc khai thác những ưu thế vượt trội của ta còn nhiều hạn chế, nhất là vùng biển, đảo
của ta hiện đang tiềm ẩn nhiều mâu thuẫn rất phức tạp, chủ quyền quốc gia, dân tộc đe
dọa lợi ích của nhân dân và tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến xung đột. Mặt khác, chưa có một

chiến lược tổng thể hồn hảo để phát triển kinh tế biển và bảo vệ biển, đảo. Sức mạnh
tổng hợp trên biển là quá mỏng.
Việc xem xét kNết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh trên
biển, đảo là yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa hết sức quan trọng trước mắt và lâu dài. Góp
phầnthúc đẩy phát triển nhanh các ngành kinh tế biển để chiếm lĩnh các vùng biển, đảo và
làm giàu cho đất nước.
-Nội dung kết hợp cần tập trung vào những vấn đề sau:
Tập trung xây dựng và hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế, xây dựng thế trận quốc
phòng, an ninh, bảo vệ biển, đảo trong tình hình mới, làm nền tảng cho thực hiện nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc và hội nhập kinh tế - xã hội. Bảo mật là một cách tiếp cận cơ bản, bao
trùm và lâu dài.
Làm thế nào để từng bước đưa dân ra các vùng ven biển và đảo gần giới tuyến, xây
dựng hậu phương, hỗ trợ phát triển kinh tế, xây dựng các phương án bảo vệ vững chắc,
bềnvững các vùng biển, đảo. - Các quốc gia phải có cơ chế, chính sách phù hợp để động
viên,khuyến khích người dân ra quần đảo làm ăn lâu dài.
Phát triển dịch vụ biển, đảo. Tạo điều kiện để người dân bám trụ sinh sống, làm ăn.
Tạo điều kiện phát triển liên kết kinh tế, kinh doanh trên các vùng biển, đảo với các nước
phát triển thuộc chủ quyền của ta, tạo đối tác có lợi ích đan xen, xây dựng cơ chế, chính
sách chống xâm lược của nước lớn. Làm như vậy, cả hai nước sẽ thể hiện được chủ
quyềncủa mình, đồng thời hạn chế được âm mưu xâm lược can thiệp trên các vùng biển,
đảo củacác thế lực thù địch, tạo cho các nước có thế và lực để giải quyết hịa bình các
tranh chấp trên các vùng biển, đảo.
Tập trung đầu tư, phát triển các chương trình nghề cá xa bờ, qua đó kiểm tra, kiểm sốt,
phịng ngừa, ngăn chặn các hoạt động xâm phạm chủ quyền biển đảo của Dân quân tự vệ
biển, Hải đoàn, Biển đảo. Xây dựng Xây dựng một số đơn vị kinh tế - quốc phòng hùng
mạnh ở các vùng biển,đảo để làm nòng cốt phát triển kinh tế biển của bạn và tạo điều
kiện thuận lợi. vùng biển,đảo được bảo vệ nghiêm ngặt.
Lên phương án đối phó với các tình huống có thể xảy ra trên các đại dương và hòn đảo
của chúng ta. Mạnh dạn đầu tư xây dựng lực lượng nòng cốt, thế trận phòng thủ trên biển,
đảo, nhất là phát triển, hiện đại hóa Hải quân Việt Nam với quân số đủ sức phòng thủ,

bảovệ vùng biển, đảo.
-Đối với nông, lâm, ngư nghiệp
Page 7 of 24

Hiện nay, hơn 70% dân số nước ta vẫn sống ở nông thôn và làm nông nghiệp, người
làm nghề lâm nghiệp và đánh bắt hải sản. Hầu hết quân đội và của cải được huy động cho
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều đến từ vùng này.
Trong việc kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng, an ninh ở các vùng này
cần chú trọng: đa dạng ngành nghề nông, lâm nghiệp, thủy sản, hướng tới cơng nghiệp hóa,hiện


đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn, sản xuất nhiều sản phẩm, hàng hóa có giá trị cao phục vụ trong
nước và xuất khẩu, có dự trữ đủ về mọi mặt để đảm bảo an tồn.
Hội nhập nơng, lâm, ngư nghiệp góp phần giải quyết tốt các vấn đề xã hội như xóa đói,
giảm nghèo, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe, đền ơn đáp nghĩa, nâng cao mức sống
vật chất và tinh thần phải gắn với giải pháp phù hợp. Xây dựng nông thôn mới văn minh
hiện đại. Là “cuộc chiến của lòng dân” bảo đảm an ninh, an tồn thực phẩm ở vùng nơng
thơn và góp phần xây dựng hệ thống quốc phòng vững chắc. Để củng cố thôn, bản, vùng
đảo, vận động nhân dân bằng cách vận động các công ty trên đảo, tập trung đầu tư vào các liên
hiệp hợp tác xã, xây dựng và duy trì đội tàu cá, đánh bắt xa bờ, xây dựng Lực lượng tự vệ, v.v.
Cần, Hải quân và Dân quân đảo.
Hợp tác chặt chẽ với Hải quân và Cảnh sát biển để bảo vệ các đại dương và hải đảo để
tạo cơ sở chính trị vững chắc ở miền núi biên cương nước ta, nhất là Tây Bắc, Tây Nguyên và
Tây Nam Bộ, chúng ta cần khuyến khích phát triển đồn điền gắn với định canh, định cư. Và cũng
cần phải kết hợp vận tải, dịch vụ bưu chính, chăm sóc sức khỏe, khoa học và cơng nghệ và giáo
dục Giáo dục và kỹ thuật cơ bản.
• Kết hợp đối với trong công nghiệp
Công nghiệp là ngành kinh tế quan trọng của quốc gia, cung cấp máy móc, nguyên
nhiên liệu cho các ngành kinh tế khác và cho chính nó cũng như cho cơng nghiệp quốc
phịng; sản xuất sản phẩm tiêu dùng cho xã hội, phục vụ xuất khẩu; sản xuất ra vũ khí,

