Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Luận văn: Tăng cường huy động vốn TDNN cho NSNN và cho ĐTPT qua việc phát hành TPCP ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.93 KB, 86 trang )




Luận văn
Tăng cường huy động vốn
TDNN cho NSNN và cho
ĐTPT qua việc phát hành
TPCP





1
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BIỂU ĐỒ VÀ PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TDNN VÀ TPCP
5
1.1 – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TDNN 5
1.1.1. Khái niệm về TDNN 5
1.1.2. Bản chất của TDNN 6
1.1.3. Đặc điểm của TDNN 6
1.1.4. Chức năng của TDNN 8
1.2 – TPCP - CÔNG CỤ HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ CHO ĐTPT 10
1.2.1. Khái niệm về TPCP 10
1.2.2. Phân loại TPCP 10
1.2.3. Các yếu tố cơ bản của TPCP 14
1.2.4. Các phương thức phát hành TPCP để huy động vốn cho NSNN và cho
ĐTPT 15


1.2.5. Vai trò của TPCP 18
1.3 – KINH NGHIỆM PHÁT HÀNH TPCP Ở MỘT SỐ QUỐC GIA: 21
1.3.1. Phát hành TPCP ở Mỹ 21
1.3.2. Phát hành TPCP ở Nhật Bản 22
1.3.3. Phát hành TPCP ở Trung Quốc 23
1.3.4. Một số bài học kinh nghiệm về phát hành TPCP ở các nước 24
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ CHO
ĐTPT QUA VIỆC PHÁT HÀNH TPCP GIAI ĐOẠN 1991 - 2004 27
2.1- THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ CHO ĐTPT QUA
VIỆC PHÁT HÀNH TPCP GIAI ĐOẠN 1991 - 2004 28
2.1.1. Phát hành tín phiếu Kho bạc 28
2.1.2. Phát hành trái phiếu Kho bạc 32
2.1.3. Phát hành công trái xây dựng tổ quốc 39
2.1.4. Phát hành trái phiếu công trình 41




2
2.1.5. Phát hành trái phiếu ngoại tệ 43
2.2- ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ CHO
ĐTPT QUA VIỆC PHÁT HÀNH TPCP GIAI ĐOẠN 1991 - 2004 45
2.2.1. Những ưu điểm và thành tựu đạt được 45
2.2.2. Những tồn tại và hạn chế 49
2.2.3. Các nguyên chủ yếu của tồn tại và hạn chế
49
CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO
NSNN VÀ ĐTPT QUA VIỆC PHÁT HÀNH TPCP TRONG GIAI ĐOẠN TỚI
55
3.1 – MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ NHIỆM VỤ HUY ĐỘNG VỐN

CHO NSNN VÀ ĐTPT GIAI ĐOẠN 2001 - 2010 55
3.2 – GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ
ĐTPT QUA VIỆC PHÁT HÀNH TPCP TRONG GIAI ĐOẠN TỚI 56
3.2.1 – Đa dạng hóa TPCP phát hành 57
3.2.1 –Tiêu chuẩn hóa TPCP phát hành 58
3.2.3 – Xây dựng lãi suất TPCP phù hợp với nguyên tắc thò trường 59
3.2.4 – Củng cố và hoàn thiện các phương thức phát hành TPCP 60
3.2.5 – Phát triển thò trường thứ cấp TPCP 63
3.2.6 – Cải tiến công tác kế hoạch hoá phát hành TPCP 66
3.2.7 – Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác phát hành, quản lý và
thanh toán TPCP 66
3.2.8 – Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và đẩy
mạnh tuyên truyền về TPCP và thò trường TPCP 67
3.2.9 – Tạo lập môi trường kinh tế vó mô ổn đònh 68
3.2.10 – Hoàn thiện khung pháp lý phát hành TPCP để huy động vốn cho
NSNN và cho ĐTPT 69
KẾT LUẬN 71
PHỤ LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO




3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để bù đắp thiếu hụt NSNN và bổ sung nguồn vốn cho ĐTPT nhằm thúc đẩy
nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ
và giải pháp khác nhau như : tăng thuế, phát hành tiền hoặc vay nợ, trong đó huy
động vốn TDNN dưới hình thức phát hành TPCP là một giải pháp tài chính quan

trọng.
Cùng với việc thành lập hệ thống KBNN (01/4/1990) công tác huy động vốn
cho NSNN và cho ĐTPT dưới hình thức phát hành TPCP được bắt đầu triển khai
thực hiện từ tháng 3/1991. Cho đến nay công tác huy động vốn dưới hình thức
TPCP đã dần được hoàn thiện và phát triển không ngừng cả về qui mô và phương
thức phát hành. Từ chổ khối lượng TPCP phát hành chỉ chiếm 1,2% GDP giai đoạn
1991-1995, đã nâng lên 3,9% GDP trong giai đoạn từ 2001 đến nay. Từ việc chỉ
phát hành tín phiếu ngắn hạn bán lẻ qua hệ thống KBNN để bù đắp thiếu hụt tạm
thời cho NSNN, đã phát triển các loại trái phiếu trung hạn dưới các hình thức đấu
thầu và bảo lãnh phát hành trên thò trường vốn cho mục đích ĐTPT.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì hoạt động huy động vốn
TDNN dưới hình thức TPCP cũng còn một số khó khăn, hạn chế như : qui mô huy
động vốn chưa đáp ứng được nhu cầu về vốn để phát triển nền kinh tế ; TPCP ngắn
hạn còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số TPCP đã phát hành nên lượng TPCP phát
hành mới chủ yếu là trả nợ củ đến hạn, ảnh hưởng đến việc sử dụng vốn cho mục
đích ĐTPT ; các phương thức phát hành nhìn chung còn đơn giản ; kế hoạch phát
hành còn bò động, phụ thuộc nhiều vào kế hoạch bù đắp bội chi NSNN ; thò trường
giao dòch TPCP còn nhiều hạn chế, chưa thúc đẩy thò trường vốn dài hạn phát triển
nhằm khai thác triệt để tiềm lực vốn trong nền kinh tế…
Trong những năm sắp đến, xuất phát từ yêu cầu phát triển nhanh nền kinh tế
của đất nước, đòi hỏi Nhà nước phải có nguồn lực tài chính đủ mạnh để đáp ứng
nhu cầu chi tiêu của NSNN được tăng cường cả về quy mô và tốc độ nhằm thực
hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX đã đề ra. Thực trạng trên đòi hỏi cần tăng cường hơn nữa công tác huy động
vốn TDNN cho NSNN và cho ĐTPT qua việc phát hành TPCP.




4

Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Tăng cường huy động vốn
TDNN cho NSNN và cho ĐTPT qua việc phát hành TPCP”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận về TDNN và TPCP, tham khảo kinh
nghiệm phát hành TPCP của một số nước trên thế giới để từ đó áp dụng vào thực
tiễn công tác phát hành TPCP của nước ta. Nghiên cứu thực trạng phát hành TPCP
ở nước ta trong thời gian qua, đánh giá những thành tựu đã đạt được và những tồn
tại, hạn chế qua đó đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động
vốn TDNN cho NSNN và cho ĐTPT qua việc phát hành TPCP ở Việt Nam trong
những năm sắp đến.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là TPCP trong việc huy động vốn TDNN
cho NSNN và cho ĐTPT.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là thực trạng huy động vốn TDNN cho
NSNN và cho ĐTPT qua việc phát hành TPCP giai đoạn 1991 - 2004 và những giải
pháp chủ yếu nhằm tăng cường và hoàn thiện công tác phát hành TPCP huy động
vốn cho NSNN và cho ĐTPT trong giai đoạn tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như : phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lòch sử của chủ nghóa Mác - Lê nin, kết hợp với các phương pháp
truyền thống như phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kế, phương pháp so
sánh và phân tích…
5. Kết cấu nội dung của luận văn
Nội dung của luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, gồm 3 chương :
Chương 1 : Một số vấn đề lý luận về TDNN và TPCP
Chương 2 : Thực trạng huy động vốn TDNN cho NSNN và cho ĐTPT qua
việc phát hành TPCP giai đoạn 1991 - 2004
Chương 3 : Giải pháp tăng cường huy động vốn TDNN cho NSNN và cho
ĐTPT qua việc phát hành TPCP trong giai đoạn tới





