Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

“Méo mặt” vì đăng ký thay đổi cổ đông sáng lập pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.35 KB, 3 trang )

“Méo mặt” vì đăng ký thay đổi cổ đông
sáng lập
Theo nhiều DN, đang có sự “bất thường” mỗi khi có bất kỳ thay đổi nào đối với
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (GCNĐKKD), Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà
Nội đều buộc DN phải nộp hồ sơ để cập nhật danh sách cổ đông sáng lập vào
GCNĐKKD, mặc dù các đối tượng này đã hết thời gian bị hạn chế chuyển nhượng
cổ phần. Điều này gây phiền hà cho DN, bởi tỷ lệ sở hữu cổ phần và danh sách cổ
đông sáng lập thường xuyên thay đổi, thậm chí thay đổi hàng ngày đối với DN
niêm yết.
Bức xúc từ DN
Lãnh đạo một CTCP tại Hà Nội phản ánh, nhiều năm nay, mỗi khi làm thủ tục
thay đổi thông tin trong GCNĐKKD như: tăng vốn điều lệ; thay đổi người đại
diện theo pháp luật…, thì Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội đều buộc DN phải cập
nhật danh sách cổ đông sáng lập vào GCNĐKKD, mặc dù đối tượng cổ đông này
đã hết thời gian bị hạn chế chuyển nhượng cổ phần là 3 năm kể từ ngày DN nhận
được GCNĐKKD. Cách làm này gây bức xúc cho DN, lý do là bởi theo quy định
của Luật Doanh nghiệp, sau thời hạn 3 năm, kể từ ngày DN được cấp
GCNĐKKD, cổ đông sáng lập được tự do chuyển nhượng cổ phần. Với trường
hợp này, luật không hề quy định DN phải cập nhật danh sách cổ đông sáng lập vào
GCNĐKKD.
Theo Luật Doanh nghiệp, cổ đông sáng lập là cổ đông tham gia xây dựng, thông
qua và ký tên vào bản Điều lệ đầu tiên của công ty cổ phần. Các cổ đông sáng lập
phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền
chào bán Trong thời hạn 3 năm, kể từ ngày công ty được cấp GCNĐKKD, cổ
đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho cổ
đông sáng lập khác, nhưng chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình
cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của ĐHCĐ
Trưởng bộ phận pháp chế một DN đang niêm yết trên Sở GDCK TP. HCM cho
biết, Công ty được Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cấp GCNĐKKD lần đầu vào
năm 2007, nhưng cách đây một tháng, khi Công ty đến Phòng đăng ký kinh doanh
của Sở làm thủ tục tăng vốn điều lệ, thì Sở yêu cầu Công ty phải cập nhật danh


sách cổ đông sáng lập vào GCNĐKKD trước, sau đó mới làm thủ tục điều chỉnh
tăng vốn điều lệ (tình trạng này đã diễn ra nhiều lần trước đó). Điều không bình
thường nữa là tuy đã hết 3 năm hạn chế chuyển nhượng cổ phần, nhưng Sở Kế
hoạch và Đầu tư Hà Nội vẫn yêu cầu Công ty phải xuất trình nghị quyết ĐHCĐ về
việc cho phép cổ đông sáng lập chuyển nhượng, thì mới thụ lý hồ sơ đăng ký cập
nhật danh sách cổ đông sáng lập của Công ty vào GCNĐKKD Do là DN niêm
yết, nên sau khi hết 3 năm bị hạn chế chuyển nhượng, các cổ đông sáng lập thường
xuyên mua, bán cổ phiếu. Điều này làm cho tỷ lệ sở hữu của cổ đông sáng lập biến
động hàng ngày, nên việc Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội buộc DN phải thường
xuyên cập nhật danh sách cổ đông sáng lập trong GCNĐKKD là quá phi lý. Có
những thời điểm Công ty có nhu cầu điều chỉnh thông tin trong GCNĐKKD 2
lần/tháng. Mỗi khi như vậy, Công ty phải cắt cử 2 nhân viên thường xuyên chạy
“mướt mồ hồi” lên Sở để hoàn tất thủ tục cập nhật danh sách cổ đông sáng lập
trước, sau đó mới nộp hồ sơ đăng ký thay đổi các thông tin khác trong
GCNĐKKD
Với tư cách là Trưởng nhóm rà soát Luật Doanh nghiệp theo đơn đặt hàng của
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Luật gia Cao Bá Khoát, Giám đốc
Công ty Tư vấn KAC cho biết, qua khảo sát thực tiễn, cũng như rà soát hệ thống
văn bản pháp luật về Luật Doanh nghiệp, thì khoản 5, Điều 84 Luật Doanh nghiệp
đã quy định rõ việc hạn chế đối với chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập
trong vòng 3 năm sau khi đăng ký DN. Khoản 2, Điều 41 Nghị định 43/2010 về
đăng ký DN quy định trình tự, thủ tục cho việc đăng ký thay đổi cổ đông sáng lập
trong trường hợp này.
Tuy nhiên, trên thực tế, khi có bất kỳ thay đổi nào đối với GCNĐKKD hay Giấy
chứng nhận đầu tư (bao gồm cả điều chỉnh về cổ đông sáng lập hay số cổ phần họ
nắm giữ sau thời hạn 3 năm kể từ ngày công ty được cấp GCNĐKKD), DN phải
nộp hồ sơ điều chỉnh GCNĐKKD hay Giấy chứng nhận đầu tư lên cơ quan đăng
ký kinh doanh. Khoản 2, Điều 41, Nghị định 43/2010 quy định cho trường hợp
đăng ký thay đổi cổ đông sáng lập trong vòng 3 năm sau khi đăng ký DN. Nhưng
không hiểu sao điều này lại được rất nhiều cơ quan đăng ký kinh doanh đem ra áp

dụng tương tự cho các cổ đông sáng lập đã hết thời gian bị hạn chế chuyển
nhượng. Thủ tục này dẫn đến trường hợp khi DN có bất kỳ thay đổi nào đối với cổ
đông sáng lập, trong đó bao gồm cả biến động về chuyển nhượng vốn, trong bất
kỳ thời điểm nào (ngay cả sau 3 năm hạn chế) đều phải được ĐHCĐ chấp thuận.
Điều này rất bất hợp lý.

Chưa hiểu luật?
Với tư cách là người trực tiếp tham gia soạn thảo Luật Doanh nghiệp, TS. Nguyễn
Đình Cung, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương khẳng
định, việc cơ quan đăng ký kinh doanh đòi hỏi DN phải cập nhật danh sách cổ
đông sáng lập vào GCNĐKKD khi các đối tượng này đã hết thời gian hạn chế
chuyển nhượng là hiểu sai luật. Ở đây đang có sự tùy tiện của cơ quan áp dụng
luật, bởi khi Luật Doanh nghiệp không có quy định về vấn đề này, thì không có
bất kỳ lý do nào để đòi hỏi DN phải tuân thủ

×