Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Tổng hợp bài văn mẫu phân tích theo đoạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 82 trang )

TÂY TIẾN – Quang Dũng
Đề 1:
Trong bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng có đoạn:
Sơng Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Anh/chị hãy cảm nhận bức tranh thiên nhiên Tây Bắc và hình ảnh người lính qua đoạn thơ
trên. Từ đó nhận xét về bút pháp tài hoa lãng mạn của nhà thơ.
BÀI LÀM
Nói về Quang Dũng là nói về một người chiến sĩ mang tâm hồn nghệ sĩ. Bạn bè đồng chí
thường trầm trồ thán phục trước tài năng nhiều mặt của ông. Không chỉ hát hay, đàn giỏi mà ông
còn sáng tác nhạc, vẽ tranh và viết kịch. Đặc biệt, trong những giây phút thăng hoa của tâm hồn,
Quang Dũng cũng có những bài thơ để đời như “Tây Tiến”, “Đơi mắt người Sơn Tây”, “Đôi bờ”
và nhiều tác phẩm truyện, kí khác…Chính bởi sự đa tài ấy mà hồn thơ Quang Dũng cũng mang
nét riêng độc đáo. Đó là một tâm hồn thơ bay bổng lãng mạn, phóng túng và tài hoa. Đọc thơ của
Quang Dũng , ta như vừa nghe giai điệu ngân vang của một nhạc phẩm, vừa tưởng thấy sắc màu
và đường nét của một bức họa. Lại vừa cảm cái chân tình, sâu sắc của đời lính. Tất cả quyện hịa
nhuần nhuyễn mà tự nhiên, sinh động mà sâu lắng. Đặc biệt, ở những bài thơ viết về người lính
của ơng. Tây Tiến là bài thơ nổi tiếng nhất của ông, cũng là một trong những sáng tác hay nhất
viết về người lính thời chống Pháp của văn học dân tộc. Chúng ta cùng tìm hiểu đoạn đầu bài
thơ: Nỗi nhớ về những chặng đường hành quân qua miền Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở, gian nan
vất nhưng không kém phần thơ mộng mà ấm áp tình người.
Sơng Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Mai Châu mùa em thơm nếp xơi.
Với cảm xúc nhớ nhung, hồi niệm chân thành mà sâu sắc,những hình ảnh thơ gợi về từ
miền kí ức khơng xa với đồn binh Tây Tiến, một đơn vị quân đội chống Pháp ở biên giới Việt
Lào, nơi ơng từng gắn bó gần hai năm vào sinh ra tử, và với tâm hồn lãng mạn hào hoa, Quang
Dũng đã viết nên bài thơ “ Nhớ Tây Tiến” , Sau đổi thành “Tây Tiến”. Bài thơ in trong tập thơ
“Mây đầu ơ”.
Cả bài thơ gồm có 4 đoạn thơ, mạch cảm xúc là nỗi nhớ của nhà thơ về “Tây Tiến” từ


những chặng đường hành quân gian khổ đến những lúc dừng chân nghỉ ngơi và cả khi đau đớn
tột cùng trước những hi sinh mất mát của đồng đội mình, và kết lại bài thơ là lời thề gắn bó với
mảnh đất thiêng liêng Tây Bắc.
Bài thơ được viết năm 1948 khi Quang Dũng đã rời xa đoàn quân Tây Tiến, một đơn vị
quân đội chiến đấu chống Pháp ở biên giới Việt Lào, nơi mà ông đã gắn bó hai năm trên cương
vị đại đội trưởng. Mới chỉ rời đơn vị không lâu, ngồi tại Phù Lưu Chanh, nỗi nhớ về Tây Tiến,
về mảnh đất và con người nơi ấy đã thôi thúc nhà thơ cầm bút viết lên những vần thơ đầy xúc
động.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!


Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Dòng hồi tưởng đưa Quang Dũng trở về với những kí ức xa xưa: về những cung đường chiến
đấu, về đồng đội của mình… Mỗi kí ức là một mảng ghép tạo thành bức tranh đa sắc màu về
miền nhớ “Tây Tiến” thân thương. Khởi đầu của nỗi nhớ là hình ảnh sơng Mã hiện ra vừa thơ
mộng, trữ tình nhưng cũng vừa ẩn chứa nét hoang sơ, dữ dội, một dịng sơng gắn liền với chặng
đường hành quân của người lính, trở thành chứng nhân lịch sử, thành kỉ niệm trường tồn của
những ngày tháng chiến đấu và hi sinh. Nhớ về sông Mã là nhớ về đoàn quân Tây Tiến, hai tiếng
thân thương ấy vang lên đầy tha thiết trong dòng cảm xúc nhớ nhung đầy tiếc nuối! Các từ “rồi”,
“ơi” đặt cuối mỗi cái tên được xướng lên nghe như da diết ngân vang, xúc động lòng người.
Nhớ về Tây Tiến là nhớ về núi rừng hoang sơ, địa bàn hoạt động của đoàn binh. Nhà thơ
điệp lại hai lần từ “nhớ” trong một câu thơ như tô đậm cảm xúc bao trùm toàn bài thơ. Và đặc
biệt, Quang dũng đã diễn tả thật chính xác cảm giác nhớ nhung trong lịng mình. Khơng phải là
cái nhớ đến cồn cào da diết trong tình u, cũng khơng phải là cái nhớ thương khắc khoải của
người vợ ngóng chồng nơi biên ải, cũng chẳng phải cái nhớ bồn chồn, bâng khuâng trong tình
qn dân son sắt. dó là nỗi nhớ chơi vơi. Một nỗi nhớ dàn trải miên man, lan tỏa qua khơng gian,
thời gian, làm chênh chao lịng người và ám ảnh tâm trí. Dường như khơng gian mênh mơng q,
lịng người trống trải q mà nỗi nhớ tan hịa khó chế ngự đến vậy. Theo dịng kí ức cịn tươi
màu thời gian ấy, những cái tên gắn liền với chặng đường hành quân của những chiến binh tây
Tiến hiện ra: Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Lng …Đó từng là những địa danh xa

lạ, đầy bí hiểm của chốn rừng thiêng nước độc đối với những chành trai Hà thành giờ đã trở thành
một phần kỉ niệm không thể nào quên:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Con đường hành quân hiện lên với đầy thử thách, hiểm nguy. Đó là kỉ niệm về những
ngày hành quân xuyên qua sương mù giăng kín lối, những đêm ngang qua bản Mường Lát hoang
sơ, huyền ảo “hoa về trong đêm hơi”. Và dấu chân người lính đã in trên cả những sườn đèo dốc
núi nhiều hiểm nguy mà không kém phần thơ mộng:
Dốc lê khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Câu thơ được tạo bởi những từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” rồi các từ ngữ đối lập
“ngàn thước lên cao” và “ ngàn thước xuống ” như những nét vẽ đầy gân guốc tái hiện chân thực
sự hiểm trở của địa hình Tây Bắc. Càng thấu hiểu những gian khổ hiểm nguy trên đường hành
quân ta càng thấy cảm phục ý chí kiên cường của những chàng lính trẻ Hà Thành, họ ln dũng
cảm vượt núi băng rừng với “bước chân nát đá” tiến lên phía trước tiêu diệt quân thù.
Không chỉ cứng cỏi bản lĩnh mà giữa không gian thơ mộng của núi rừng với “heo hút cồn
mây”, mưa“mưa xa khơi”, những chàng trai hào hoa ấy ln mở lịng đón nhận và say mê thưởng
ngoạn. Vượt qua được trăm suối nghìn đèo là phút giây tân hưởng cảm giác được chế ngự thên
nhiên, đứng trên đỉnh cao và thả hồn bay bổng cùng trời mây. “Súng ngửi trời” – mũi súng chạm
đến mây xanh, một hình ảnh thơ thật độc đáo, vừa gợi được thế đứng trên cao của người lính,
như chiếm lĩnh khơng gian, vừa gợi đến cách nhìn hóm hỉnh, lạc quan của tâm hồn người lính.