5
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TDNN VÀ TPCP
1.1 – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TDNN
1.1.1. Khái niệm về TDNN
Tín dụng ra đời gắn liền với sự ra đời của sản xuất hàng hoá - tiền tệ, sự
phân công lao động xã hội và sự xuất hiện sỡ hữu tư nhân và tư liệu sản xuất. Tín
dụng phản ảnh các quan hệ vay mượn, sử dụng vốn lẫn nhau dựa trên nguyên tắc
hoàn trả, nó thể hiện ra bên ngoài như là sự vay mượn tạm thời một vật hay một số
tiền tệ trong đó hai chủ thể người đi vay và cho vay sẽ thoả thuận một thời hạn nợ
và một mức lãi cụ thể. Nếu xét trên một nghóa rộng hơn, tín dụng là sự vận động
của các nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Mặt khác, tín dụng còn thể hiện niềm
tin của người cho vay hướng về người đi vay sau một thời gian nhất đònh sẽ hoàn
trả vốn vay.
Ngày nay, trong nền kinh tế thò trường đã ra đời và tồn tại nhiều hình thức
tín dụng khác nhau như : tín dụng nặng lãi, tín dụng thương mại, tín dụng ngân
hàng, TDNN… Các quan hệ tín dụng có sự khác nhau về tính chất, đặc điểm nhưng
bất kỳ ở dạng nào thì tín dụng cũng dựa trên nguyên tắc có hoàn trả (cả vốn lẫn
lãi) sau một thời gian nhất đònh. Chính tính chất hoàn trả này của tín dụng là biểu
hiện đặc trưng nhất của sự khác biệt giữa quan hệ tín dụng với các quan hệ kinh tế
khác.
TDNN là loại tín dụng gắn liền với Nhà nước - một chủ thể quan trọng trong
quan hệ tín dụng. TDNN ra đời từ rất sớm, theo một số nhà nghiên cứu chuyên
môn cho rằng TDNN đã xuất hiện từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ. TDNN phản ảnh mối
quan hệ tín dụng giữa Nhà nước với dân cư và các chủ thể kinh tế khác, trong đó
Nhà nước là người đi vay, đồng thời là người cho vay để đảm bảo thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của mình trong quản lý kinh tế - xã hội. TDNN còn nảy sinh

trong quan hệ đối ngoại giữa Chính phủ nước này với nước khác hoặc với các tổ
chức tiền tệ - tín dụng quốc tế. Như vậy, TDNN là một phạm trù kinh tế gắn liền
với chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, phản ảnh mối quan hệ tín dụng trong đó
Nhà nước là người đi vay để đảm bảo các khoản chi tiêu của NSNN, đồng thời là




6
người cho vay để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình trong quản lý kinh
tế - xã hội và phát triển quan hệ đối ngoại.
1.1.2. Bản chất của TDNN

Hình thức biểu hiển bên ngoài của TDNN là sự vay mượn tạm thời một vật
hoặc một số vốn tiền tệ, nhưng bản chất bên trong chứa đựng mối quan hệ kinh tế
giữa người cho vay và người đi vay thông qua sự vận động giá trò vốn tín dụng được
phân phối tạm thời từ người cho vay sang người đi vay.
Bản chất của TDNN, một mặt cũng có đặc trưng là sự hoàn trả và có lợi tức
giống như bản chất của tín dụng nói chung. Mặt khác, nó còn có những đặc trưng
khác đó là tính nghóa vụ, chính trò, xã hội. Những đặc trưng này xuất phát từ quyền
lực chính trò, từ những chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý kinh tế -
xã hội và quan hệ đối ngoại. Ngoài ra bản chất của TDNN còn phụ thuộc và
chuyển biến theo sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội và gắn liền với
bản chất của Nhà nước. Bản chất TDNN trong thời kỳ nô lệ, phong kiến mang tính
cưỡng chế, bất bình đẳng giữa Nhà nước và các chủ thể khác. Bản chất TDNN thời
kỳ Tư bản chủ nghóa khởi đầu chú trọng sự tự nguyện và tính lợi ích kinh tế, có ý
nghóa tích cực hơn. Bản chất TDNN trong thời đại ngày nay vừa kế thừa những mặt
tích cực của giai đoạn TDNN thời kỳ đầu Tư bản chủ nghóa, vừa được mở rộng
nhiều mối quan hệ kinh tế - chính trò - xã hội trong nước và quốc tế, thể hiện rỏ nét
bản chất của Nhà nước hiện đại.

1.1.3. Đặc điểm của TDNN
TDNN cũng là một hình thức của phạm trù tín dụng nên nó cũng có những
đặc điểm cơ bản của tín dụng, đó là:
- Quan hệ tín dụng chỉ thay đổi quyền sử dụng vốn tín dụng mà không thay
đổi quyền sỡ hữu vốn tín dụng: người đi vay không phải là chủ sỡ hữu vốn vay mà
chỉ là người có quyền sử dụng tạm thời vốn vay vào mục đích của mình, còn người
cho vay mới là người chủ sỡ hữu vốn vay.
- Thời hạn tín dụng được xác đònh do thoả thuận giữa người cho vay và người
đi vay, nghóa là sau một thời gian sử dụng nhất đònh người đi vay phải hoàn trả vốn
vay và lãi vay cho sỡ hữu vốn vay. Đây là dấu hiệu phân biệt phạm trù tín dụng với
những phạm trù kinh tế khác.
Ngoài ra, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ và vai trò của Nhà nước trong




7
quản lý kinh tế - xã hội, mở rộng các quan hệ đối ngoại nên TDNN còn có những
đặc điểm riêng của mình, đó là :
- TDNN gắn liền với hoạt động NSNN
TDNN là một hoạt động thuộc lãnh vực tài chính - tiền tệ, gắn liền với hoạt
động của NSNN, nó thể hiện Nhà nước vừa là người đi vay để đài thọ các khoản
chi của NSNN, vừa là người cho vay để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý
kinh tế -xã hội, phát triển kinh tế đối ngoại của Nhà nước.
- TDNN vừa mang tính lợi ích kinh tế, vừa mang ý nghóa chính trò, vừa có tính
tự nguyện thoả thuận, vừa mang tính nghóa vụ bắt buộc
Khác với các loại hình tín dụng khác dựa trên cơ sở thoả thuận, theo cơ chế
thò trường và mang lợi ích kinh tế là chủ yếu, thì TDNN vừa mang tính lợi ích kinh
tế vừa mang ý nghóa chính trò, vừa có tính tự nguyện thoả thuận vừa mang tính
nghóa vụ bắt buộc.

Tính chính trò của TDNN thể hiện lòng tin của nhân dân đối với Chính phủ,
thể hiện trách nhiệm của Chính phủ đối với nhân dân qua việc cho dân vay ưu đãi;
thể hiện mối quan hệ chính trò, ngoại giao giữa Chính phủ các nước với các tổ chức
tài chính - tiền tệ thế giới qua việc ký kết các hiệp đònh vay nợ và phát hành TPCP
ra nước ngoài.
TDNN mang tính nghóa vụ bắt buộc khi Nhà nước có thể huy động vốn trong
nước bằng cách phát hành các loại công trái phiếu mang tính nghóa vụ, bắt buộc;
yếu tố lợi ích kinh tế trong trường hợp này chỉ là yếu tố phụ.
- Phạm vi huy động vốn của TDNN rộng lớn, cả trong nước lẫn nước ngoài
Trong nước, TDNN huy động vốn tạm thời nhàn rổi của mọi tầng lớp dân cư,
các tổ chức đoàn thể xã hội, các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, các tổ chức tài
chính trung gian… thông qua các hình thức phát hành công trái, các loại tín phiếu,
TPCP.
Ở nước ngoài, việc huy động vốn được thông qua vay vốn ODA và phát
hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ ra nước ngoài.
- Đối tượng huy động vốn của TDNN phong phú, hình thức huy động vốn đa
dạng