trang thiết bị quân sự đáp ứng nhu cầu của hoạt động quốc phòng, an ninh.
Nội dung kết hợp kinh tế xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong phát triển
công nghiệp là kết hợp ngay từ khâu quy hoạch bố trí các đơn vị kinh tế của ngành cơng
nghiệp. Bố trí một cách hợp lí trên các vùng lãnh thổ, quan tâm đến vùng sâu, vùng xa,
vùng kinh tế kém phát triển, thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng
thơn tập trung đầu tƣ phát triển một số ngành công nghiệp liên quan đến quốc phịng nhƣ
cơ khí, chế tạo, điện tử, công nghiệp, điện tử kĩ thuật cao, luyện kim, hố chất, đóng tàu để vừa
đáp ứng nhu cầu trang bị cơ giới cho nền kinh tế, vừa có thể sản xuất ra một số sản phẩm kĩ thuật
công nghệ cao phục vụ quốc phòng, an ninh phát triển cơng nghiệp quốc gia theo hướng mỗi nhà
máy, xí nghiệp vừa có thể sản xuất hàng dân dụng, vừa có thể sản xuất hàng quân sự. Kết hợp
trong đầu tưu nghiên cứu, sáng chế, chế tạo, sản xuất các mặt hàng có tính lưỡng dụng cao trong
các nhà máy và ở một số cơ sở công nghiệp nặng.Các nhà máy cơng nghiệp quốc phịng trong
thời bình, ngồi việc sản xuất ra hàng quân sự phải tham gia sản xuất hàng dân sự chất lượng
cao, phục vụ tiêu dùng trongnước và xuất khẩu. Theo hướng trên, từ nay đến năm 2020, Nhà
nước cần tập trung xâydựng một số nhà máy mũi nhọn, có thể tham gia nghiên cứu, sáng chế và
sản xuất một số mặt hàng quân sự đáp ứng trang bị cho lực 53 lượng vũ trang, trong đó tập

trung vào mộtsố ngành như cơ khí luyện kim, cơ khí chế tạo, điện tử, tin học, hoá dầu.
Page 8 of 24

Mở rộng liên doanh, liên kết giữa ngành công nghiệp nƣớc ta (bao gồm cả cơng
nghiệp quốc phịng) với cơng nghiệp của các nƣớc tiên tiến trên thế giới ; ƣu tiên những
ngành, lĩnh vực có tính lưỡng dụng cao thực hiện chuyển giao công nghệ hai chiều, từ
côngnghiệp quốc phịng vào cơng nghiệp dân dụng và ngƣợc lại phát triển hệ thống


phịng khơng cơng nghiệp và phát triển lực lƣợng tự vệ để bảo vệ các nhà máy, xí nghiệp
trong cả thời bình và thời chiến xây dựng kế hoạch động viên công nghiệp quốc gia phục
vụ thời chiến ; thực hiện dự trữ chiến lược các nguyên, nhiên, vật liệu q hiếm cho sản
xuất qnsự.

• Kết hợp trong giao thơng vận tải, bưu điện, y tế, khoa học công nghệ, giáo dục
và xây dựng cơ bản
-Trong giao thông vận tải
Phát triển hệ thống giao thông vận tải đồng bộ bao gồm đường bộ, đường sắt, đường
hàng không, đường sông và đường thủy đáp ứng nhu cầu đi lại, vận chuyển . hàng hóa
trong nước và mở rộng giao lưu với bên ngoài. - Xây dựng mạng lưới đường bộ cần tập
trung mở rộng và nâng cấp các tuyến trục Bắc - Nam, trong đó có đường Trường Sơn và
đường Hồ Chí Minh. Từ những con đường này, nên phát triển những con đường ngang,
nối 5 giữa các trục dọc, phát triển thành các quận, huyện của cả quốc gia.
Việc thiết kế và xây dựng các cơng trình giao thơng, đặc biệt là tuyến vận tải chiến
lược có yêu cầu tác chiến cả trong thời bình và thời chiến, đặc biệt với loại xe quân sự cơ
động trọng tải, lưu lượng lớn và liên tục cần được tính đến. Nên lên kế hoạch tránh nhiều
tại các giao lộ nơi có khả năng bị kẻ thù tấn cơng trong chiến tranh. Ngồi cây cầu lớn
bắc qua sông, bến phà và đường ngầm dành cho người đi bộ nên được lắp đặt. Xây dựng
đường hầm của Đường xuyên qua núi ở những đoạn địa hình cho phép, đồng thời cải tạo
các hang động hiện có ở hai bên đường để tạo kho và địa điểm đóng quân khi cần thiết;
thiết kế, xây dựng lại hệ thống đường ống dẫn dầu Bắc và Nam để ngầm chơn sâu, có
đường vịn tại mỗi đoạn đảm bảo vận hành an tồn trong cả thời bình và thời chiến.
Ở vùng ven biển, ngoài việc phát triển mạng lưới đường bộ, cần chú trọng cải tạo và
phát triển đường sông, đường biển, cảng sông, xây dựng cảng biển, đảm bảo giao thông
thủy, bốc dỡ thuận tiện, khi mở rộng sân bay cần lưu ý sân bay hàng sau nằm sâu trong
đất
liền, sân bay nằm sau chiến tranh, xa lộ làm đường băng cho máy bay cất, hạ cánh. Hạ
cánh
là cần thiết trong chiến tranh. Trong hàng loạt các tuyến đường xuyên Á sau này được
xâydựng xuyên qua Việt Nam, các cửa khẩu và các nước có chung biên giới được củng
cố để ngăn chặn kẻ thù sử dụng các tuyến đường này khi tấn công và xâm lược, bạn cần
có kế hoạch xây dựng một khu vực phịng thủ vững chắc, xây dựng phương án huy động
vận tải thời chiến...
-Trong bưu chính viễn thơng

Gắn kết chặt chẽ ngành bưu chính quốc gia với ngành tình báo Qn đội, công an để
phát triển hệ thống thông tin quốc gia hiện đại đảm bảo cung cấp dịch vụ thông tin liên
lạc nhanh chóng, chính xác, an tồn phục vụ khách hàng lãnh đạo, chỉ huy, trị nước trong
mọi tình huống, thời bình. và trong thời chiến.
Có phương án thiết kế, xây dựng và bảo vệ hệ thống thông tin liên lạc cố định trong
mọi tình huống, các phương tiện thơng tin liên lạc và điện tử phải được giữ bí mật và