Như hình ảnh “đầu súng trăng treo” đầy ấn tượng trong thơ Chính Hữu. Tâm hồn người lính cụ
Hồ là như thế, coi thường mọi gian nguy, và luôn lãng mạn yêu đời.
Trong hai cặp câu thơ trên, tác giả đã sử dụng nghệ thuật hài thanh thật điêu luyện. Những
câu thơ nhiều thanh trắc diễn tả cái hiểm trở của địa hình được đan xen khéo léo đầy ý nghĩa với
những câu thơ có nhiều thanh bằng, miêu tả không gian lãng mạn, huyền ảo của núi rừng Tây

Bắc. Người đọc như đang cảm thấy rõ lắm cái vị mặn của mồ hôi, của nước mắt, của máu đã
thấm trên từng dãy đá tai bèo sắc nhọn, trên từng đèo dốc treo leo. Người đọc cũng như đang
cảm thấy rõ lắm tiếng thở phào nhẹ nhõm, thảnh thơi hòa vào gió ngàn heo hút, hình dung rõ lắm
ánh mắt ngỡ ngàng thích thú của những chiến sĩ khi chạm tới mây trời và ngắm “nhà ai” ẩn hiện
trong làn mưa xa khơi. Thật sinh động vô cùng.
Trong lá thư của Đại Tướng Võ Ngyên Giáp gửi các chiến sĩ Tây Tiến trước khi lên đường
có đoạn: “Trên con đường về miền Tây, các đồng chí sẽ phải lặn lội nơi rừng xanh suối bạc, ở
những địa phương hàng nửa ngày đường không thấy một người… Chỉ một việc cất chân lên
đường tiến về hướng Tây là đủ tỏ cái chí hy sinh, cái lịng kiên nghị của các đồng chí. Các đồng
chí biết rằng trên mặt trận này phải đương đầu với nhiều hiểm nghèo, khổ sở. Nhưng sự hiểm
nghèo, khổ sở có bao giờ chinh phục được lịng anh dũng của những thanh niên hăng hái, có bao
giờ chinh phục được chí hướng của một dân tộc...". Quang Dũng cũng đã diễn tả những hiểm
nguy, gian khổ bằng những câu thơ đầy ám ảnh:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Chốn thâm sơn cùng cốc ấy, “Chiều chiều...” rồi “đêm đêm” ln có những âm thanh ghê rợn,
đó là tiếng thác gầm thét, tiếng bước chân, tiếng gầm của những con thú khát máu. Chỉ mới nghĩ
đến thơi đã đủ khiến lịng người hoang mang, sợ hãi.
Những khó khăn, hiểm nguy bủa vây, dọa dẫm, trêu ngươi suốt ngày đêm. Vậy mà, lính
Tây Tiến vẫn kiên cường đối mặt để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Dẫu còn nhiều hi sinh mất
mát.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời...
Câu thơ gợi lên cái mệt mỏi của những bước chân hành quân bởi âm điệu kéo dài của các từ “dãi
dầu”, “nữa”. Đó là hiện thực đau đớn của chiến trường miền Tây. Chiến đấu trong môi trường tự
nhiên khắc nghiệt, thiếu thốn đủ bề, thậm chí có những lúc phải nhịn đói cả ngày dài thì sự hi
sinh là khơng tránh khỏi. Nhưng, cách Quang Dũng nói về cái chết của đồng đội mình “gục lên
súng mũ bỏ quên đời” khiến ta ngỡ như đó chỉ là một phút nghỉ ngơi lấy lại sức thôi, vẫn trong
hàng ngũ, vẫn súng mũ bên mình. Đọc đến câu thơ này, nhiều cựu chiến binh Tây Tiến đã khơng
thể cầm lịng, bởi thực tế, có những đồng đội hi sinh khơng thể chơn cất bởi địa bàn xung quanh

tồn núi đá tai bèo. Mỗi chiến sĩ đi qua chỗ đồng đội nằm lại chỉ kịp đặt xuống một viên đá để
che thân cho bạn. Họ bị ám ảnh bởi những cái chết lặng thầm đơn độc. vì họ hiểu hơn ai hết về
sự hi sinh của đồng đội mình. Cái chết đến nhẹ nhàng, thầm lặng mà sao nghe nhói lịng!


Với bao nhiêu kí ức hiện về, Cảm xúc thơ Quang Dũng lại một lần nữa tuôn trào thành tiếng
gọi “Tây Tiến” thiết tha, trìu mến:
Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xơi.
Đối lập với thiên nhiên khắc nghiệt hiểm trở là một không gian yên bình ấm áp của những bản
làng đọng lại trong nỗi nhớ của nhà thơ. Đó là cơm lên khói, là “thơm nếp xôi” tỏa lan khắp
không gian, hương vị của sự đủ đầy, ấm no trong mái ấm gia đình, nó như an ủi, động viên, như
tiếp thêm sức mạnh cho những người lính trẻ xa nhà. Hương vị của Tây Bắc cũng là sự thơm
thảo của lòng người nơi ấy, nó hiện về trong nỗi nhớ của bất kì ai đã từng lên với Tây Bắc: Đất
Tây Bắc tháng ngày khơng có lịch /Bữa xơi đầu cịn tỏa nhớ mùi hương. (Chế Lan Viên)
Câu thơ cuối có kết hợp từ thật lạ. “Mùa em” Phải chăng đó khơng chỉ là mùa của xôi nếp
mới, mùa của sự đủ đầy vật chất, mà đó cịn là mùa của u thương, lãng mạn, mùa của sự sẻ
chia tình nghĩa. Có thể, “Mùa em” đã trở thành một mùa đặc biệt được mong đợi nhất đối với
những chàng lính hào hoa, nhiều mơ mộng ấy. Bằng nỗi nhớ và tình yêu chân thành mà sâu sắc
với Tây Bắc, Quang Dũng đã thi vị hóa những kỉ niệm, khiến chúng trở nên đẹp đẽ lung linh lạ
thường!
Đọc thơ Quang Dũng, ngay những dịng đầu, độc giả đã thấy tốt lên phong vị của cái tài
hoa lãng mạn. Thiên nhiên Tây Bắc hiểm trở, khoang sơ đến rùng mình nhưng qua ngịi bút của
chàng trai có tâm hồn lãng mạn, nhiều mộng mơ bỗng trở nên lung linh huyền ảo. Núi rừng Tây
Bắc được khắc họa bởi những nét vẽ vừa gân guốc cứng cỏi, vừa mềm mại uyển chuyển của nhà
thơ tạo nên nét riêng thật độc đáo. Không phải chỉ bởi Quang Dũng vốn đa tài, có năng khiếu hội
họa, âm nhạc mà còn bởi tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu mảnh đất hùng thiêng của một con người
đã từng gắn bó máu thịt với nơi ấy đã quyện hịa làm nên phong cách tài hoa lãng mạn ấy.
Tóm lại, qua mười bốn câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến, tác giả đã phác họa thành cơng bức
tranh thiên nhiên hồnh tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan, đang

dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh...”. Đoạn thơ để
lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là ở sự kết hợp hài hòa giữa khuynh
hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Gần một thế kỉ đã trôi qua mà bài thơ vẫn giữ được giá trị
trường tồn trong lòng độc giả nhiều thế hệ.