8
TDNN có thể huy động vốn bằng tiền, vàng, ngoại tệ, hiện vật dưới nhiều
hình thức khác nhau như: công trái, TPCP vô danh, ký danh; bằng chứng chỉ hoặc
ghi sổ; có thể thanh toán từng lần hoặc một lần khi đến hạn; có thể thanh toán ở nơi
phát hành hoặc trong phạm vi cả nước… điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho các đối
tượng dễ dàng tiếp cận giao dòch với TDNN, giúp cho Nhà nước có thể huy động
vốn nhanh chóng và chủ động đảm bảo các khoản chi tiêu từ nguồn vốn TDNN.
- Lợi ích kinh tế của TDNN chứa đựng nhiều nội dung khác nhau một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp

Ngoài việc hưởng lãi từ việc mua công trái, TPCP người dân còn được hưởng
những tiện ích do những công trình phúc lợi công cộng mang lại từ nguồn vốn đầu
tư của TDNN. Ngoài ra Nhà nước còn cho các đối tượng chính sách xã hội vay vốn
ưu đãi với lãi suất thấp hoặc không thu lãi nhằm ổn đònh chính trò, an ninh, trật tự
xã hội, xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm… Còn đối với việc vay nợ nước
ngoài, nước đi vay được hưởng lãi suất thấp, thời gian ân hạn dài; nước cho vay
được lợi qua việc giao thầu thi công các công trình dự án, tiêu thụ hàng hoá xuất
khẩu và một số quyền lợi khác theo hiệp đònh đã được ký kết giữa hai nước, hai
Chính phủ.
1.1.4. Chức năng của TDNN
Xuất phát từ chức năng cơ bản của tín dụng nói chung và từ những chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý kinh tế - xã hội. TDNN có những chức
năng chủ yếu sau đây
- Chức năng bù đắp thiếu hụt NSNN
Đây là chức năng cơ bản nhất của TDNN. TDNN ra đời thoạt tiên là huy
động vốn nhằm bù đắp thiếu hụt của NSNN. NSNN thiếu hụt là hiện tượng diễn ra
phổ biến ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, bất kể đó là nước nghèo, đang phát
triển hay các nước có nền kinh tế đã phát triển. Bội chi NSNN có thể là yếu tố
khách quan của sự mất cân đối của nền kinh tế, hoặc xuất phát từ ý chí chủ quan
của Nhà nước trước yêu cầu gia tăng vốn ĐTPT từ NSNN để thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ nhất đònh. Bội chi NSNN có thể được
bù đắp bằng các biện pháp khác nhau: vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài hoặc
phát hành tiền. Trong đó biện pháp vay nợ trong nước là biện pháp phổ biến được
nhiều nước áp dụng, mặt tích cực của biện pháp này là tác động tăng trưởng kinh tế
mà không dẫn đến lạm phát, nền tài chính - tiền tệ của quốc gia được giữ vững.




9

- Chức năng tập trung và phân phối lại các nguồn lực tài chính trong xã
hội dựa trên nguyên tắc có hoàn trả
Thông qua TDNN, Nhà nước có thể huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong
cũng như ngoài nước, đồng thời phân phối lại một phần nguồn lực của xã hội nhằm
thoả mãn nhu cầu ĐTPT hoặc tiêu dùng. Khác với cấp phát không hoàn lại của
NSNN, chức năng phân phối của TDNN là phân phối có hoàn lại. Nhà nước sử
dụng TDNN như là một biện pháp hỗ trợ tài chính của Nhà nước cho các mục tiêu,
chương trình dự án được Nhà nước phê duyệt; là một giải pháp cung cấp, hổ trợ
vốn cho các chủ thể nhằm thoả mãn nhu cầu đầu tư hoặc tiêu dùng của họ; tạo điều
kiện thúc đẩy lưu thông hàng hoá phát triển, mở rộng và phát triển sản xuất, tạo
công ăn việc làm và thúc đẩy hiệu quả sử dụng vốn. Mặt khác, TDNN là biện pháp
để Nhà nước tổ chức quản lý, sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước một cách có hiệu
quả nhất, từ đó là đòn bẩy kinh tế quan trọng để điều tiết tỷ lệ giữa tích lũy và tiêu
dùng.
- Chức năng kiểm tra, kiểm soát tài chính, các hoạt động kinh tế
Trong quan hệ tín dụng người cho vay vốn không chỉ quan tâm đến lợi ích do
việc cho vay vốn mang lại, mà còn quan tâm đến việc ngăn ngừa rủi ro, mất vốn.
Do đó, mà người cho vay phải kiểm tra việc sử dụng vốn vay của người đi vay, vì
vậy, kiểm tra là một trong những chức năng quan trọng của tín dụng.
Đối với TDNN, với vai trò là người đi vay ở phạm vi trong nước, chức năng
kiểm tra của TDNN thể hiện qua sự tín nhiệm của người dân đối với Chính phủ.
Nhưng đối với việc vay nợ nước ngoài, Chính phủ phải chòu sự kiểm tra nhiều mặt
của các tổ chức tài trợ về việc sử dụng vốn vay nợ nước ngoài. Với vai trò là người
cho vay, ở phạm vi trong nước, chức năng kiểm tra của TDNN được thực hiện
trước, trong và sau quá trình phát sinh quan hệ tín dụng như : thẩm đònh dự án vay
vốn, kiểm tra việc thế chấp tài sản, bảo lãnh tín chấp, kiểm tra việc sử dụng vốn
vay… Trong phạm vi đối ngoại, chức năng kiểm tra được thực hiện qua việc đàm
phán, tìm hiểu nhau giữa các đối tác, kiểm tra các dự án tiền khả thi, bảo lãnh vốn
vay, tư vấn tài trợ, kiểm tra việc sử dụng vốn vay ODA…
Mặt khác với chức năng tổ chức và quản lý nền kinh tế, Nhà nước sử dụng

TDNN như một công cụ kiểm soát các hoạt động của nền kinh tế, quá trình sản
xuất và phân phối sản phẩm xã hội, đảm bảo sử dụng vốn TDNN đạt được hiệu
quả cao.




10
1.2 – TPCP - CÔNG CỤ HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ CHO ĐTPT
1.2.1. Khái niệm về TPCP
Trái phiếu là loại chứng khoán nợ, người phát hành với tư cách là người đi
vay, người mua trái phiếu được gọi là trái chủ. Nhà phát hành phải trả cho trái chủ
cả gốc và lãi tại một thời điểm nhất đònh.
TPCP là một loại chứng khoán nợ do Chính phủ phát hành, có thời hạn,
mệnh giá, lãi suất và xác nhận nghóa vụ trả nợ của Chính phủ đối với người sở hữu
trái phiếu. Chính phủ của một quốc gia luôn được xem là nhà phát hành có uy tín
nhất trên thò trường. TPCP là tên gọi chung cho các loại trái phiếu do KBNN phát
hành, trái phiếu do chính quyền đòa phương, các cơ quan được Chính phủ cho phép
phát hành và được Chính phủ bảo đảm.
Mục đích của việc phát hành TPCP là nhằm huy động vốn để bù đắp thiếu
hụt NSNN hoặc để đầu tư xây dựng các công trình, dự án trọng điểm, các chương
trình mục tiêu của Chính phủ. Nguồn thanh toán TPCP chủ yếu lấy từ NSNN hoặc
nguồn vốn thu hồi trực tiếp từ các công trình đã phát hành TPCP để đầu tư xây
dựng mang lại. Do vậy, TPCP là loại trái phiếu có tính an toàn cao, rủi ro thấp nhất
so với các loại trái phiếu khác, bởi vì nguồn bù đắp trả nợ của TPCP chủ yếu là từ
NSNN.
1.2.2. Phân loại TPCP
TPCP rất đa dạng, phong phú có thể phân loại TPCP theo các tiêu thức chủ
yếu sau đây
- Phân loại theo mục đích phát hành

+ Tín phiếu kho bạc
Là loại TPCP có kỳ hạn dưới1 năm, mục đích của việc phát hành là huy
động vốn để bù đắp thiếu hụt tạm thời NSNN và nhằm phát triển thò trường tiền tệ.
Tín phiếu kho bạc được phát hành theo phương thức đấu thầu qua NHNN, khối
lượng và lãi suất tín phiếu Kho bạc được hình thành qua kết quả đấu thầu. Tín
phiếu Kho bạc được NSTW đảm bảo nguồn thanh toán gốc và lãi. Tín phiếu kho
bạc được giao dòch trên thò trường tiền tệ hoặc được chiết khấu tại Sở giao dòch của
NHNN, là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao nhất trong tất cả các loại TPCP.