được trang bị khả năng chống nhiễu tiên tiến để ngăn chặn chiến tranh thông tin điện tử
của đối
Page 9 of 24

phương. Khi làm việc với nước ngoài để chế tạo, mua sắm trang thiết bị thông tin điện tử
phải cảnh giác, lựa chọn đối tác, có kế hoạch chống âm mưu phá hoại của kẻ thù, xây
dựng
kế hoạch huy động thông tin liên lạc thời chiến.
-Trong xây dựng cơ bản
Đây là khu vực sẽ phát triển vượt bậc về quy mơ và trình độ khi Quốc gia tiến hành
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những cơng trình này khơng thể dễ dàng phá bỏ hoặc làm
lại, do đó, một quá trình thực hiện phức tạp trong ngành xây dựng phải bắt đầu từ đầu, từ
khảo sát, khảo sát, lập kế hoạch và lập dự án cho đến thi công. Khi xây dựng cơng trình,
khơng phân biệt vị trí, quy mơ, có thể chuyển hóa để phục vụ quốc phịng, an ninh, chiến
đấu và phòng thủ dân sự đều phải tính đến yếu tố tự vệ, khi xây dựng thành phố phải kết
nối với khu vực phòng thủ địa phương theo hướng và xây dựng cơng trình ngầm (nhà cao
tầng có tầng ngầm tại các điểm giao cắt với đường ngầm).
Khả năng bảo vệ và tái định cư nếu cần thiết là rất quan trọng khi xây dựng các khu
công nghiệp tập trung, nhà máy và xí nghiệp lớn. Khi được cho phép, bạn phải sử dụng
địa
hình và các đặc điểm có sẵn để tăng cường bảo vệ cơng trình của mình. Hạn chế xâm
nhập

vào địa hình có giá trị cho mục đích qn sự, quốc gia và quốc phịng. Các công ty sản
xuất
vật liệu xây dựng sẽ nghiên cứu phát minh và nghiên cứu để sản xuất ra những vật liệu
siêu
bền, chống đâm thủng, chống muối, chống bức xạ và dễ dàng vận chuyển. Chúng ta phải
hợp tác. quân đội và khu vực phịng thủ cơng sự và trận địa, đường giao thông. Khi cấp
giấy phép đầu tư xây dựng cho đối tác nước ngồi phải có ý kiến của cơ quan quân sự có
liên quan.
-Trong khoa học và cơng nghệ, giáo dục
Phối hợp chặt chẽ, tồn diện các hoạt động giữa khoa học quốc phòng, an ninh
với khoa học công nghệ trọng yếu của quốc gia trong hoạch định chiến lược nghiên cứu,
phát triển và quản lý sử dụng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nghiên cứu, phổ biến
chủ
trương khuyến khích các tổ chức, cá nhân có đề tài khoa học, dự án kỹ thuật, sản xuất sản
phẩm có ý nghĩa phục vụ nhu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. bảo vệ đất
nước.
Đồng thời, có chính sách đầu tư hợp lý cho lĩnh vực nghiên cứu khoa học quân sự, khoa
học xã hội nhân văn quân sự và khoa công nghệ quân sự. Coi trọng sự nghiệp giáo dục
đào


tạo nhân lực, đào tạo nhân tài đất nước, giải quyết mọi vấn đề phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh. Triển khai hiệu quả giáo dục quốc phòng và an ninh trong đối
tượng,
chủ yếu ở các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
-Trong lĩnh vực y tế
Phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa khoa Dân y và khoa Quân y trong nghiên cứu
ứng dụng, nâng cao năng lực, khám, chữa bệnh cho quân nhân, quân nhân và người nước
ngồi. Xây dựng mơ hình kết hợp quân dân y ở các vùng, miền, nhất là miền núi, biên
giới,

hải đảo.
1.3 Ý nghĩa của việc kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng
cố Quốc phòng- An ninh:
Việc kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố Quốc phịng- An ninh
đóng góp vai trị quan trọng trong sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Nếu Việt
Nam
có đường lối kết hợp đúng đắn thì sẽ vừa có sức mạnh về nền kinh tế cũng như trong bảo
Page 10 of 24

vệ chủ quyền lãnh thổ. Ý nghĩa của việc kết hợp này được hiểu rõ nhất trong hai giai
đoạn
đó là chiến tranh và hịa bình.
Trong thời kỳ đó, hai yếu tố trên tác động qua lại với nhau. Kinh tế sẽ tạo ra sức
mạnh, trở thành phương tiện chiến đâu cho quốc phịng an ninh và ngược lại, quốc
phịng cũng là mơi trường và điều kiện để kinh tế phát triển. Đối với đất nước ta, qua hai
cuộc kháng chiến chống Mĩ và Pháp, Đảng và nhân dân ta đã thực hiện chính sách giải
phóng miền Nam ruột thịt. Trong khi ở miền Bắc tập trung xây dựng nhà nước xã hội chủ
nghĩa, làm hậu phương để chi viện cho miền Nam thì ở miền Nam, quân và dân lại tập
trung đấu tranh, mở rộng vùng giải phóng. Có thể nói trong giai đoạn này, mặc dù hai yếu
tố có ảnh hưởng khác nhau, song kinh tế giữ vai trò cao hơn.
Trong thời bình, ta càng thấy rõ mối quan hệ mật thiết giữa phát triểnkinh tế với tăng
cường quốc phòng an ninh từ đó tạo ra sức mạnh to lớn trongcơng cuộc phát triển đất
nước.
Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với khơngngừng tăng cường quốc phịng an ninh là một
đường lối kinh tế cơ bản và lâu dàiđể thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng và
Nhà nước hiện nay là: Xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN.Sự kết hợp chặt chẽ,
nhịp nhàng giữa haiyếu tố trên sẽ tạo thuận lợi trong quá trình đầu tư xây dựng phát triển
kinh tế xãhội, đáp ứng yêu cầu nâng cao đời sống của người dân và xu hướng hội nhập
vớithị trường thế giới của mỗi nước. Đồng thời tăng cường sức mạnh tồn quốcphịng an
ninh nhằm đảm bảo ổn định cho quốc gia trong mọi tình huống, trước mọithủ đoạn của

bất
cứ kẻ thù nào. Hiện nay và trong tương lai kẻ thù đành chúng tatrên mọi phương diện với