Đề 2:
Trong bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng có đoạn:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
...
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa"
(Trích: Tây Tiến – Quang Dũng)
Anh/chị hãy cảm nhận đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về nét riêng trong phong cách sáng tác
của nhà thơ.
BÀI LÀM
Quang Dũng là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống MĨ,
ông là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc nhưng thành công nhất là thơ.
Với tâm hồn lãng mạn, tài hoa của một nhà thơ “xứ Đoài mây trắng”, Quang Dũng đã sáng tác
những bài thơ giàu chất nhạc, chất họa, như: “Tây Tiến”, “Đôi mắt người Sơn Tây”, “Đơi bờ”,
Mây đầu ơ, Qn bên đường…Trong đó tiêu biểu nhất là bài thơ “Tây Tiến”. Tác phẩm hấp dẫn
người đọc không chỉ ở cảm xúc thơ chân thực sâu lắng của tình đồng chí đồng đội, mà nó cịn
gợi về trong tâm trí độc giả hình ảnh một miền đất xa xôi, hoang dại nhưng thơ mộng vô cùng,
nơi ấy lưu dấu những kỉ niệm không thể nào quên của một đoàn quân đã trở thành huyền thoại:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
…..
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa"
Cất chân ra đi từ mảnh đất Hà Thành, nơi phố thị phồn hoa, những chàng trai vừa đủ tuổi
trưởng thành vốn chỉ quen với đèn sách bút nghiên, đã vượt cả trăm cây số lên bảo vệ biên giới
miền Tây Bắc của Tổ quốc. Những chặng đường hành quân qua vực sâu núi thẳm, băng qua mưa



bom bão đạn kẻ thù, và cả khi đối diện với thiếu thốn, với bệnh tật… tất cả đều đó khơng làm
vơi đi ý chí, nghị lực phi thường của những chiến binh vệ trọc . Các anh vẫn giữ được tâm hồn
lạc quan u đời, vẫn ln mở lịng đón nhận những rung động đẹp đẽ từ những khoảnh khắc
đầm ấm vui tươi trong những đêm hội dã chiến, hay cảnh sơng nước n bình, lãng mạn ở chốn
thâm sơn cùng cốc ấy.
Không nhớ sao được những phút giây sôi nổi cùng nhau trong đêm liên hoan ngập tràn
ánh đuốc:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Câu thơ như làm bừng sáng cả không gian, xua đi cái u uất, tịch mịch của núi rừng, xóa
tan cái mệt mỏi dãi dầu trong mỗi bước hành quân của người lính. Động từ “bừng” trong câu thơ
đầu đoạn không chỉ diễn tả sự vận động nhanh, rộng khắp và đầy bất ngờ của ánh sáng, mà còn
gợi được cái háo hức của lòng người, gợi những ánh mắt lấp lánh niềm vui với nụ cười rạng rỡ.
Đêm hội liên hoan được tổ chức, khơng phải tiệc rượu tưng bừng, khơng có đèn xanh pháo đỏ
nhưng cũng đủ làm lòng người náo nhiệt bởi ánh sáng của đuốc, sắc màu rực rỡ của những bông
hoa vừa được chọn hái giữa rừng. Chỉ một nét phác họa mà gợi cả hình, cả tiếng, cả cái rộn ràng
háo hức của lòng người, đủ cho thấy chất tài hoa nghệ sĩ của Quang Dũng!
Trong khơng khí vui tươi ấy, ta mường tượng như đang được chứng kiến từ giây phút đầu
tiên khi ánh đèn sân khấu bừng lên, những diễn viên bất ngờ xuất hiện với xiêm y lộng lẫy:
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Các cô gái Tây Bắc với trang phục biểu diễn rực rỡ như những bông hoa tươi tắn của núi
rừng bước ra sân khấu mang đến hương sắc ngọt ngào, say đắm lan tỏa khắp nơi khiến những
chàng lính trẻ Hà Thành khơi khỏi ngỡ ngàng, háo hức “Kìa em”.
Những chàng lính đi từ ngỡ ngàng này đến ngạc nhiên khác, họ bị cuốn hút bởi giai điệu
man dại của tiếng khèn vang xa trầm hùng như tiếng của gió ngàn, của suối reo, của chim kêu,
vượn hót.
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Khèn là nhạc cụ dân tộc ở núi rừng Tây Bắc, thường người Tây Bắc sẽ sử dụng loại nhạc
cụ này trong các dịp lễ hội, đó là tiết mục văn nghệ đặc sắc mang nét riêng trong đời sống tinh

thần của người dân Tây Bắc.
"Vang vọng núi rừng tíếng khèn gọi bạn
Điệu múa khèn nghiêng ngả tán ô đen."
Cùng với sự khỏe khoắn, dũng mãnh của những chàng trai trong điệu múa khèn là hình
ảnh những cơ gái yểu điệu dịu dàng, e ấp dun dáng trong điệu múa xịe ơ khiến người xem
ngây ngất, đắm say. Khơng khí đó đã xua tan mọi muộn phiền, mỏi mệt của đoàn quân Tây Tiến,
như tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho họ để tiếp tục chặng đường đầy khó khăn phía trước. Phải
chăng, bởi vậy mà câu thơ cuối khổ đọc lên nhẹ nhàng bay bổng làm sao: “Nhạc về Viên Chăn
xây hồn thơ”. Dường như tâm hồn chiến sĩ như đã cất cánh - thăng hoa.


Nhớ về những phút giây n bình lãng mạn khơng thể khơng nhớ đến cảnh sơng nước hữu
tình vùng Tây Bắc xa xơi.
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ "
Hình ảnh buổi chiều sương lãng mạn, nhẹ nhàng, thơ mộng khác với sự hùng vĩ dữ dội ở
khúc thượng nguồn sông Mã. Một thế giới khác của thiên nhiên Tây Bắc được mở ra, khơng cịn
cái gân guốc, hiểm trở của sườn đèo dốc đá mà cảnh vật trở nên thơ mộng trữ tình biết mấy. Cả
không gian núi rừng Châu Mộc được bao phủ bởi làn sương mỏng manh lãng đãng, khiến cảnh
sắc thêm lung linh huyền ảo, vừa như thực vừa như mơ, gợi nỗi buồn man mác, nỗi lưu luyến
của người ra đi. Xuân Diệu cũng đã từng bị cái không gian sương khói ấy làm cho thẩn thơ:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời – Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”.
Trong buổi chiều sương trên vùng sông nước Mộc Châu tâm hồn người chiến sĩ cịn nặng
tình vương vấn với “hồn lau nẻo bến bờ”. Vạn vật như hữu linh, lịng người sao nỡ vơ tình!
Hai câu thơ cuối là nỗi nhớ về hình bóng con người hịa quyện cùng thiên nhiên thơ mộng:
"Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa"
Bóng dáng người trên độc mộc với dáng vẻ vững trãi mà duyên dáng,thướt tha hài hịa trong vẻ
đẹp của sơng nước mênh mơng. Trên dịng sơng ấy, những cánh hoa khơng bị dập vùi mà nương
theo dòng nước lũ, đong đưa như làm duyên làm dáng, bồng bềnh