11
+ Trái phiếu kho bạc
Là loại TPCP có kỳ hạn từ 1 năm trở lên để huy động vốn bù đắp thiếu hụt
của NSNN hằng năm đã được Quốc hội phê chuẩn. Trái phiếu kho bạc được bán lẻ
qua hệ thống KBNN hoặc đấu thầu qua thò trường giao dòch chứng khoán, bảo lãnh
phát hành và đại lý phát hành. Trái phiếu kho bạc được đảm bảo thanh toán (cả
gốc và lãi) bởi NSTW, vì vậy có độ rủi ro không đáng kể.

+ Trái phiếu công trình
Là loại TPCP có kỳ hạn từ 1 năm trở lên nhằm huy động vốn theo quyết
đònh của Thủ tướng Chính phủ cho các dự án thuộc nguồn vốn đầu tư của NSNN đã
ghi trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm. Trái phiếu
công trình được phát hành theo phương thức bán lẻ qua hệ thống KBNN, đấu thầu
hoặc bảo lãnh phát hành. NSNN (NSTW đối với công trình trung ương, NSĐP đối
với công trình đòa phương) đảm bảo việc thanh toán gốc, lãi và phí cho trái phiếu
công trình.
+ Trái phiếu đầu tư

Là loại TPCP có kỳ hạn từ 1 năm trở lên do các tổ chức tài chính Nhà nước
và các tổ chức tài chính, tín dụng được Thủ tướng Chính phủ chỉ đònh phát hành
nhằm huy động vốn để đầu tư theo chính sách của Chính phủ. Trái phiếu đầu tư
được bán lẽ qua hệ thống KBNN, đấu thầu hoặc bảo lãnh phát hành. Tiền thu từ
phát hành trái phiếu đầu tư chỉ sử dụng cho mục tiêu kinh tế đã được Chính phủ
phê duyệt. Tổ chức phát hành có trách nhiệm thanh toán gốc, lãi trái phiếu đầu tư
đến hạn thanh toán và các chi phí có liên quan đến việc tổ chức phát hành, thanh
toán. NSNN sẽ đảm nhận thanh toán một phần hay toàn bộ lãi trái phiếu hoặc cấp
bù chênh lệch lãi suất cho tổ chức phát hành theo quyết đònh của Thủ tướng Chính
phủ.
+ Trái phiếu ngoại tệ
Là loại TPCP có kỳ hạn từ 1 năm trở lên được phát hành để huy động vốn
đầu tư cho các mục tiêu theo chỉ đònh của Thủ tướng Chính phủ. Đồng tiền phát
hành là ngoại tệ tự do chuyển đổi và được Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết đònh cho
từng đợt phát hành. Trái phiếu ngoại tệ được bán lẻ qua hệ thống KBNN hoặc đấu




12
thầu qua NHNN. Trái phiếu ngoại tệ được NSNN đảm bảo thanh toán gốc và lãi
khi đến hạn thanh toán.
+ Công trái xây dựng tổ quốc
Công trái xây dựng tổ quốc do Chính phủ phát hành nhằm huy động nguồn
vốn trong các tầng lớp dân cư để đầu tư xây dựng những công trình quan trọng và
các công trình thiết yếu khác phục vụ sản xuất, đời sống, tạo cơ sở vật chất kỹ
thuật cho đất nước. Việc phát hành công trái căn cứ vào nhu cầu huy động vốn của
từng thời kỳ. Nguồn vốn thanh toán công trái do NSNN đảm bảo.
- Phân loại theo theo thời hạn
Bao gồm trái phiếu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

+ Trái phiếu ngắn hạn
Trái phiếu ngắn hạn là loại trái phiếu có thời hạn dưới 1 năm. Trái phiếu
ngắn hạn được phát hành nhằm huy động vốn để phục vụ nhu cầu chi tiêu thường
xuyên trong năm tài chính của Chính phủ. Trái phiếu ngắn hạn được coi là không
có rủi ro và tính thanh khoản khá cao, nên được công chúng ưa thích, các tổ chức
tài chính cũng thích mua loại trái phiếu này khi có vốn tạm thời nhàn rổi.
+ Trái phiếu trung hạn
Trái phiếu trung hạn là loại trái phiếu có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Đây
là loại trái phiếu có tỷ lệ phát hành khá cao trong các loại TPCP. Trái phiếu trung
hạn thường trả lãi 6 tháng một lần (một năm 2 kỳ). Trái phiếu trung hạn được phát
hành nhằm mục đích bù đắp thiếu hụt cho NSNN và cho đầu tư các công trình cơ sở
hạ tầng kinh tế - xã hội.
+ Trái phiếu dài hạn
Trái phiếu dài hạn là loại trái phiếu để giải quyết nhu cầu vốn đầu tư dài
hạn của Nhà nước. Trái phiếu dài hạn thông thường có thời hạn từ 10 đến 20 năm.
Các loại trái phiếu này phát hành rất mạnh ở những nước có thò trường chứng
khoán phát triển như Mỹ, Nhật và các nước Tây Âu. Về nguyên tắc, trái phiếu có
thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Người đầu tư có thể thu hồi vốn trước hạn
thông qua thò trường chứng khoán. Những nước chưa có thò trường thứ cấp phát
triển, tức là chưa tạo ra khả năng thanh khoản dễ dàng cho vốn đầu tư trái phiếu,
thì người đầu tư không thích đầu tư vào loại trái phiếu này.




13
- Phân loại theo lợi tức trái phiếu
+ Trái phiếu có lãi suất cố đònh
Trái phiếu có lãi suất cố đònh là loại trái phiếu mà lợi tức được xác đònh theo
một tỷ lệ % cố đònh theo mệnh giá trong suốt thời hạn của trái phiếu.

+ Trái phiếu có lãi suất biến đổi
Trái phiếu có lãi suất biến đổi còn gọi là trái phiếu lãi suất thả nổi. Lợi tức
của trái phiếu được trả trong các kỳ có sự khác nhau được tính theo một lãi suất có
sự biến đổi theo một lãi suất tham chiếu.
+ Trái phiếu không có lãi suất (zero – coupon Bonds)
Trái phiếu không có lãi suất là loại trái phiếu mà người mua không nhận
được lãi, nhưng được mua với giá thấp hơn mệnh giá (mua chiết khấu) và được
hoàn trả bằng mệnh giá khi trái phiếu đó đáo hạn.
- Phân loại theo hình thức trái phiếu
+ Trái phiếu vô danh
Trái phiếu vô danh là loại trái phiếu không ghi tên người mua trên trái phiếu
hoặc trong sổ sách của người phát hành. Người nắm giữ trái phiếu là người được
hưởng quyền lợi. Loại trái phiếu này thường được chuyển nhượng tự do trên thò
trường.
+ Trái phiếu ghi danh
Trái phiếu ghi danh là loại trái phiếu có ghi tên người mua trên tờ trái phiếu
và trong sổ sách của nhà phát hành.
- Phân loại theo phạm vi phát hành
+ Trái phiếu quốc nội
Trái phiếu quốc nội là loại trái phiếu do chính quyền trung ương hoặc đòa
phương phát hành trong phạm vi quốc gia, chủ yếu là bằng nội tệ nhằm huy động
vốn nhàn rổi của các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội và các tổ chức tài
chính tín dụng.
+ Trái phiếu quốc tế
Trái phiếu quốc tế là loại chứng chỉ vay nợ của Nhà nước phát hành ra nước




14

ngoài để huy động vốn bằng ngoại tệ.
Ngoài các cách phân loại như đã nêu trên, người ta còn có nhiều cách phân
loại khác nhau như: phân loại theo mức độ rủi ro tín dụng, theo tính chất của trái
phiếu…
1.2.3. Các yếu tố cơ bản của TPCP
Có nhiều loại trái phiếu khác nhau, nhưng tất cả các loại trái phiếu đều có
chung những đặc điểm cơ bản sau đây