mọi hình thức nên sự kết hợp này có tính chất rộng rãi hơn.
1.4 Tác động trong việc kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng
cố Quốc phòng-An ninh:
Việc kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố Quốc phịng- An ninh
có tác động qua lại với nhau. Kinh tế quyết định đến Quốc phòng- An ninh: Kinh tế liên
quan đến sự tồn tại và sức mạnh của quốc phòng an ninh; bản chất của nền kinh
tế cũng ảnh hưởng đến bản chất của quốc phòng an ninh; tiền tệ quyết định đến vấn đề
xây
dựng cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật phục vụ cơng tác quốc phịng an ninh: tài chính
quyết
định đến khả năng cung ứng khối lượng, chủng loại, nguồn vốn cho quốc phịng an
ninh, từ đó quyết định các hoạt động kinh tế trong quân đội, quyết định đến phương
hướng chiến lược phát triển quốc phòng an ninh cho đất nước. Và ngồi ra Quốc
phịngAn ninh cũng tác động trở lại với kinh tế.
# Tác động tích cực:
Quốc phịng- An ninh vững mạnh sẽ đảm bảo mơi trường an ninh, ổn định chính
trị và là yếu tố quan trọng đối với công tác xây dựng KTXH, hoạt động của QPAN có khả
năng thúc đẩy trong q trình tăng trưởng GDP và tạo nên những thị trường cho các
thành
phần kinh tế.
Trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia sẽ đảm bảo tiềm lực quốc phòng an ninh
của quốc gia đó vững mạnh, đảm bảo về vật chất, kỹ thuật, cơng nghệ và nhân lực cho
nền
quốc phịng an ninh.
Sự phát triển về kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng, tạo nguồn vốn tích lũy, nguồn thu
ngân sách để phát triển đất nước về mọi mặt, góp phần củng cố tiềm lực quốc phòng an

ninh. Tạo điều kiện đổi mới về kỹ thuật, công nghệ trong công nghiệp quốc phòng, sản
Page 11 of 24

xuất phương tiện kỹ thuật phục vụ quốc phòng an ninh. Tạo cơ sở để đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao cho các lực lượng vũ trang.
Phát triển văn hố đi đơi với việc làm nâng cao mức sống vật chất, tinh thần của nhân
dân nhằm xây dựng niềm tin yêu của nhân dân vào cấp uỷ, chính quyền, góp phần ổn
định kinh tế và củng cố an ninh quốc gia.
Nền kinh tế thị trường cũng góp phần nâng cao mức sống của người dân và thân
nhân cán bộ, chiến sĩ trong quân đội, để cho các anh an tâm học tập, công tác, nâng
cao năng lực chuyên môn. Phát triển thị trường thông qua hội nhập, hợp tác kinh tế là cơ
sở giúp khai thác lợi thế và tăng cường tiềm lực quốc phịng an ninh. Nâng cao mức
độ thơng hiểu, liên kết và hợp tác trong kinh doanh, buôn bán, tăng cường năng lực quốc
phòng. Chủ động hội nhập quốc tế cũng cần việc tham dự có hiệu quả vào hoạt động
của nhiều tổ chức đa phương, hợp tác kinh tế với ngoại để tăng cường thế và lực của Việt


Nam trong bảo vệ Tổ quốc.
# Tác động tiêu cực
Hoạt động của quốc phòng cũng sẽ hao tốn thêm một phần đáng kể nhân tài, vật
lực ngân sách của xã hội. Đặc biệt nếu xung đột nổ ra thì sẽ làm tổn hại nghiêm trọng đối
với môi trường sinh thái và mang lại những hệ luỵ mà ngành quân sự cần xử lý. Kinh
tế tăng trưởng đưa lại tình trạng chênh lệch giầu nghèo và cũng có nhiều vấn
đề xấu của xã hội, một số đối tượng đã tận dụng điều ấy nhằm kích động, chia rẽ nhân
dân. Chúng lơi kéo người dân làm bất ổn tình hình an ninh, chính trị nội bộ, phá hoại
khối
đại đồn kết dân tộc và tác động lên chủ trương phát triển nền quốc phịng tồn dân.
Nhiều cơ quan, đơn vị có điều kiện muốn làm ăn để thay đổi cuộc sống, việc này
có ảnh hưởng tiêu cực lên nhận thức và tâm lý của một bộ phận đồng bào, chiến sĩ.
Một số ít cán bộ, công chức, viên chức lạm dụng chức vụ, quyền hạn nhằm làm giàu bất

hợp pháp hoặc đưa tiền và của cải trái phép.
Việc thu hút đầu tư thương mại nước ngồi cũng có những ảnh hưởng xấu đối với
quốc phòng và trị an. Các lực lượng khủng bố, cực đoan sử dụng con đường hợp tác kinh
tế và quân sự câu kết với một số đối tượng để phá hoại. Chúng tìm cách tiếp cận cán bộ,
nhân viên của Việt Nam để moi những thông tin liên quan về kinh tế và quân sự hòng
thực hiện mưu đồ phá hoại của mình. Chúng sử dụng sự đầu tư trong những ngành y tế
và trường học nhằm tuyên truyền văn hố độc hại tại Việt Nam.

2. Cơ sở lí luận của sự kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường
củng cố Quốc phòng- An ninh:
2.1 Trong thời chiến tranh
Xây dựng và giữ đất nước là hai cơng việc gắn bó mật thiết với nhau, đồng
thời là tiền đề, nền tảng, cơ chế hỗ trợ quan trọng cho sự hưng thịnh của dân tộc ta.
Muốn quốc gia vững mạnh phải tạo được năng lực bảo vệ lãnh thổ là thành quả của tất
cả mọi thế hệ người Việt Nam tạo dựng, để giữ lấy nó cần có những nguồn
lực từ trong công cuộc kiến thiết, phát triển đất nước làm ra. Nói một cách đơn giản, xây
dựng quốc gia vững mạnh gắn với giữ nước. Đây còn là tư tưởng, là văn hoá do nhiều thế
hệ người Việt Nam xây đắp nên và ngày nay trở thành phương châm lãnh đạo chiến lược
xuyên suốt theo sự nghiệp đổi mới toàn diện của Đảng và nhân dân ta.
Kế tục tư tưởng, truyền thống quý báu của dân tộc, xây dựng lực lượng vũ trang giai
cấp mới, trên cơ sở vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế
và quốc phòng. Lãnh đạo, chỉ đạo việc kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta chủ trương “vừa kháng chiến, vừa
Page 12 of 24