Điệp ngữ "có nhớ- có thấy" làm tăng thêm xúc cảm, nỗi nhớ da diết, nồng nàn của tác giả
dành cho nơi đây. Hình ảnh đối lập giữa dòng nước lũ và hoa đong đưa, dòng lũ cuộn trào mạnh
mẽ với cành hoa nhẹ nhàng lung lay, hai hình ảnh như đối lập hồn tồn nhưng lại hài hịa, nên
thơ.Bút pháp gợi mà khơng tả với những nét vẽ cách điệu đã tạo nên bức tranh đậm đà chất hội
họa hòa với chất thi vị trữ tình lơi cuốn người đọc, đưa ta vào một thế giới hoang sơ, cổ tích.
Khi bàn về nét riêng trong phong cách sáng tác của Quang Dũng qua “Tây Tiến”, Giáo sư
Hà Minh Đức có nhận xét, “Bài thơ được viết ra với những màu sắc thẩm mỹ phong phú. Có cái
đẹp hùng tráng của núi rừng hiểm trở, và vẻ đẹp bình dị nên thơ của cuộc sống nơi bản làng q
hương, có cảm hứng mạnh mẽ hịa hợp với chất trữ tình nhẹ nhàng mềm mại trong thơ. Đặc biệt
Tây Tiến là bài thơ giàu nhạc điệu, nhạc điệu của cuộc sống và của tâm hồn. Mỗi đoạn thơ mang
một nhạc điệu riêng vừa mạnh mẽ, vừa uyển chuyển khi đưa người đọc về với những kỉ niệm xa
nên thơ và gợi cảm”. Và, độc giả dễ dàng nhận thấy một nhạc điệu du dương, tình tứ ngân vang,
trải dài khắp không gian nỗi nhớ từ đêm hội liên hoan đến cảnh sông nước miền Tây thơ mộng
ấy. Nét riêng đầy lãng mạn hào hoa ấy ít thấy trong nhiều bài thơ viết về người lính cùng thời
như Đồng chí (Chính Hữu), “Cá nước” (Tố Hữu)…
Có thể nói, qua tám câu thơ đậm đà chất thơ, chất họa, chất nhạc, người nghệ sĩ tài hoa
Quang Dũng đã khắc họa thật đẹp những kỉ niệm buổi sinh hoạt văn nghệ đầm ấm và cảnh sơng
nước hữu tình khiến lịng người mê đắm. Qua đoạn thơ, ta không chỉ thấy vẻ đẹp tâm hồn lãng
mạn, lạc quan yêu đời của những chàng vệ trọc mà cịn thấy được cái tình trong từng nét vẽ, câu
thơ của Quang Dũng. Quả thực nhà thơ luôn ngưỡng mộ và yêu tha thiết những kỉ niệm gắn bó


cùng đoàn quân Tây Tiến. Độc giả cũng trân trọng hơn những rung cảm đẹp đẽ của hồn thơ
Quang Dũng và yêu thêm mảnh đất và con người Tây Bắc kiên cường.
Đề 3:
“Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
(Trích: Tây Tiến – Quang Dũng)
Anh/chị hãy cảm nhận vẻ đẹp hình tượng người lính trong đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về
sự quyện hịa giữa chất hiện thực và lãng mạn trong thơ Quang Dũng.
BÀI LÀM
Quang Dũng là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ông là một nghệ
sĩ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc nhưng thành công nhất là thơ. Với tâm hồn lãng
mạn, tài hoa của một người con “xứ Đoài mây trắng”, Quang Dũng đã sáng tác những bài thơ
giàu chất nhạc, chất họa, như: “ Mây đầu ô”, “Thơ văn Quang Dũng”… Trong đó tiêu biểu là bài
thơ “Tây Tiến”. Bài thơ khơng là dịng cảm xúc nhớ nhung của Quang Dũng về mảnh đất Tây
Bắc hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội với biết bao kỉ niệm gắn bó. Ấn tượng sâu đậm nhất trong dịng
cảm xúc ấy là hình ảnh những người lính Tây Tiến thật oai phong lẫm liệt, thật sang trọng hào
hoa:
Tây Tiến đoàn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Tây Tiến là tên một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp
với bộ đội Lào, đánh tiêu hao sinh lực địch, bảo vệ biên giới Việt –Lào. Chiến sĩ Tây Tiến phần
đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, những chàng trai hào hoa thanh lịch, lãng mạn yêu
đời. Lên với chiến trường Tây Bắc, họ phải đối mặt với bao khó khăn thử thách, nhưng vẫn ln
ngời sáng một ý chí, một tinh thần chiến đấu dũng cảm kiên cường. Quang Dũng gắn bó cùng
đoàn quân Tây Tiến từ những ngày đầu thành lập trên cương vị Đại đội trưởng, anh yêu thương



và cảm phục sâu sắc những chiến sĩ trẻ đầy quả cảm của đoàn quân. Cuối năm 1948, khi rời đơn
vị cũ chưa lâu, tại Phù Lưu Chanh, vì rất nhớ đoàn quân, Quang Dũng đã viết bài thơ “Nhớ Tây
Tiến, sau đổi tên thành “Tây Tiến” (in trong tập thơ “Mây đầu ô”).
Hai tiếng thân thương “Tây Tiến” được nhắc đến trong bài với thật nhiều cảm xúc, khi thì
đầy nuối tiếc, luyến lưu “Tây Tiến ơi!”, lúc lại da diết cồn cào: “nhớ ôi Tây Tiến”, và cái tên
“Tây Tiến” lúc này được gọi lên đầy kiêu hãnh tự hào:
“ Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
Những vần thơ ngồn ngộn chất hiện thực, nửa thế kỷ sau mà người đọc vẫn cảm thấy trong
khói lửa, trong âm vang của tiếng súng, những gương mặt kiêu hùng của đoàn dũng sĩ Tây Tiến.
“ Đồn binh khơng mọc tóc”, “ Qn xanh màu lá”, tương phản với “ dữ oai hùm”. Cả ba nét vẻ
đều sắc, góc cạnh hình ảnh những “ Vệ túm”, “Vệ trọc” một thời gian khổ đươc nói đến một cách
hồn nhiên. Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu khơng mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà
quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà “ dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt
vía “ Tam qn tì hổ khí thơn Ngưu” là hình ảnh các tráng sĩ “ Sát Thát”, đời Trần. “ Quân xanh
màu lá dữ oai hùm” là chí khí lẫm liệt hiên ngang của anh bộ đội cụ hồ trong chín năm kháng
chiến chống Pháp.
Gian khổ và ác liệt thế, nhưng họ vẫn mộng vẫn mơ.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Lí tưởng sống của những chàng lính thật đẹp. Họ ln biết dung hòa giưa mộng và mơ.
Mộng giết giặc, đánh tan lũ xâm lăng để giữ bình n cho xóm làng. Tâm thế luôn sẵn sàng chiến
đấu và lập công, “ mắt trừng” . Còn mỗi đêm khuya, lại đắm mình trong những ước mơ thật đẹp
:“Hà Nội dáng kiều thơm”. Ba chữ “ dáng kiều thơm” đã diễn tả thật “ đắt” cái phong độ hào
hoa, đa tình của những chiến binh Tây Tiến, những chàng trai của đất nghìn năm văn hiến, giữa
khói lửa chiến trường vẫn mơ, vẫn nhớ về một mái trường xưa, một góc phố cũ, một tà áo trắng,
một “dáng kiều thơm”. Ngòi bút của Quang Dũng biến hố, lúc bình dị mộc mạc, lúc lại mộng
ảo nên thơ, và đó chính là vẻ đẹp vừa hào hùng vừa hào hoa của một hồn thơ chiến sĩ.
Bốn câu thơ tiếp theo ở cuối phần 3, một lần nữa nhà thơ nói về sự hy sinh tráng liệt của

những anh hùng vơ danh trong đồn quân Tây Tiến.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Có biết bao chiến sĩ đã ngã xuống nơi góc rừng, bên bờ dốc vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Đó là
những cái chết lặng thầm, đơn độc và lạnh lẽo vô cùng. Bởi đồng đội vẫn tiếp tục hành quân, còn
các anh nằm lại nơi biên cương, miền viễn xứ - đất khách quê người. Cả câu thơ sử dụng nhiều
từ Hán Việt khiến giọng điệu thơ trang trọng cổ kính, khiến những nấm mồ hoang dại, đơn độc
trở nên thiêng liêng, nhưng cũng khơng tránh khỏi nỗi xót xa, thương cảm trong lòng người đọc.


Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Hình ảnh “áo bào” xuất hiện trong câu thơ khiến cái chết của các anh trở nên oai hùng, bi
tráng lạ thường, tưởng như đó là phút sa cơ của người dũng tướng của một thời hào khí Đơng A.
Nhưng sự thật đau lịng là khi nằm xuống, tấm quần manh áo cịn khơng lành lặn huống chi là áo
bào. Quấn thân các anh có thể chỉ là tấm vải dù che mưa che gió. Các anh đã “về đất” một cách
thanh thản, bình dị; yên nghỉ trong lịng Mẹ, giấc ngủ nghìn thu. Sự ra đi thật nhẹ nhàng mà lịng
người ở lại trĩu nặng nỗi xót xa.
Cả đồn qn lặng đi, chỉ cịn nghe thác sơng Mã thay tiếng của hồn thiêng sông núi, tiếng
của đồng bào, của Tổ quốc “gầm lên” như một loạt đại bác nổ xé trời, vừa đau đớn vừa uất nghẹn
căm hờn. “Khúc độc hành” vừa là khúc hát tiễn đưa hồn tử sĩ, vừa là khúc hát lên đường đầy
thiêng liêng, bi tráng .
Có người cho rằng, Quang Dũng là một trong những nhà thơ đầu tiên của nền thơ ca kháng
chiến nói rất cảm động về sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ vô danh. Quả thực vậy, nếu
Chính Hữu, qua bài “Đồng Chí” đã nói rất hay về người nơng dân mặc áo lính, thì Quang Dũng,
với bài thơ “Tây Tiến” đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ uy nghiêm và đầy bi tráng về những
chàng trai Hà Nội “mang gươm đi mở cõi” dũng cảm, can trường, trong gian khổ chiến đấu hy
sinh vẫn lạc quan yêu đời. Đó là vẻ đẹp riêng độc đáo làm nên huyền thoại về một đồn binh
khơng mọc tóc thủa nào! Trong thơ Quang Dũng, hiện thực khốc liệt của chiến tranh được nói
đến thẳng thắn, khơng hề né tránh, nhưng cách mà nhà thơ nhìn nhận và biểu đạt trong từng câu

thơ dù có đau thương chết chóc nhưng khơng khiến người đọc cảm thấy bi quan, buồn chán, mà
trái lại, hiện thực chỉ càng thổi bùng lên ý thức đấu tranh địi sự sống, cùng tình yêu và sự tôn
vinh đẹp đẽ hào hùng. Bởi vậy mà hình tượng tập thể anh hùng Tây Tiến hiện lên trong trang thơ
của Quang Dũng mang vẻ đẹp hào hùng, bi tráng, khơi gợi cảm xúc ngưỡng mộ, tự hào nhiều
hơn là cảm xúc xót đau, thương cảm.
Nhìn chung, đoạn thơ trên đã thể hiện thật rõ nét cốt cách và bút pháp lãng mạn, hồn thơ
tài hoa của Quang Dũng. Nếu “thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” thì
đoạn thơ đã cho ta cảm nhận về ấn tượng ấy. “Tây Tiến” đã mang vẻ đẹp độc đáo của một bài
thơ viết về người lính – anh bộ đội cụ Hồ những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ hội
tụ mọi vẻ đẹp và bản sắc của thơ ca kháng chiến ca ngợi chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh
hùng cách mạng Việt Nam.

VIỆT BẮC – Tố Hữu


Đề 4:
- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ khơng?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn.
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay...
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về chất trữ tình – chính trị trong ngịi bút
thơ Tố Hữu.
BÀI LÀM
Tố Hữu là nhà thơ lớn, là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Các
tác phẩm của ông luôn in đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, mang tính trữ tình

chính trị và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. “Việt Bắc” là một trong những sáng tác hay nhất
của đời thơ Tố Hữu, là đỉnh cao của thơ kháng chiến chống Pháp. Đó được xem như một bản
tổng kết bằng thơ cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ mà anh dũng kiên cường. Cả bài thơ cũng
là dòng chảy cảm xúc dạt dào, tha thiết về nỗi nhớ Việt Bắc. Tiêu biểu trong bài thơ là những
dịng kí ức về giờ phút chia tay đầy bịn rịn lưu luyến của kẻ ở người đi:
- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ khơng?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn.
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay...
Tố Hữu viết Việt Bắc nhân một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Sau chiến dịch Điện
Biên Phủ thắng lợi, tên giặc Pháp cuối cùng rời khỏi quê hương, cơ quan trung ương chính phủ
rời chiến khu Việt Bắc về tiếp quản thủ đô sau mười lăm năm gắn bó. Trong giờ phút chia tay
đầy lưu luyến bịn rị, Tố Hữu đã viết bài thơ này. Mạch thơ tn trào theo dịng hồi tưởng của
nhà thơ về những năm tháng gắn bó với mảnh đất và con người Việt Bắc mà khởi nguồn là giây
phút chia li thật xúc động nghẹn ngào.
Chúng ta đã từng có những áng văn chương lớn nói về những cuộc chia ly làm não lòng
nhiều thế hệ người đọc Việt Nam. Đó là giọt nước mắt chia li của người chinh phụ tiễn chồng ra
biên ải (Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Cơn); đó là phút tử biệt “một giã gia đình một rửng rưng”


của người chiến sĩ bước vào khói lửa đạn bom (Tống biệt hành – Thâm tâm); hay đó là cuộc chia
li “chói ngời sắc đỏ” của người vợ xa chồng trong khánh chiến chống Mĩ...Thế nhưng, có một
cuộc chia li không thấm đẫm nước mắt, không nhuốm màu tử biệt đã đi vào lịch sử, đánh dấu
một bước ngoặt quan trọng của dân tộc. Không phải là cuộc chia li chồng vợ hay của đơi trai gái
chung tình, mà buổi tiễn chân bộ đội miền xuôi về với thủ đô vẫn nghe sao thật tình tứ, mặn
nồng.

- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Ngay từ câu thơ đầu tiên, người ở lại đã cất lên tiếng lịng đầy băn khoăn trăn trở về tình cảm
của người ra đi. Thật dễ hiểu, bởi trong mỗi cuộc chia li thì người ở lại ln có tâm trạng nặng
nề hơn, vừa phải đối diện với một không gian trống trải, thiếu vắng bóng người, vừa luyến tiếc
những năm tháng gắn bó, liệu người đi rồi có cịn nhớ ta chăng?
Câu hỏi tu từ mang âm hưởng ca dao “mình về có nhớ ta chăng? – Ta về ta nhớ hàm răng
mình cười”, với lối xưng hơ “mình – ta” ngọt ngào, đằm thắm như đôi trai gái yêu nhau đã khơi
gợi tình cảm gần gũi, tha thiết nhớ thương của người về xuôi: Người về chốn thị thành phồn
hoa, có cịn nhớ đến ta?
Vừa khơi gợi cảm xúc, câu hỏi tu từ vừa như nhắc nhớ về khoảng thời gian gắn bó mười lăm
năm, kể từ những ngày đầu mới xây dựng căn cứ địa Việt Bắc. Chỉ nhắc đến khoảng thời gian
đằng đẵng ấy thôi cũng đủ khơi dậy biết bao kỉ niệm về những gian khổ, thiếu thốn “ta” và
“mình” đã trải qua. Nó “ thiết tha, mặn nồng” bền chặt, keo sơn và luôn in dấu trong lịng người
ở lại.
Kỉ niệm khơng chỉ được nhắc nhớ qua thời gian “mười lăm năm” mà còn được nhắc nhớ
qua không gian núi rừng Việt Bắc qua cấu trúc câu hỏi được lặp lại:
Mình về mình có nhớ khơng?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn.
Câu thơ vẽ lên không gian đặc trưng của núi rừng Việt Bắc, khơng gian đã từng gắn bó một thời
gian khổ hào hùng của người đi kẻ ở, giờ đây đã trở thành không gian của nỗi nhớ. Nhà thơ đã
sử dụng hai điệp từ lặp đi lặp lại ở hai vế “nhìn – nhớ” để nhấn mạnh và khắc sâu những diễn
biến sẽ có trong tâm trí người ra đi. Núi rừng, sông suối nơi Việt bắc sẽ trở thành một phần kí ức
của bộ đội miền xi, để khi về lại thủ đơ, mỗi lần nhìn “cây” nhìn “sơng” ở nơi ấy sẽ gợi nhắc
về không gian “núi”, “nguồn” chốn thượng ngàn. Câu thơ bộc lộ sự thấu hiểu tâm trạng người đi
và ngâmd ẩn một lời nhắc nhớ ngườ đi gìn giữ tấm chân tình: đừng vì hồn cảnh sống thay đổi
mà quên những ngày tháng đồng cam cộng khổ ở Việt Bắc thân thương.
Qua hai cặp câu hỏi tu từ giãi bày nỗi lòng nhớ nhung, trăn trở của người ở lại, ta khơng
chỉ thấy được tình cảm đậm đà sâu sắc của đồng bào Việt Bắc dành cho cán bộ miền xi, mà
cịn thấy được sự trân trọng, nâng niu những kỉ niệm buồn vui suốt mười lăm năm gắn bó của

họ.
Để đáp lại những băn khoăn trăn trở của người ở lại, người ra đi đã khẳng định tình cảm
của mình bằng những câu thơ đầy xúc động:


- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay...
Nếu như Việt Bắc băn khoăn “mình về mình có nhớ…” thì đây chính là lời khẳng định chắc chắn
về nỗi nhớ, về tình cảm của người đi dành cho Việt Bắc trong sự đồng điệu tâm hồn. Người đi
khơng chỉ nhớ mà cịn khắc ghi sâu đậm trong tâm khảm “tiếng” và “hình” của người ở lại. Đại
từ phiếm chỉ “ai” khiến đối tượng của nỗi nhớ trở nên bao quát hơn và thi vị hơn, bởi nó khiến
câu thơ mang dáng dấp những câu dân ca ngọt ngào, tình tứ: “ Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ/ Nhớ ai,
ai nhớ, bây giờ nhớ ai”. Bởi đã gắn bó rất lâu nên tiếng nói của người Việt Bắc đã trở thành đối
tượng sâu đậm đầu tiên của nỗi nhớ. Thứ thanh âm “tha thiết” quen thuộc mang đặc trưng của
vùng miền đã gieo vào lòng người đi nỗi “bâng khuâng” vừa buồn vui, vừa luyến nhớ, khiến
bước chân trở nên “bồn chồn”, bởi lòng ngổn ngang nỗi nhớ, chùng chình nửa ở nửa đi! Trong
hai câu thơ lục bát, tác giả sử dụng đến ba từ láy “tha thiết”, bâng khuâng”, “bồn chồn” để diễn
tả trạng thái cảm xúc đang trào dân và luôn thường trực của người ra đi. Lời đáp phải chăng đã
giải đáp thỏa đáng nỗi niềm băn khoăn của đồng bào Việt Bắc?
Tiếp theo trong lời đáp ấy, nhịp thơ thay đổi, khiến câu thơ như bẻ đôi, chia li, cách biệt:
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay...
Từ nhớ tiếng sang nhớ hình. Một nét ấn tượng nữa trong tâm trí người đi đó lại là hình ảnh của
chiếc áo chàm quen thuộc, đặc trưng cho lối ăn mặc của người Việt Bắc. Mượn hình ảnh hốn
dụ “áo chàm” để chỉ người dân Việt Bắc, người ra đi đã bộc lộ một nỗi niềm thương nhớ và yêu
mến cái chất phác, giản dị toát ra từ cái sắc trầm bền bỉ, sắc son ấy. Cùng với hình ảnh đồng bào
Việt Bắc, hành động “cầm tay” cũng để lại ấn tượng thật sâu sắc. cái nắm tay thật giản đơn, mộc
mạc thôi mà chất chứa bao ân tình, hơn ngàn vạn lời nói. Qua cái nắm tay, người đi cảm nhận

được hơi ấm, niềm tin yêu, cảm nhận được tâm tư, tình cảm của người ra đi. Cách ngắt nhịp 3/3/2
của câu thơvà dấu chấm lửng cuối dòng đã tạo nên những khoảng lặng trong cảm xúc người ở kẻ
đi. Đó là những giây phút nghẹn ngào khơng nói nên lời, chỉ biết nắm tay nhau thật chặt để níu
lại những thương yêu. Thật xúc động biết bao!
Bốn câu thơ đáp lời người ở lại của cán bộ miền xi bằng tình cảm chân thành và sâu
nặng đã thực sự làm yên lòng người ở lại. Dù không dùng đến một từ “nhớ”, nhưng nỗi nhớ tràn
ngập bốn dòng thơ và xâm lấn trong tâm hồn, trong chiều sâu cảm xúc của người ra đi. Tình cảm
ấy cũng thủy chung son sắt, đậm đà tha thiết lắm thay!
Nhiều nhà nghiên cứu nhận định rằng thơ Tố Hữu là thơ của thứ tình cảm lớn, niềm vui
lớn, cảm xúc thơ luôn gắn liền với những sự kiện chính trị quan trọng có ý nghĩa cộng đồng.
Nhưng phải nhận thấy một điều rằng, dù là đề cập đến nội dung chính trị nhưng rất gần gũi, giàu
cảm xúc mà không hề khô khan giáo điều. Đoạn thơ nói tái hiện khung cảnh chia tay trong thời
khắc lịc sử quan trọng của đất nước giữa đồng bào Việt Bắc và bộ đội miền xuôi mà nghe như


cuộc chia tay đầy lưu luyến bịn rịn của đôi trai gái yêu nhau vậy. Thật lãng mạn và thắm thiết
tình người.
Qua tám câu thơ đầu, bằng việc sử dụng cấu trúc đối đáp giao duyên “ta”- “mình”, kết
hợp với việc sử dụng những ngơn từ hình ảnh giàu sức gợi hình, gợi cảm mà mộc mạc chân
thành, nhà thơ đã làm nổi bật khung cảnh chia tay đầy lưu luyến giữa bộ đội miền xuôi và Việt
Bắc. Đoạn thơ cũng góp phần ngợi ca vẻ đẹp trong tâm hồn con người Việt Bắc, ngợi ca tình
nghĩa cách mạng thủy chung gắn bó. Bằng việc sử dụng khéo léo, tài tình ngơn ngữ dân tộc, Tố
Hữu đã trữ tình hóa mối quan hệ chính trị, khiến tình qn dân trở nên thi vị và đầy ấn tượng.
Đoạn thơ góp phần làm nên thành công của tác phẩm và đem đến cho người đọc ấn tượng thật
đẹp về một thời kì đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc.