- Mệnh giá của trái phiếu
Mệnh giá của trái phiếu hay còn gọi là giá trò danh nghóa của trái phiếu, là
giá trò được ghi trên trái phiếu; giá trò này được coi là số vốn gốc. Mệnh giá trái
phiếu là căn cứ để xác đònh số lợi tức tiền vay mà người phát hành phải trả cho
người sở hữu trái phiếu. Mệnh giá trái phiếu cũng thể hiện số tiền người phát hành
phải hoàn trả khi trái phiếu đến hạn thanh toán.
- Lãi suất danh nghóa
Là lãi suất được ghi trên tờ trái phiếu hoặc được người phát hành công bố,
lãi suất này được xác đònh theo tỷ lệ % so với mệnh giá của trái phiếu và cũng là
một căn cứ để xác đònh lợi tức của trái phiếu. Lãi suất trái phiếu là một trong
những yếu tố cơ bản nhất của trái phiếu, do vậy nó có ảnh hưởng nhiều đến giá của
trái phiếu. Lãi suất trái phiếu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thời hạn của trái
phiếu, chỉ số lạm phát, cung cầu trái phiếu và những biến động khác của thò trường.
- Thời hạn của trái phiếu
Là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày người phát hành hoàn trả
tiền vốn lần cuối. Ngày mà khoản vốn gốc của trái phiếu được thanh toán lần cuối
được gọi là ngày đáo hạn. Có nhiều cách phân loại kỳ hạn trái phiếu khác nhau,
trên thực tế người ta thường phân ra các loại kỳ hạn sau: Trái phiếu ngắn hạn (có
kỳ hạn dưới 1 năm), trái phiếu trung hạn (có kỳ hạn từ 1 năm đến 5 năm), trái
phiếu dài hạn (có kỳ hạn từ 5 năm trở lên).
- Kỳ trả lãi
Là khoảng thời gian người phát hành trả lãi cho người nắm giữ trái phiếu.





15
Tại nhiều nước, lãi suất trái phiếu được xác đònh theo năm, nhưng việc thanh toán
lãi trái phiếu thường được thực hiện 6 tháng một lần.
- Giá phát hành
Là giá bán ra của trái phiếu vào thời điểm phát hành. Thông thường, giá
phát hành được xác đònh theo tỷ lệ % của mệnh giá. Tùy theo tình hình của thò
trường và tuỳ theo mục đích phát hành để xác đònh giá phát hành một cách hợp lý.
Giá phát hành có thể thực hiện 1 trong 3 trường hợp sau: giá phát hành bằng mệnh
giá; giá phát hành cao hơn mệnh giá; giá phát hành thấp hơn mệnh giá.
1.2.4. Các phương thức phát hành TPCP để huy động vốn cho NSNN và cho
ĐTPT
- Phương thức đấu thầu
Đấu thầu TPCP là việc bán TPCP cho các tổ chức, cá nhân tham gia đấu
thầu, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của tổ chức phát hành. Hiện nay trên thế giới,
việc đấu thầu TPCP thường áp dụng 1 trong 2 hoặc đồng thời cả 2 phương thức đấu
thầu kiểu Mỹ và phương thức đấu thầu kiểu Hà Lan.
+ Phương thức đấu thầu kiểu Mỹ:
Đấu thầu theo phương thức này, thì khối lượng và lãi suất trái phiếu trúng
thầu được xác đònh từ mức lãi suất dự thầu thấp nhất cho đến mức lãi suất dự thầu
mà tại đó khối lượng dự thầu đạt mức khối lượng gọi thầu (cut - off) của từng phiên
đấu thầu. Các đơn vò trúng thầu sẽ mua trái phiếu với lãi suất đúng bằng lãi suất dự
thầu (tức là từ mức lãi suất cut - off trở xuống). Như vậy, một đợt phát hành sẽ có
nhiều mức giá khác nhau, tương ứng với các mức lợi tức khác nhau. Ưu điểm của
phương thức này là nâng cao tính cạnh tranh giữa các đơn vò dự thầu; đảm bảo sự
công bằng trong đấu thầu, đặt thầu ở mức lãi suất nào thì trúng thầu ở mức lãi suất
đó; mức giá trung bình trúng thầu cao. Tuy nhiên để phương thức này có hiệu quả,

đòi hỏi phải có nhiều thanh viên thường xuyên tham gia đấu thầu, khi đó lãi suất
trúng thầu mới phản ảnh đúng lãi suất thò trường thông qua cạnh tranh lành mạnh.
+ Phương thức đấu thầu kiểu Hà Lan:
Khối lượng và lãi suất trái phiếu trúng thầu theo phương thức này cũng được
xác đònh như phương thức đấu thầu kiểu Mỹ. Tuy nhiên khác với kiểu Mỹ, các đơn
vò trúng thầu (từ mức lãi suất cut - off trở xuống) được hưởng mức lãi suất như
nhau, với mức lãi suất trúng thầu cao nhất. Phương thức này có ưu điểm khuyến




16
khích các đơn vò tham gia đấu thầu, vì tuy đặt thầu với mức lãi suất thấp nhưng vẫn
có thể trúng thầu với mức lãi cao hơn. Tuy nhiên, so với phương thức đấu thầu kiểu
Mỹ, thì chi phí huy động vốn cao hơn do lãi suất trúng thầu là lãi suất cao nhất; kết
quả đấu thầu không phản ảnh sát nhu cầu của thò trường, vì các đơn vò có thể đặt
thầu với giá mua cao (lãi suất thấp) nhưng cuối cùng thì được mua trái phiếu với
giá thấp (lãi suất cao).
Hiện nay, việc tổ chức đấu thầu TPCP ở Việt Nam áp dụng cách xét thầu
theo phương thức kiểu Hà Lan, dưới 2 hình thức: cạnh tranh lãi suất và không cạnh
tranh lãi suất. Đấu thầu cạnh tranh lãi suất là việc các tổ chức tham gia đấu thầu
đưa ra các mức lãi suất dự thầu của mình để đơn vò tổ chức đấu thầu chọn ra mức
lãi suất trúng thầu. Đấu thầu không cạnh tranh lãi suất là việc các tổ chức tham gia
đấu thầu không đưa ra mức lãi suất dự thầu mà chỉ đăng ký khối lượng cần mua,
các tổ chức này mua trái phiếu theo mức lãi suất trúng thầu hình thành qua kết quả
đấu thầu cạnh tranh. Trong từng đợt phát hành, Bộ Tài chính có thể quy đònh hình
thức đấu thầu cạnh tranh hoặc kết hợp giữa cạnh tranh và không cạnh tranh lãi
suất, nghóa là lãi suất trái phiếu hình thành thông qua đấu thầu cạnh tranh đồng
thời là lãi suất trúng thầu chung cho cả đấu thầu cạnh tranh và không cạnh tranh lãi
suất, người đặt thầu không cạnh tranh sẽ được ưu tiên trúng thầu.

Việc tổ chức đấu thầu diễn ra tại TTGDCK đối với TPCP có thời hạn từ 1
năm trở lên và tại NHNN đối với tín phiếu kho bạc có thời hạn dưới 1 năm. TPCP
đấu thầu được bán theo các hình thức: chiết khấu, bằng mệnh giá, cao hoặc thấp
hơn mệnh giá, dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ. TPCP trúng thầu được
giao dòch và là hàng hoá trên thò trường tiền tệ (đối với trái phiếu ngắn hạn) hoặc
trên thò trường chứng khoán (đối với trái phiếu trung và dài hạn)
- Phương thức bảo lãnh phát hành
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực
hiện các thủ tục cần thiết trước khi phát hành trái phiếu ra TTCK, phân phối trái
phiếu cho các nhà đầu tư, nhận mua trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu
còn lại chưa phân phối hết. Hoạt động bảo lãnh phát hành TPCP do các Công ty
Chứng khoán, các Quỹ đầu tư, Công ty tài chính, các ngân hàng và các đònh chế tài
chính khác được Bộ Tài chính cho phép đứng ra đảm nhiệm.
Cấu trúc bảo lãnh phát hành được quyết đònh cho từng đợt phát hành theo
một trong hai hình thức sau: một hoặc một số tổ chức đồng bảo lãnh phát hành,