kiến quốc”, trước hết thực hiện chính sách ruộng đất, đẩy mạnh chính sách thắt lưng buộc
bụng để kháng chiến ... Đảng ta Và lập trường, sách lược của Nhà nước nhân dân Việt
Nam Quân đội luôn nêu cao tinh thần tự lực tự cường, ra sức giải quyết khó khăn trước
mắt, tích cực tham gia lao động sản xuất. Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc Kháng chiến



chống thực dân Pháp (1954), nhiệm vụ lao động sản xuất quân sự và phát triển kinh tế có
bước phát triển mới. Quân đội đã điều động gần 80.000 cán bộ, chiến sĩ trực tiếp tham
gia xây dựng nhiều công trình lớn của đất nước như: Khu cơng nghiệp Việt Trì, Nhà máy
thép Thái Ngun, Nhà máy nơng nghiệp thủy lợi Bắc Hưng Hải, Trường học Điện
Biên...
đã làm. Để củng cố chính quyền cách mạng, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân,
Chính
phủ quyết định tổ chức Tổng tuyển cử vào ngày 6-l-1946 để bầu Quốc hội, xây dựng hiến
pháp và lập chính phủ chính thức. Cơng tác tun truyền vận động bầu cừ thực sự là một
cuộc đấu tranh gay gắt chống lại sự phá hoại của quân đội Tưởng và bọn tay sai Việt
quốc, Việt cách ở miền Bắc và bọn thực dân Pháp ở miền Nam.Khẩu hiệu phổ biến mọi
nơi là: Tất cả cử tri tới thùng phiếu, “Mỗi lá phiếu là một viên đạn diệt thù”. Ngày 5-l1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào cả nước:
“… Một lá phiếu cũng có sức lực một viên đạn.
Ngày mai, quốc dân ta sẽ tỏ cho thế giới biết rằng dân Việt Nam ta đã:
Kiên quyết đoàn kết chặt chẽ,
Kiên quyết chống bọn thực dân,
Kiên quyết tranh quyền độc lập…”
Cuộc tổng tuyển cử đã đạt kết quả tốt thu hút đại đa số cử tri đi bỏ phiếu bầu cho các
ứng cử viên của Mặt trận Việt Minh, kể cả ở miền Nam dưới bom đạn của thực dân Pháp.
Nó cũng là dịp giáo dục cho nhân dân ta về lòng yêu nước, ý thức làm chủ của công dân
một nước độc lập, nâng cao uy tín của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ trên thế giới.
Ngày 18 và 19-12-1946, tại Vạn Phúc, Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), Ban Thường vụ
Trung ương Đảng họp mở rộng do Hồ Chủ tịch chủ trì, đề ra đường lối, quyết định cả
nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Sáng 20-12 Lời kêu gọi
Tồn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào cả nước (viết ngày 1912-1946):“Hỡi đồng bào tồn quốc!
Chúng ta muốn hịa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái,
dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai
có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, khơng có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy
gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước…
Page 13 of 24

Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chỉ thị Toàn dân
kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và tác phẩm Kháng chiến nhất định


thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh đã xác lập đường lối kháng chiến “toàn dân,
toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính” trở thành ánh sáng soi đường cho
dân
tộc ta đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược’.Trong đó:
* Kháng chiến toàn dân:
Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất đất nước. Vì
vậy, đây là nhiệm vụ của tồn dân chứ khơng phải của riêng ai.
Đường lối này xuất phát từ truyền thống "toàn dân đánh giặc" của dân tộc ta; Từ
quan điểm "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng" của chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư
tưởng
"chiến tranh nhân dân" của chủ tịch Hồ Chí Minh. Và bởi "kháng chiến toàn diện" nên
cần phải kháng chiến toàn dân. Nhằm huy động sức mạnh toàn dân, lực lượng vũ trang
làm nịng cốt.
Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến có đoạn: "Bất kì đàn ơng, đàn bà, bất kì người
già, người trẻ, khơng chia tơn giáo, đảng phái dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì đứng
lên đánh thực dân Pháp để cứu tổ quốc".
* Kháng chiến toàn diện:

Vì địch khơng chỉ đánh ta trên mặt trận qn sự mà cịn đánh ta trên các mặt kinh tế,
chính trị, văn hóa, ngoại giao nên ta phải thực hiện kháng chiến toàn diện trên tất cả các
mặt.
Nhờ kháng chiến toàn diện mới tạo điều kiện để kháng chiến toàn dân.
* Kháng chiến trường kì:
Kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh, lấy
chính nghĩa để thắng hung tàn ... đây là truyền thống đánh giặc lâu dài của dân tộc ta.
Mặt khác, do so sánh lực lượng chênh lệch, âm mưu của địch là "đánh nhanh thắng
nhanh". Nên ta phải tiến hành đánh lâu dài. Vừa đánh vừa phát triển lực lượng, làm tiêu
hao sinh lực địch, gây cho chúng những khó khăn khi phải đánh lâu dài tại một đất nước
xa xơi, khơng phù hợp về lương thực, khí hậu ...
Đánh lâu dài là để đoàn kết, động viên sức mạnh toàn dân, bồi dưỡng sức mạnh toàn
dân, làm cho ta càng đánh càng mạnh, để cuối cùng giành thắng lợi hoàn toàn.
* Kháng chiến tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế:
Đảng ta hiểu rõ, mối quan hệ giữa yếu tố khách quan và chủ quan. Trong đó, yếu tố
chủ quan là quan trọng nhất. Tự lực cánh sinh là yếu tố quan trọng, chỉ có tự thân nỗ lực
mới có thể phát huy được sức mạnh của mình - "đem sức ta mà giải phóng cho ta".
Mặc dù vậy, ta vẫn coi trọng sự giúp đỡ từ bên ngoài. Cuộc kháng chiến của nhân dân
ta là cuộc chiến tranh chính nghĩa, giải phóng dân tộc khỏi đế quốc thực dân xâm lược.
Vì vậy, ta cần kêu gọi và tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, việc kết hợp phát triển kinh tế với củng
cố quốc phòng được Đảng ta lãnh đạo thực hiện phù hợp với điều kiện của từng vùng.