Đề 5:
- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lịng son?
Mình về, cịn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở cịn Việt Minh?
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về tính dân tộc trong thơ Tố Hữu.
BÀI LÀM
Tố Hữu là nhà thơ lớn, là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Các
tác phẩm của ông luôn in đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, mang tính trữ tình
chính trị và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. “Việt Bắc” là một trong những sáng tác hay nhất
của đời thơ Tố Hữu, là đỉnh cao của thơ kháng chiến chống Pháp. Đó được xem như một bản
tổng kết bằng thơ cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ mà anh dũng kiên cường. Cả bài thơ cũng
thể hiện một tấm lòng tri ân sâu nặng về nghĩa tình cách mạng của nhà thơ nói riêng, của bộ đội


miền xi nói chung với mảnh đất và con người Việt Bắc. Lịch sử đã sang trang, mà mỗi lần đọc
lại đều rưng rưng rưng xúc động:
- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lịng son?

Mình về, cịn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở cịn Việt Minh?
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Mười lăm năm đi hết cuộc đời trai trẻ, mười lăm năm gắn bó với thượng ngàn heo hút,
biết bao kỉ niệm vơi đầy, người thi sĩ - chiến sĩ ấy làm sao không lưu luyến khi rời xa? “ Khi ta
ở chỉ là nơi đất ở - Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Tháng 10 năm 1954, nhà thơ theo cơ quan trung
ương, chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về tiếp quản thủ đô sau khoảng thời gian dài đã đồng
cam cộng khổ cùng mảnh đất và con người Việt Bắc, trong giây phút chia tay đầy lưu luyến và
dạt dào xúc cảm, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc. Những kỉ niệm cứ ùa về như dịng thượng
nguồn tn chảy qua lời đối đáp ngọt ngào đằm thắm của kẻ ở - người đi mà khởi nguồn là phút
nắm tay giã biệt bịn rịn đầy lưu luyến. Nối tiếp là những lời gợi nhắc của người ở lại về những
kỉ niệm không thể nào quên.
Vẫn trong cấu trúc đối đáp “ta – mình” như lời giao dun tình tứ gợi về khơng gian văn
hóa làng Việt gần gũi thân thương, từng câu hỏi của người ở lại như xốy sâu vào tâm trí người
đi:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Nhớ về Việt Bắc là nhớ về những ngày tháng cùng chung sống với những cơn mưa đầu nguồn
xối xả, với lũ suối thành sông, với âm u núi rừng mây mù giăng khắp. Thời tiết khắc nghiệt mang
đặc trưng của thiên nhiên nơi đây đã tơi luyện ý chí, nghị lực và tinh thần thép cho những người
chiến sĩ đến từ miền xi. Cách nói nhấn mạnh “những mây cùng mù” càng tơ đậm những khó
khăn gian khổ đã trở thành quen thuộc, đã trở thành một phần cuộc sống suốt 15 năm rịng gắn
bó. Người ở lại gợi nhắc đầy trăn trở: liệu rằng người về xi có cịn nhớ chăng?
“Mình về có nhớ chiến khu,
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai?”
Vẫn là “mình” đó mà lúc lại là “mình đi”, lúc lại là “mình về”, dường như cảm xúc của
người ở lại chộn rộn quá, như chống chếnh, như chơi vơi, vừa nhớ tiếc, vừa luyến lưu. Không
chỉ nhớ về khung cảnh mưa lũ mây mù, có chút ảm đạm nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình, thơ
mộng, phóng khống và hùng vĩ của thiên nhiên, mà người ở lại còn gợi nhớ về cuộc sống sinh



hoạt ở chiến khu với “miếng cơm chấm muối” đạm bạc mà nghĩa tình. Câu thơ có vế sóng đơi
“mối thù nặng vai” diễn tả ý chí quyết tâm một lịng của qn và dân Việt Bắc. Những khó khắn
thiếu thốn ấy càng thổi bùng lên ngọn lửa hờn căm, càng nhắc nhở về mối thù quân xâm lược
đang kết hình kết khối đè nặng lên vai. Câu thơ cũng bộc lộ niềm tự hào của những con người đã
từng trải qua những ngày tháng gian khổ, kiên trì đấu tranh để giành lại độc lập tự do và đem đến
cho nhân dân cuộc sống hạnh phúc, ấm no.
Phút chia tay thật nhiều điều muốn nói! Những câu hỏi như khơi sâu người ở bộc lộ nỗi
trống trải, thiếu hụt trong lịng bằng hình ảnh nhân hóa:
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Người về với thị thành tấp nập, để lại khoảng trống khó lấp đầy của không gian. Núi rừng cũng
như bần thần nhớ “ai”. Những món ăn đặc sản núi rừng “trám bùi”, “măng mai” cũng để rụng,
để già, khơng cịn người thu hái. Tất cả trở về với nguyên sơ, với sự tĩnh lặng hiu hắt khi bộ đội
về xuôi. Không buồn nhớ sao được!
Vẫn với tâm trạng băn khoăn luyến nhớ, người ở lại hỏi người ra đi:
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son?
Hai câu thơ có hình ảnh tượng trưng và tương phản đầy ấn tượng. Những ngơi nhà sàn thấp
thống sau những vạt lau sậy hắt hiu, hoang vắng, đó là mái ấm của những con người Việt bắc
chân chất mộc mạc. Đó cũng là nơi ni dưỡng những tấm lịng son sắt thủy chung với cách
mạng trường kì. Vẫn trong mạch cảm xúc băn khoăn trăn trở, đồng bào gợi nhớ những hình ảnh
thân thương ấy bằng một niềm kiêu hãnh về phẩm chất cách mạng của mình. Sự tương phản hình
ảnh “hắt hiu lau xám” và “đậm đà lịng son”, một hình ảnh ẩn dụ rất đẹp ca ngợi tấm lòng son sắt
thủy chung, càng khắc sâu ấn tượng về những con người tuy còn nghèo khổ, thiếu thốn nhưng
giàu tình u nước, gắn bó thủy chung với cách mạng và kháng chiến.
Nhớ về Việt Bắc, không thể không nhớ đến những ngày tháng đấu tranh gian khổ:
Mình về, cịn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở cịn Việt Minh?

Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Cùng với những hình ảnh đặc trưng cho vùng cao Việt Bắc của quê hương, đại từ mình xuất hiện
đều đặn, nhịp nhàng và biến hóa linh hoạt suốt khổ thơ đã tạo nên sắc điệu trữ tình thắm thiết,
đậm đà tính dân tộc. Nếu đại từ “mình” được dùng để chỉ những người bộ đội miền xuôi, người
ra đi trong cuộc chia tay ấy thì sang đến câu thơ cuối khổ, “mình” được điệp lại ba lần với ý nghĩa
khác nhau mà lại quyện hịa, gắn bó khơng thể rạch rịi phân định. Đó là cách xưng hơ ân tình,
đằm thắm như lời lẽ tình tứ của đơi trai gái xưa “ Mình về ta chẳng cho về - Ta nắm vạt áo ta đề
câu thơ”. Mình có trong ta mà ta cũng luôn hiện hữu trong trái tim mình.
Với tình cảm gắn bó tha thiết ấy, người ra đi hãy đừng quên những tháng ngày cùng nhau chiến
đấu “khi kháng Nhật – thủa còn Việt Minh”, và đừng quên những cái tên thân thuộc Tân Trào,
Hồng Thái, nơi khởi nguồn của những chiến công; đừng vội phai nhịa những kí ức thiêng liêng
về buổi lễ xuất qn dưới gốc đa cổ thụ bên mái đình Tân Trào năm ấy.