17
hoặc tổ hợp bảo lãnh phát hành có một hoặc một số tổ chức đồng bảo lãnh phát
hành chính đứng ra chủ trì đợt phát hành trái phiếu. Việc lựa chọn tổ chức bảo lãnh
phát hành trên nguyên tắc tiết kiệm đến mức thấp nhất về chi phí phát hành trái
phiếu (lãi suất và phí bảo lãnh). Các quốc gia có TTCK phát triển thường phổ biến
các hình thức bảo lãnh sau đây: bảo lãnh chắc chắn, bảo lãnh cố gắng tối đa, bảo
lãnh tất cả hoặc không, bảo lãnh tối thiểu - tối đa.
Bảo lãnh chắc chắn là hình thức bảo lãnh mà tổ chức bảo lãnh nhận mua
toàn bộ số chứng khoán phát hành trong đợt, hoặc mua số chứng khoán còn lại
không bán hết khi hết thời gian phát hành. Tức là thực hiện sự bảo đảm phát hành
thành công một cách chắc chắn. Phí hoa hồng của tổ chức bảo lãnh phát hành nằm

trong giá mua chứng khoán. Bảo lãnh cố gắng tối đa là sự bảo lãnh mà tổ chức bảo
lãnh hoạt động với tư cách là một đại diện bán tích cực, số chứng khoán còn lại
không bán được khi hết thời gian phát hành được trả lại cho tổ chức phát hành. Tổ
chức bảo lãnh được hưởng phí hoa hồng trên số trái phiếu đã được bán ra. Bảo lãnh
tất cả hoặc không là hình thức tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh phải bán
hết số chứng khoán, nếu không bán hết thì hủy bỏ toàn bộ số lượng đã phát hành.
Bảo lãnh tối thiểu - tối đa là phương thức bảo lãnh trung gian giữa bảo lãnh cố gắng
cao nhất và bảo lãnh tất cả hoặc không, theo phương thức này tổ chức bảo lãnh
phải bán tối thiểu một tỷ lệ nhất đònh chứng khoán phát hành. Nếu lượng chứng
khoán bán được thấp hơn tỷ lệ yêu cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bò huỷ bỏ.
Hiện nay ở Việt Nam chỉ thực hiện một hình thức bảo lãnh duy nhất là bảo
lãnh chắc chắn. Vì vậy, nó có ưu thế là đảm bảo phân phối hết số TPCP dự kiến
phát hành, qua đó huy động được khối lượng vốn lớn trong thời gian ngắn; song tính
cạnh tranh không cao và các nhà bảo lãnh dể nhận biết được chủ trương khi Chính
phủ sử dụng công cụ TPCP để điều chỉnh cung cầu vốn đầu tư. Do đó, để thò trường
thứ cấp hoạt động tốt, các nhà bảo lãnh cần có cam kết hổ trợ sau khi phát hành
thông qua việc mua và bán các loại TPCP.
TPCP phát hành theo phương thức này có thời hạn từ 1 năm trở lên, theo
hình thức chiết khấu hoặc ngang mệnh giá dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi
sổ, đủ tiêu chuẩn niêm yết trên thò trường giao dòch chứng khoán tập trung; nhằm
mục đích tăng cường nguồn vốn trung và dài hạn cho NSNN và cho ĐTPT, đồng
thời bổ sung thêm hàng hoá cho thò trường chứng khoán.
- Phương thức đại lý phát hành




18
Là việc tổ chức phát hành sẽ uỷ thác cho một hoặc một số tổ chức làm đại lý
trái phiếu. Trường hợp, nếu bán không hết số lượng trái phiếu dự đònh phát hành

thì tổ chức làm đại lý không có trách nhiệm phải mua hết số trái phiếu còn lại. Các
nhà đại lý phát hành là các công ty Chứng khoán, các Quỹ đầu tư, Công ty tài
chính, các Ngân hàng hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. KBNN được coi là một đại
lý đặc biệt của Chính phủ trong việc phát hành trái phiếu. Trái phiếu có thể bán
với hình thức ngang mệnh giá hoặc không ngang mệnh giá, thời điểm phát hành và
thanh toán của mỗi đợt là đồng nhất và được phép niêm yết, giao dòch tại TTCK.
Tổ chức đại lý được nhà phát hành trả cho một khoản phí trên số trái phiếu đã bán.
Điểm khác biệt chủ yếu giữa phương thức đại lý phát hành và bảo lãnh phát hành
là khả năng phân phối trái phiếu ra thò trường. Với phương thức này, Nhà nước có
thể mở rộng đòa bàn phát hành, mở rộng đến nhiều đối tượng có thể tiếp cận mua
trái phiếu, tuy nhiên tiến độ huy động vốn vào NSNN chậm và không tập trung
bằng phương thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành.
- Phương thức bán lẻ qua hệ thống KBNN
Là việc KBNN tự tổ chức phát hành trái phiếu qua hệ thống hoạt động của
mình theo hình thức ngang mệnh giá hoặc không ngang mệnh giá. TPCP phát hành
theo hình không ngang mệnh giá có cùng ngày ngày phát hành và cùng ngày thanh
toán, được niêm yết và giao dòch tại TTGDCK, phương thức này hiện nay vẫn được
nhiều nước đang áp dụng phổ biến. Ưu điểm của phương thức này là đối tượng mua
trái phiếu được triển khai rộng rải, nâng cao khả năng huy động vốn nhàn rổi trong
xã hội. Tuy nhiên, phát hành trái phiếu bằng phương thức này thì tiến độ huy động
vốn cho NSNN chậm, chi phí phát hành tương đối cao.
1.2.5. Vai trò của TPCP
- TPCP là công cụ huy động vốn cho NSNN và cho ĐTPT
Để bù đắp sự mất cân đối giữa thu nhập và chi tiêu hàng năm của Chính
phủ, bù đắp thiếu hụt NSNN nhằm duy trì và phát triển các hoạt động của nền kinh
tế, một trong những biện pháp được Chính phủ áp dụng đó là thực hiện việc vay
nợ. Để vay nợ, Chính phủ có thể sử dụng các công cụ và giải pháp khác nhau, như
vay từ các đònh chế tài chính, vay từ Chính phủ các nước ngoài, các tổ chức tài
chính tiền tệ quốc tế hoặc vay nợ trong nước thông qua phát hành TPCP.





19
Mỗi một công cụ, giải pháp huy động vốn đều có ưu và nhược điểm riêng.
Vay nợ nước ngoài dưới hình thức ODA có ưu điểm là thời hạn vay dài, lãi suất
nhẹ; song có nhược điểm là phải phụ thuộc vào các điều kiện giải ngân của nhà
cung cấp tín dụng, nhiều khi các điều kiện này là hết sức ngặt nghèo. Vay nợ
thương mại nước ngoài có nhược điểm là thời hạn vay vốn ngắn và lãi suất cao, vì
các khoản vay thương mại phải chòu ảnh hưởng bởi các điều kiện của thò trường tài
chính quốc tế. So với các khoản vay thương mại, vay vốn dưới hình thức trái phiếu
ở thò trường tài chính trong nước có những ưu việt nhất đònh:
Một là, vay vốn dưới hình thức trái phiếu sẽ không bò rủi ro hay vỡ nợ trong
các điều kiện thông thường vì Chính phủ có thể phát hành trái phiếu mới để thanh
toán nợ cũ; trường hợp không thể phát hành trái phiếu, Chính phủ có thể phát hành
tiền để trả nợ.
Hai là, TPCP là công cụ nợ được coi là không có độ rủi ro nên lãi suất trái
phiếu là thấp nhất. Điều đó cho thấy vay vốn dưới hình thức TPCP có chi phí thấp
hơn các khoản vay thương mại khác.
Ngoài mục đích huy động vốn để cân đối thu chi ngân sách, TPCP còn được
sử dụng để huy động vốn đầu tư trực tiếp cho các công trình, dự án quan trọng của
đất nước. Hầu hết Chính phủ các nước trên thế giới đều sử dụng TPCP để huy động
vốn cho NSNN và cho ĐTPT, coi đây là một công cụ quan trọng trong việc điều
hành chính sách tài khóa quốc gia.
- TPCP là công cụ điều tiết vó mô nền kinh tế
TPCP không chỉ là công cụ huy động vốn cho NSNN và cho ĐTPT, mà còn
là công cụ để Chính phủ điều tiết vó mô nền kinh tế thông qua hoạt động mua vào
bán ra TPCP trên thò trường.
Khối lượng TPCP phát hành là yếu tố cấu thành lượng tiền trong lưu thông,
do vậy phát hành TPCP có ảnh hưởng đến cung cầu tiền tệ của nền kinh tế. Với

tính chất này Chính phủ có thể sử dụng TPCP để điều chỉnh nền kinh tế. Nếu
Chính phủ muốn khuyến khích hoạt động của nền kinh tế thì Chính phủ sẽ mua lại
trái phiếu của mình, khi đó giá TPCP sẽ tăng và lợi tức của trái phiếu sẽ giảm; từ
đó tác động đến giá và lợi tức của trái phiếu khu vực tư nhân và hạ thấp mức lãi
suất chung của nền kinh tế; đồng thời thông qua việc mua lại trái phiếu, Chính phủ
bơm tiền vào lưu thông qua đó làm tăng khối lượng tiền cung ứng trên thò trường.
Ngược lại, nếu Chính phủ muốn điều chỉnh các hoạt động của nền kinh tế, Chính