Page 14 of 24

Văn kiện Đại hội III của Đảng chỉ rõ: “Phải kết hợp xây dựng kinh tế với củng cố quốc
phòng; Trong xây dựng kinh tế phải hiểu rõ nhiệm vụ phục vụ quốc phòng, cũng như
trong củng cố quốc phịng phải bố trí cho phù hợp với cơng tác xây dựng kinh tế”. Nhờ
đó, các dân tộc ở miền Bắc vừa đẩy mạnh xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, xây

dựng nền văn hóa mới XHCN, vừa bảo đảm củng cố quốc phòng, chi viện sức người, sức
của cho tiền tuyến lớn miền Nam. Ở miền Nam, quân và dân ta đã kết hợp chặt chẽ giữa
đánh địch với củng cố và mở rộng vùng giải phóng; Ở các căn cứ địa cách mạng, bộ đội
vừa chiến đấu vừa tranh thủ lao động sản xuất để có một phần lương thực, thực phẩm
trực
tiếp phục vụ đời sống. Việc kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng được thực
hiện rất chặt chẽ, thơng qua nhiều hình thức phong phú, thiết thực, phù hợp với điều kiện
chiến tranh. Đây là nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp để cách mạng nước ta
đi đến thắng lợi.
2.2 Từ khi hịa bình cho đến nay:
Sau khi đất nước thống nhất và cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội (từ năm 1975 đến
nay), việc kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phịng được thực hiện tồn diện
hơn. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III xác định:
“Lực lượng vũ trang, trong đó có đơn vị thường trực, phải tích cực tham gia sản xuất, góp
phần xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Xây dựng chế độ nghĩa vụ
quân sự đối với mọi thanh niên và chế độ quân đội tham gia xây dựng kinh tế. Tại Đại
hội lần thứ IV (1976), Đảng ta nhấn mạnh: “Trong hồn cảnh đất nước cịn nghèo vừa
mới thốt khỏi cuộc chiến tranh ác liệt, kéo dài, lực lượng vũ trang ngồi nghĩa vụ phải
ln sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, chúng ta cịn phải tích cực thực hiện nhiệm vụ xây dựng
kinh tế, góp phần xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ” . Tại Đại hội
VI (1986), Đảng ta khẳng định: “Phát triển từng bước cơng nghiệp quốc phịng đi đơi với
tăng cường tiềm lực kinh tế của đất nước. Trên cơ sở bảo đảm nhiệm vụ chiến đấu, sẵn
sàng chiến đấu và sản xuất quốc phòng, huy động một phần lực lượng của quân đội, sử
dụng một phần năng lực của cơng nghiệp quốc phịng vào xây dựng kinh tế”. củng cố
quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc tiếp tục được ghi nhận trong các
văn kiện đại hội sắp tới của Đảng ta và thể hiện trong nhiều văn bản nghị quyết chuyên
đề của Quân ủy Trung ương. Hiến pháp và Điều 4 Mục 3 Luật Quốc phòng 2018.
Ðại hội XIII của Ðảng xác định: “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa,
xã hội, đối ngoại với quốc phịng, an ninh và giữa quốc phịng, an ninh với kinh tế, văn
hóa, xã hội và đối ngoại”. Đây là chủ trương mới cần thấu triệt để thực hiện có hiệu quả

cao.
Các kỳ đại hội trước, Đảng đề cập: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc
phịng, an ninh và quốc phịng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội”; “kết hợp chặt chẽ
giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại”, nhưng chưa thật rõ kết hợp giữa kinh tế, văn
hóa,


xã hội với đối ngoại và đối ngoại với kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo thành sức mạnh tổng
hợp bảo vệ Tổ quốc. Đến Đại hội XIII, Đảng đã “Cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả
quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, với chiến lược bảo vệ Tổ quốc; trong
các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại; trong từng địa
phương, vùng, địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch cụ
thể. Đây là sự phát triển tư duy mới của Đảng về nội dung giải pháp tăng cường quốc
phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Tiểu kết chương 1
Page 15 of 24

Kết hợp QPAN với kinh tế, kinh tế với QPAN phải toàn diện, cơ bản lâu dài ngay từ
trong chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và củng cố, tăng cường
QPAN; trên từng địa bàn lãnh thổ, trong đó có sự quan tâm đặc biệt đến các vùng, địa
bàn trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Cụ thể hóa và thực hiện có
hiệu quả quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, chiến lược bảo vệ Tổ quốc,
trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh.

Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN SỰ KẾT
HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ
QUỐC PHÒNG- AN NINH
Một số giải pháp trong việc tăng cường, vận dụng phát triển kinh tế- xã hội với củng

cố quốc phòng- an ninh.
Quán triệt quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phịng an ninh
trong tình hình mới, chúng ta cần thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp cơ bản sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong phát triển kinh tế với tăng cường
củng cố quốc phòng an ninh. Đất nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh phát triển kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng xây dựng nền công nghiệp quốc
phòng. Phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, điều hành của Nhà nước, trong đó
trước hết, cần nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng, sự quản lý điều hành của
chính quyền các cấp trong cơng tác kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với củng cố quốc
phòng an ninh phù hợp với điều kiện thực tế của từng ngành và địa phương, đồng thời
phát huy vai trò trách nhiệm của các tổ chức và công dân trong thực hiện chủ trương kết
hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh, chống tư
tưởng và hành động tự do vơ chính phủ trong hoạt động kinh tế cũng như trong hoạt động
quốc phòng an ninh, các hành động phương hại đến phát triển kinh tế và sức mạnh quốc
phòng của đất nước.
Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển nền kinh tế của ngành, địa phương gắn với tăng cường củng cố quốc
phòng an ninh một cách phù hợp. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ
trương, đường lối về kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng an


ninh. Xử lý kỷ luật nghiêm cán bộ, công chức vi phạm, khơng hồn thành nhiệm vụ trong
tham mưu, hoạch định chính sách phát triển kinh tế làm nguy hại đến tiềm lực quốc
phịng
an ninh của đất nước.
Hai là, hồn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm kết hợp phát triển kinh tế với củng
cố tiềm lực quốc phòng an ninh. Đây là nội dung rất quan trọng nhằm cụ thể hóa đường
lối, chủ trương của Đảng về mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng và an ninh thành
các văn bản pháp luật, tiến hành quán triệt, tổ chức thực hiện bảo đảm hiệu quả cao, cần
quy định rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị trong lãnh đạo chỉ