20
phủ có thể tăng khối lượng TPCP bán ra, khi đó tỷ lệ lãi suất sẽ tăng lên và giảm
khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Các nghiệp vụ này chủ yếu được sử dụng
đối với TPCP ngắn hạn.
- TPCP góp phần thực thi chính sách tiền tệ
Huy động vốn bằng TPCP là chính sách vay nợ có vai trò quan trọng trong
việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ. TPCP là một công cụ nợ, song với
sự đa dạng về kỳ hạn nên TPCP vừa tham gia vào thò trường vốn và thò trường tiền
tệ. Tín phiếu kho bạc vừa có vai trò là huy động vốn để bù đắp thiếu hụt NSNN,
vừa là công cụ của thò trường tiền tệ. Ngay cả các quốc gia có nền kinh tế phát
triển vẫn phát hành tín phiếu ngắn hạn với mục đích đảm bảo hàng hoá cho thò
trường tiền tệ hoạt động. Vì vậy trong trường hợp NSNN không bò thâm hụt, Chính
phủ vẫn phát hành tín phiếu kho bạc với mục đích là để thực hiện chính sách tiền
tệ quốc gia.
TPCP (tín phiếu kho bạc) sau khi phát hành được mua bán trên thò trường
tiền tệ, do tính thanh khoản cao và độ rủi ro là thấp nhất nên tín phiếu kho bạc là
một công cụ quan trọng để NHTW thực hiện nghiệp vụ thò trường mở. TPCP (tín
phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình…) góp phần điều hoà lượng
tiền mặt trong lưu thông nhằm đảm bảo ổn đònh tiền tệ. Mặt khác, thông qua việc

phát hành TPCP, NSNN có thể đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Chính phủ, chấm dứt
việc phát hành tiền cho NSNN, góp phần ngăn chặn và kiểm chế lạm phát.
- TPCP góp phần thúc đẩy phát triển thò trường chứng khoán
Thông qua việc phát hành TPCP, Chính phủ thu hút được nguồn vốn nhàn
rổi trong xã hội để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của mình, đồng
thời góp phần thúc đẩy thò trường vốn và thò trường chứng khoán phát triển, cụ thể:
- TPCP cung cấp hàng hóa quan trọng cho TTCK nhất là trong giai đoạn đầu
mới đi vào hoạt động. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, trong giai đoạn đầu
mới thành lập thò trường chứng khoán thì TPCP là hàng hoá chủ đạo của thò trường.
Do độ rủi ro của TPCP là thấp nhất nên nó là công cụ an toàn nhất cho các nhà đầu
tư trên TTCK. Cũng với đặc tính này, TPCP được coi là loại chứng khoán có lãi
suất chuẩn cho các công cụ nợ khác trên thò trường.




21
- Thông qua việc sử dụng công cụ lãi suất của TPCP, Nhà nước có thể điều
tiết và đònh hướng thò trường theo mục tiêu của mình, góp phần đònh hướng phát
triển và điều tiết thò trường chứng khoán.
- TPCP cung cấp hàng hoá cho thò trường chứng khoán, qua đó góp phần tạo
thói quen đầu tư, kinh doanh của các tầng lớp dân cư; thúc đẩy sự hình thành và
phát triển các đònh chế tài chính trung gian (các công ty Chứng khoán, các Quỹ đầu
tư…) với vai trò của nhà tạo lập thò trường.
Tóm lại sử dụng công cụ TPCP để huy động vốn bù đắp thiếu hụt NSNN và
bổ sung nguồn vốn cho ĐTPT đã khẳng đònh vai trò của TPCP trong quá trình phát
triển kinh tế. TPCP không chỉ đơn thuần là công cụ huy động vốn mà còn là công
cụ để điều tiết vó mô nền kinh tế, thực thi chính sách tiền tệ và góp phần thúc đẩy
sự phát triển của TTCK. Chính vì vậy huy động vốn thông qua việc phát hành
TPCP ngày càng được Chính phủ nhiều nước quan tâm, bởi những tác động tích cực

của nó đối với nền kinh tế.
1.3 – KINH NGHIỆM PHÁT HÀNH TPCP Ở MỘT SỐ QUỐC GIA
1.3.1. Phát hành TPCP ở Mỹ
Thò trường TPCP của Mỹ là một thò trường vay nợ lớn nhất trên thế giới,
mục tiêu của việc phát hành TPCP của chính quyền Mỹ là huy động vốn để bù đắp
thiếu hụt NSNN và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thò trường này.
TPCP Mỹ bao gồm các loại tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu kho bạc, trái phiếu
kho bạc, trái phiếu chính quyền đòa phương và trái phiếu do các do các cơ quan
Chính phủ phát hành. Trái phiếu kho bạc được bán theo phương thức đấu thầu do
Kho bạc Mỹ tổ chức, còn các loại trái phiếu do các chính quyền liên bang hoặc các
loại trái phiếu do cơ quan Chính phủ phát hành thường được bán dưới hình thức bảo
lãnh phát hành. TPCP được giao dòch qua thò trường giao dòch OTC trực tiếp giữa
các thành viên hơn là giao dòch qua Sở giao dòch chứng khoán. Các nhà giao dòch
trái phiếu sơ cấp thường thực hiện các giao dòch trực tiếp với các nhà đầu tư như
các ngân hàng, các công ty bảo hiểm và các nhà môi giới; các nhà đầu tư nhỏ và
dân chúng mua bán TPCP thông qua các ngân hàng, các nhà môi giới hoặc các nhà
kinh doanh trái phiếu.
- Tại thò trường TPCP sơ cấp: TPCP thường được phát hành theo hình thức
đấu thầu, trong đó Cục dự trữ liên bang làm cơ quan đại lý cho Kho bạc trong việc




22
tổ chức các đợt đấu thầu, phân phối TPCP thông qua hệ thống của mình. Đối với
đợt phát hành mới lãi suất xác đònh giá (theo lãi suất coupon) đảm bảo hưởng mức
lợi suất như mức lợi suất của các đợt phát hành trên thò trường thứ cấp có thời hạn
tương đương.
Để xác đònh mức lợi suất trái phiếu đấu thầu, ở Mỹ áp dụng hình thức đấu
thầu một giá và đấu thầu nhiều giá. Đấu thầu một giá được áp dụng đối với TPCP

ngắn hạn, người đặt thầu nhận được trái phiếu theo mức lợi suất cao nhất của đấu
thầu cạnh tranh được chấp nhận. Các loại TPCP còn lại được áp dụng theo hình
thức đấu thầu nhiều giá, những người đặt thầu ở mức lợi suất thấp nhất sẽ nhận
được trái phiếu theo giá đặt thầu của họ, còn những người đặt thầu thành công ở
mức lợi suất cao hơn chỉ có được trái phiếu theo mức giá đặt thầu của họ cho đến
khi tổng giá trò chào bán được xác đònh.
- Thò trường TPCP thứ cấp: Ở Mỹ thò trường TPCP thứ cấp chính là thò trường
OTC, đó là nơi các nhà đầu tư và kinh doanh TPCP đặt mua và chào bán các loại
TPCP. Đặc điểm của thò trường này là có tính thanh khoản cao. Trên thò trường này
có một bộ phận TPCP được giao dòch trước khi Kho bạc phát hành, thò trường này
giao dòch cả tín phiếu kho bạc và trái phiếu coupon Chính phủ kể từ ngày được
công bố đấu thầu cho đến ngày phát hành và việc chuyển giao trái phiếu được diễn
ra vào ngày phát hành trái phiếu đó.
Các loại trái phiếu đòa phương được phát hành rộng rải, bởi việc huy động
nguồn vốn này có lãi suất thấp hơn đi vay các tổ chức khác do được miễn thuế thu
nhập. Trái phiếu đòa phương được giao dòch trên thò trường OTC, thông thường các
nhà đầu tư lớn, các NHTM là người nắm giữ loại trái phiếu này. Giao dòch trái
phiếu đòa phương không nhiều, do vậy việc xây dựng giá của nó trên thò trường thứ
cấp có thể gặp khó khăn, chênh lệch giữa giá mua và giá bán thường rất lớn.
1.3.2 Phát hành TPCP ở Nhật Bản
TPCP ở Nhật Bản phát hành chủ yếu tập trung vào các loại trái phiếu dài
hạn và siêu dài hạn. Ở Nhật Bản bên cạnh việc phát hành tín phiếu kho bạc, còn
có các loại kỳ phiếu kho bạc có coupon, kỳ phiếu kho bạc chiết khấu và trái phiếu
kho bạc dài hạn. TPCP được phát hành theo hai hình thức cơ bản là đấu thầu và
bảo lãnh phát hành. Đấu thầu TPCP được uỷ thác cho NHTW thực hiện theo hai
phương pháp đònh giá Hà Lan và Mỹ. Tổ hợp bảo lãnh trái phiếu bao gồm các ngân
hàng, các tổ chức tín dụng và tiết kiệm, các công ty tài chính và các đònh chế tài





23
chính nước ngoài. Tổ hợp bảo lãnh phát hành ở Nhật gồm có 788 tổ chức tài chính.
Bộ Tài chính Nhật Bản phối hợp với NHTW và các tổ chức phát hành trong việc
quy đònh lãi suất phát hành. Căn cứ vào dự toán NSNN hàng năm được Quốc hội
thông qua, Bộ Tài chính xây dựng kế hoạch phát hành TPCP cụ thể cho từng thời
điểm trong năm; kế hoạch này được xây dựng trên cơ sở trao đổi, thống nhất với
NHTW và các tổ chức bảo lãnh phát hành. TPCP được niêm yết tại Sở giao dòch
chứng khoán.
Ngoài trái phiếu do Chính phủ phát hành, tại Nhật Bản còn có các loại trái
phiếu chính quyền đòa phương và các cơ quan Chính phủ phát hành. Đối với trái
phiếu chính quyền đòa phương muốn phát hành ra công chúng thì phải được sự đồng
ý của Bộ Nội vụ; các cơ quan của Chính phủ được phép phát hành trái phiếu như
các ngân hàng, tổ chức tín dụng… để huy động vốn tài trợ cho mục tiêu phát triển
kinh tế; ngoài ra còn có tổ chức Tiết kiệm Bưu điện cũng tham gia huy động vốn
của các tầng lớp dân cư và sử dụng số tiền đã huy động được để mua TPCP hoặc
cho các cơ quan của Chính phủ vay lại. Đối với các đợt phát hành trái phiếu
coupon, Bộ Tài chính Nhật sẽ quy đònh lãi suất coupon trên cơ sở phối hợp với tổ
hợp bảo lãnh phát hành TPCP. Thông thường thì mức lãi suất coupon xác đònh căn
cứ vào mức giá đấu thầu bình quân thấp hơn mệnh giá, lãi suất của các đợt phát
hành TPCP được căn cứ vào các điều kiện trên và thực trạng của thò trường.
Thò trường trái phiếu ở Nhật bản gồm có: Thò trường TPCP và thò trường trái
phiếu của các tổ chức Chính phủ, thò trường trái phiếu chính quyền đòa phương, thò
trường trái phiếu ngân hàng và trái phiếu công ty. Trong đó, thò trường TPCP là thò
trường trái phiếu có quy mô và khối lượng giao dòch lớn nhất ở Nhật Bản.
1.3.3. Phát hành TPCP ở Trung Quốc
Trong một vài thập kỷ gần đây Chính phủ Trung Quốc đã chú trọng đến việc
sử dụng chiến lược tài trợ thiếu hụt NSNN bằng cách phát hành TPCP ở thò trường
vốn trong nước. Thò trường TPCP ở Trung Quốc có những đặc điểm sau:
- Về hình thức: có các loại trái phiếu kho bạc, trái phiếu doanh nghiệp thuộc

sỡ hữu Nhà nước, trái phiếu của các đònh chế tài chính.
- Theo đánh giá của ADB - Government Bond Market Development in Asia
- năm 2001, thì đầu những năm 1990 Trung Quốc bắt đầu phát hành TPCP dưới
nhiều hình thức khác nhau; đến năm 1991 phát hành TPCP theo hình thức tổ hợp
bảo lãnh phát hành; đến năm 1994 áp dụng kết hợp hài hoà giữa hình thức bảo




24
lãnh phát hành với các hình thức truyền thống nhằm thoả mãn và đáp ứng nhu cầu
của người đầu tư trái phiếu. Trong năm 1998 quy mô thò trường trái phiếu Trung
Quốc là 776 tỷ USD, chiếm 30% GDP, trong đó TPCP chiếm khoảng 72%.
- Lãi suất của TPCP Trung Quốc được quy đònh bởi cơ quản lý, mặc dù trong
năm 1998 có cho phép thực hiện biên độ là 20% và được nâng lên 30% từ năm
1999. Trung Quốc mới áp dụng tự do hoá lãi suất đối với các khoản vay ngắn hạn,
còn trung hạn và dài hạn thì vẫn quy đònh tỷ lệ lãi suất cố đònh.
- Về thò trường sơ cấp: Tín phiếu kho bạc ngắn hạn được phát hành theo
phương thức chiết khấu; phương pháp phát hành truyền thống là đấu thầu qua hệ
thống điện tử kết nối giữa cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ với các nhà bán
buôn trái phiếu được chỉ đònh hoặc với các nhà tạo lập thò trường. Đối với phương
pháp bảo lãnh, việc bán trái phiếu cho các nhà đầu tư được thực hiện qua các tổ
chức bảo lãnh phát hành.
- Về thò trường thứ cấp: Thò trường thứ cấp ở Trung Quốc là thò trường OTC,
mọi giao dòch được thực hiện qua các nhà kinh doanh trái phiếu sơ cấp và các nhà
môi giới chứng khoán được cấp giấy phép. Ở Trung quốc chưa có một thò trường
thứ cấp thực sự, vì hầu hết các nhà đầu tư có khuynh hướng mua và giữ trái phiếu
cho đến khi tới hạn thanh toán. Nguyên nhân chủ yếu của việc thò trường thứ cấp
chưa phát triển ở Trung quốc là thiếu các yếu tố quan trọng đối với thò trường lãi
suất, hệ thống tài chính và hệ thống thanh toán bù trừ chưa phát triển.

1.3.4. Một số bài học kinh nghiệm về phát hành TPCP ở các nước
Qua tìm hiểu việc phát hành TPCP ở một số nước, trong đó có những nước
đang phát triển, ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm về phát hành TPCP
như sau:
- Các nước có nền kinh tế phát triển hay các nước đang phát triển đều sử
dụng TPCP để huy động vốn cho NSNN và cho ĐTPT. TPCP không chỉ là công cụ
huy động vốn cho NSNN và ĐTPT mà còn là công cụ để Chính phủ các nước thực
hiện chính sách tài chính và chính sách tiền tệ quốc gia.
- TPCP được phát hành dưới nhiều hình thức khác nhau, mỗi loại TPCP đều
có vai trò, vò trí nhất đònh đối với nền kinh tế. Tín phiếu kho bạc vừa có vai trò huy
động vốn để bù đắp thiếu hụt NSNN vừa là công cụ của thò trường tiền tệ. Trái
phiếu kho bạc là công cụ để huy động vốn bù đắp thiếu hụt NSNN vừa để phục vụ

×