đạo và quản lý. Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
cần tập trung quán triệt nắm chắc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và cơ chế, chính
sách có liên quan đến mối quan hệ này làm cơ sở để giải quyết mối quan hệ giữa xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa tự bảo vệ và được bảo vệ, phù hợp với thực tiễn đất nước
và thông lệ quốc tế.
Page 16 of 24

Mọi chủ trương, đường lối của Đảng có liên quan đến kết hợp xây dựng đất nước và bảo
vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phịng an ninh đều phải được
thể chế hố thành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật một cách đồng bộ, thống nhất để
quản lý và tổ chức thực hiện hiệu lực, hiệu quả trong cả nước. Cơ chế, chính sách bảo
đảm kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố tiềm lực quốc phòng an ninh cần
được xây dựng theo quan điểm quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân. Việc phân bổ
ngân sách đầu tư cho kết hợp phát triển kinh tế – xã hội gắn với tăng cường củng cố quốc
phòng an ninh theo hướng tập trung cho những mục tiêu chủ yếu, những cơng trình có
tính lưỡng dụng cao đáp ứng cả cho phát triển kinh tế – xã hội và củng cố quốc phòng
an ninh, cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng chính sách khuyến khích lợi ích vật chất và
tinh thần đối với các tổ chức, cá nhân, các nhà đầu tư có các đề tài khoa học, các dự án
cơng nghệ có ý nghĩa ứng dụng cao, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, hoàn thiện chiến lược tổng thể kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng
cường củng cố quốc phòng an ninh trong thời kỳ mới. Muốn kết hợp phát triển kinh tế
với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh trong suốt q trình đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước một cách cơ bản và thống nhất trên phạm vi cả nước và từng
địa phương, phải tiếp tục hoàn thiện chiến lược tổng thể quốc gia, các quy hoạch và kế
hoạch về kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh. Coi đây
là một trong những căn cứ quan trọng hàng đầu để lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động quản lý
nhà nước hiệu lực, hiệu quả. Trong hoàn thiện chiến lược tổng thể, quy hoạch, kế hoạch
về kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh và đối ngoại
trong thời kỳ mới, phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương từ khâu
khảo sát, đánh giá các nguồn lực, trên cơ sở đó, xác định mục tiêu, phương hướng phát

triển và đề ra các giải pháp chính sách, như: chính sách khai thác các nguồn lực; chính
sách đầu tư và phân bổ đầu tư; chính sách điều động nhân lực, bố trí dân cư; chính sách


ưu đãi khoa học và công nghệ lưỡng dụng.
Đẩy mạnh xây dựng, nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế quốc phòng và
phát triển bền vững kinh tế – xã hội khu vực biên giới và biển, đảo, đáp ứng nhiệm vụ
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, tồn qn, trực tiếp là các cơ quan chức
năng của Bộ Quốc phòng, các quân khu, đồn kinh tế quốc phịng cần phối hợp chặt chẽ
với các bộ, ngành, địa phương liên quan, tiếp tục phát huy vai trị xung kích, nịng cốt
trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Trong đó, cần chú trọng tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo
của cấp ủy, chỉ huy các cấp đối với nhiệm vụ xây dựng khu kinh tế quốc phịng; đẩy
mạnh
cơng tác tun truyền, giáo dục, làm cho cán bộ, chiến sĩ nhận thức rõ vị trí, ý nghĩa, yêu
cầu, tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng, phát triển khu kinh tế quốc phịng trong tình
hình mới, cũng như vai trò của quân đội trong thực hiện nhiệm vụ này; từ đó, nêu cao
trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện.
Bốn là, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó có một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến
thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh,
tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Cơng an nhân
dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo
đức,
tổ chức và cán bộ. Xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong
Quân đội và Công an tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân
Page 17 of 24

dân, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, bảo đảm chất lượng tổng hợp
và sức mạnh chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp

trên các vùng, miền, trên biển. Quan tâm xây dựng lực lượng bảo đảm trật tự, an toàn xã
hội cơ sở, đáp ứng địi hỏi của nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự ở cơ sở. Xây dựng, củng
cố đường biên giới trên bộ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; nâng cao năng lực
thực thi pháp luật của các lực lượng làm nhiệm vụ ở biên giới, biển, đảo. Giữ vững và
tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung,
thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Cơng an nhân dân và sự nghiệp
quốc phịng an ninh. Nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác đảng, cơng tác
chính trị trong Qn đội nhân dân và Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về chính trị, làm nòng cốt trong sự nghiệp quốc
phòng an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các
cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và người dân đối với nhiệm vụ tăng cường
quốc phòng an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, nâng cao hiệu lực quản lý của chính quyền các cấp trong kết hợp phát triển
kinh tế với tăng cường, củng cố quốc phòng an ninh. Trước hết, mỗi ngành, mỗi cấp phải


làm đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật và Nghị định số
119/2004/NĐCP ngày 11/5/2004 của Chính phủ về cơng tác quốc phịng ở các bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ và các địa phương; đồng thời, nghiên cứu xây dựng Nghị định
sửa đổi, bổ sung Nghị định này cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện mới.
Xây dựng và chỉ đạo thực hiện tốt các quy hoạch, kế hoạch kết hợp phát triển kinh tế với
tăng cường củng cố quốc phòng an ninh ở ngành, địa phương, cơ sở. Đổi mới phương
pháp quản lý, điều hành của chính quyền các cấp từ khâu lập quy hoạch, kế hoạch đến
công tác nắm tình hình, thu thập xử lý thơng tin, định hướng hoạt động, tổ chức hướng
dẫn và thanh tra, kiểm tra ở mọi khâu, mọi bước của quá trình thực hiện kết hợp phát
triển
kinh tế với tăng cường củng cố quốc phịng an ninh.
Xây dựng, phát triển nền cơng nghiệp quốc phòng an ninh hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế – xã

hội; xây dựng và củng cố các tuyến phòng thủ biên giới, biển, đảo; có cơ chế huy động
nguồn lực từ địa phương và nguồn lực xã hội cho xây dựng tiềm lực quốc phòng an ninh
tại các khu vực phòng thủ. Chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững an ninh quốc
gia, trật tự, an tồn xã hội trong mọi tình huống. Kết hợp chặt chẽ giữa chấn chỉnh, kiện
toàn với chăm lo bồi dưỡng nâng cao năng lực trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ
chuyên trách làm tham mưu cho cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp về thực hiện kết
hợp phát triển kinh tế – xã hội gắn với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh ngang
tầm
với nhiệm vụ trong tình hình mới. Tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội, Hội đồng
nhân dân các cấp, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị, xã hội.
Sáu là, bố trí thế trận quốc phòng an ninh, nâng cao chất lượng bồi dưỡng kiến thức,
kinh nghiệm kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh cho
công chức, đặc biệt là công chức lãnh đạo quản lý các cấp. Bố trí thế trận quốc phịng an
ninh phù hợp với tình hình mới; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng, củng cố thế trận quốc
phòng an ninh với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; lồng ghép và phát huy hiệu quả các
Page 18 of 24

nguồn lực hiện có trong thực hiện các chương trình, dự án, kế hoạch xây dựng, phát triển
các khu kinh tế – quốc phòng trên các vùng, miền Tổ quốc, nhất là trên các vùng biên
giới đất liền, hải đảo ngày càng hiệu quả. Trong đó, tập trung phát triển mạnh cơng
nghiệp
quốc phịng, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào các cơng trình phục vụ quốc phịng an
ninh mà cơng nghiệp dân sinh khơng có khả năng bảo đảm. Căn cứ vào đối tượng bồi
dưỡng, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra để chọn lựa nội dung, chương trình bồi dưỡng cho phù
hợp và thiết thực nhằm nâng cao cả kiến thức, kinh nghiệm và năng lực thực tiễn sát với
cương vị đảm nhiệm với từng loại đối tượng cán bộ.


Tiểu kết chương 2

Kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phịng với kinh tế có vị trí, vai trị đặc biệt quan
trọng đối với xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân, nhất là trên các địa bàn, hướng
chiến lược, khu vực biên giới, biển đảo. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ này, cần phát huy
sức mạnh tổng hợp của dân tộc, trước hết là của hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước. Các ngành, các cấp, các địa
phương
cần tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng, nâng cao hơn nữa hiệu
quả kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong thế trận quốc phịng
tồn dân, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Kết hợp quốc phòng an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng an ninh phải
vừa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và tăng cường sức mạnh quốc phòng an
ninh vừa nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân. Mọi thành quả đạt được của
quá trình phát triển kinh tế – xã hội là nhằm ngày càng đáp ứng tốt nhất cho sự tăng
trưởng
kinh tế và tăng cường củng cố quốc phòng an ninh, cũng như nâng cao được đời sống vật
chất, tinh thần của Nhân dân. Đồng thời, mọi hoạt động quốc phịng an ninh là nhằm tạo
ra và gìn giữ được mơi trường hịa bình, ổn định để đẩy mạnh phát triển kinh tế, bảo vệ
sự
phát triển kinh tế, bảo vệ cuộc sống của dân cư và tạo ra cơ sở chính trị tinh thần của nền
quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân vững chắc. Trong việc kết hợp địi hỏi có sự
liên
kết, chuyển hóa chặt chẽ, hiệu quả, bảo đảm tính lưỡng dụng trong các hoạt động kinh tế
và hoạt động quốc phòng an ninh, các hoạt động kinh tế có thể chuyển hóa sang phục vụ
quốc phòng an ninh và ngược lại, các hoạt động quốc phịng an ninh có thể chuyển sang
phục vụ kinh tế và dân sinh, từ đó tiết kiệm chi phí, phát huy hiệu quả các nguồn lực cho
phát triển kinh tế và bảo đảm quốc phịng an ninh. Qua đó, tạo điều kiện nâng cao hơn

nữa
đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân.

2. Kiến nghị:
Sau khi nghiên cứu đề tài “ Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng
cố Quốc phòng- An ninh” người nghiên cứu có một số kiến nghị sau:
Một là, giữ vững ổn định về tư tưởng chính trị, khơng để các thế lực thù địch có cơ
hội dụ dỗ, lơi kéo. Đấu tranh phòng ngừa, phát hiện những âm mưu, thủ đoạn của cá thế
lực chống phá.
Page 19 of 24

Hai là, thường xun nâng cao trình độ chun mơn và bản lĩnh chính trị, kiên định


với đường lối xã hội chủ nghĩa, với lý tưởng của Đảng, với niềm tin của nhân dân.
Thường
xuyên nâng cao hiểu biết, nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Ba là, đóng góp hết khả năng của mình vào cơng cuộc phát triển kinh tế, xây dựng
đất nước trong thời đại mới, hoàn thành tốt nhiệm vụ của một công dân, chấp hành
nghiêm
chỉnh quy định pháp luật của Đảng, Nhà nước.
Bốn là, vận động nhân dân và người thân chấp hành các quy định của pháp luật,
không tham gia vào các tệ nạn xã hội, không để kẻ xấu lợi dụng lôi kéo, làm suy thối tư
tưởng chính trị. Phát hiện, tố cáo các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, làm nguy
hại
đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
Năm là, tăng cường đoàn kết trong nhân dân, truyên truyền, làm sâu sắc hơn nữa
mối quan hệ gắn bó giữa các dân tộc, tơn giáo, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững
mạnh và thế trận an ninh nhan dân vững chắc.

Sáu là, cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn diễn biến hịa bình của các thế lực thù địch,
kiên định về tư tưởng, lập trường, ngăn chặn q trình tự diễn biến, tự chuyển hóa trong

tưởng, lối sống.
Bảy là, xây dựng ý chí tự lực, tự cường và lòng tự hào dân tộc, phát triển kinh tế địa
phương đi đối với giữ gìn văn hóa dân tộc và các giá trị truyền thống tốt đẹp.
Page 20 of 24

TÀI LIỆU THAM KHẢO
/> /> /> /> />Bài thu hoạch quốc phòng an ninh mới nhất 2022 (luathoangphi.vn)
Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh theo Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ XI (baotravinh.vn)
Giáo trình Giáo dục Quốc phịng- An ninh Trường Đại học Cơng Nghiệp thành phố Hồ Chí
Minh.
Page 21 of 24



×