Câu thơ cuối cùng có sự đổi chỗ thú vị: Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào được hốn vị thành
“Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa” vừa nhấn mạnh cái tên đã đi vào lịch sử vừa tạo nên
tính chất mới mẻ, độc đáo cho câu thơ lục bát. Người Việt Bắc luôn mong muốn người ra đi hãy
khắc ghi và ln gìn giữ những phẩm chất cách mạng vốn có vẹn nguyên như những ngày đầu!
Nói đên sự đóng góp của Tố Hữu trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại, khơng thể khơng nói đến
đóng góp quan trọng trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, tinh thần dân tộc trong thơ. Thơ
Tố Hữu bài nào cũng vậy, đều đậm đà sâu sắc phong vị quê hương, từ ngôn từ giản dị, mộc mạc,
cách xưng hơ ‘mình- ta” thân tình ấm áp; hình ảnh của dưa cà mắm muối, của sân đình gốc đa,
của dáng mẹ, dáng chị, dáng anh quen thuộc, chân quê đến cách cảm, cách nghĩ và một tâm hồn
dào dạt nghĩa tình trong thơ. Tất cả điều đó đã làm nên nét rất riêng trong phong cách sáng tác
của nhà thơ. Đó cũng là lí do khiến thơ của Tố Hữu chyển tải những điều lớn lao mà rất tự nhiên
thấm sâu vào lòng người đọc nhiều thế hệ, làm nên sức sống lâu bền.
Với mười hai câu thơ lục bát Tố Hữu đã tạo thành sáu câu hỏi với kết cấu trùng điệp như
khắc sâu vào kỉ niệm người đi về một miền đất hoang sơ mà nghĩa tình. Mỗi câu đều gợi lại nét
tiêu biểu trong chuỗi kỉ niệm về Việt Bắc: Việt Bắc gian khổ thiếu thốn, Việt Bắc nghĩa tình sâu

đậm, Việt Bắc gắn liền với những sự kiện lịch sử trọng đại của cách mạng Việt Nam. Đọc đoạn
thơ ta như thấy ngân vang khúc nhạc tình yêu êm ái dịu dàng. Những câu hỏi là nỗi niềm băn
khoăn của đồng bào Việt Bắc đấy nhưng thực chất lại chính là những lời tự dặn lịng mình của
nhà thơ: trở về xi rồi đừng quên những năm tháng cơ hàn khốn khó ở Việt Bắc, đừng quên
những con người mộc mạc mà ân nghĩa thủy chung. Ta nhận thấy một tấm lòng biết ơn sâu nặng
của nhà thơ với Việt Bắc, thấy yêu mến và trân trọng hơn sự cống hiến của nhân dân mọi miền
cho độc lập hơm nay. Tơi chợt hỏi mình “ta đã làm gì cho Tổ quốc hơm nay?”
Đề 6:
- Ta với mình, mình với ta
Lịng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngịi Thia sơng Ðáy, suối Lê vơi đầy
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về sự kết hợp yếu tố nhạc và họa trong
thơ Tố Hữu.
BÀI LÀM
Nói về sức hấp dẫn trong thơ Tố Hữu, Xuân Diệu đã từng nhận xét rằng đó là những vần
thơ “từ trái tim vọt ra” vừa lãng mạn vừa tràn đầy “máu huyết”. Quả nhiên là thế! Thơ Tố Hữu
được khơi dẫn bởi mạch nguồn của tinh thần và ý chí cách mạng, của lí tưởng đẹp đẽ và tình u


đất nước sâu sắc. Đọc mỗi dịng thơ của ơng, ta đều thấy chất chính trị quyện hịa nhuần nhuyễn
với chất trữ tình đằm thắm ngọt ngào. “Việt Bắc” là một minh chứng tiêu biểu cho nét phong
cách sáng tác đó của nhà thơ. Trong tác phẩm, tình cảm nhớ nhung lưu luyến giữa đồng bào Việt

Bắc với bộ đội miền xuôi được Tố Hữu diễn đạt bằng những câu thơ tình tứ vơ cùng:
- Ta với mình, mình với ta
Lịng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sơng Ðáy, suối Lê vơi đầy
Nếu ai đó khơng biết rằng “Việt Bắc” là lời giã biệt, lời tri ân của cán bộ, bộ đội miền
xuôi với đồng bào Việt Bắc sau mười lăm năm gắn bó làm nên thắng lợi của trận Điện Biên Phủ
lừng lẫy thì hẳn sẽ nghĩ đó là những câu hát giao dun tình tứ của những bậc liền anh liền chị ở
một xứ Kinh Bắc nào. Sự kiện lịch sử quan trọng ấy được ghi khắc khơng chỉ trong trí nhớ mà
cịn khắc sâu trong trái tim của bao người yêu thơ. Đó là sức mạnh của “một tiếng nói u thương
ln ln chan hịa ánh sáng” (Hồi Thanh) trong ngịi bút trữ tình - chính trị của Tố Hữu.
Có nhà phê bình từng nhận định “Người Tố Hữu là một thi sĩ, một chiến sĩ nhưng chúng
ta đừng quên cốt cách của nó là thi sĩ”. Tâm hồn của một thi sĩ làm cách mạng đã khiến cho
những điều khô khan, cứng nhắc cũng trở nên mềm mại trong thơ. Chẳng thế mà,Tố Hữu đã thi
vị hóa mối quan hệ quân - dân trở nên gần gũi, cởi mở và chân thành biết mấy. Vốn dĩ, cách xưng
hơ “mình – ta” đã rất quen thuộc trong đời sống người dân lao động xưa, trong đối đáp giao
duyên hay trong thơ ca dân gian. Ta dễ dàng bắt gặp những câu ca dao ngọt ngào say đắm: “
Mình về ta chẳng cho về - ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ”. Hay “Mình về có nhớ ta chăng – Ta về
ta nhớ hàm răng mình cười”. Ở đây, Tố Hữu thay lời bộ đội miền xi thân mật xưng hơ “tamình” với đồng bào Việt Bắc, khiến tình cảm quân dân càng thêm khăng khít, mặn nồng.
Đoạn thơ là lời đáp lại tình cảm của người đi với người ở lại. Đồng bào Việt Bắc vì nhớ
nhung, lo lắng mà gặng hỏi người về xi có cịn nhớ những ngày “ Mưa nguồn suối lũ những
mây cùng mù?”. Đáp lại tình cảm sâu nặng ấy, người ra đi đã bộc lộ sự thủy chung son sắt như
một lời thề :
- Ta với mình, mình với ta

Lịng ta sau trước mặn mà đinh ninh


Câu thơ điệp lại theo cấu trúc vòng tròn: “ta với mình” rồi lại “mình với ta” tạo nên sự
gắn bó quyện hịa như khơng thể tách rời, khơng gì chia cắt. Lại thêm câu khẳng định tấm lịng,
tình cảm trước sau như một của người ra đi, vẫn luôn “mặn mà đinh ninh”, không bao giờ phai
nhạt. Đọc câu thơ, ta ngỡ như đó là lời thề non hẹn biển của đơi trai gái u nhau: “Thuyền về
có nhớ bến chăng – Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”. Hẳn rằng lời khẳng định chân
thành ấy của bộ đội miền xi đã làm ấm lịng người ở lại.
Dường như ngần ấy chưa đủ để nói hết những lưu luyến nhớ nhung của người ra đi dành
cho mảnh đất và con người Việt Bắc. Mười lăm năm gắn bó chứ đâu phải một sớm một chiều,
tất cả như còn vẹn ngun trong tâm trí người ra đi:
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Lúc này đại từ “mình” được sử dụng để chỉ cho cả hai đối tượng, “mình” là bộ đội miền
xi hay “mình” cũng chính là người Việt Bắc. Dường như cảm xúc nhớ nhung dâng trào đến độ
“ta – mình” đã hịa vào một, ta là mình và mình là ta. Đến đây, độc giả lại bắt gặp một tứ trong
ca dao xưa “Qua đình ngả nón trơng đình – Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”. Cách
ví von “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” vừa thân thuộc vừa mang đặc trưng lối nói
của người vùng cao Việt Bắc : tình nghĩa con người được ví với nước trong nguồn – một biểu
tượng của thiên nhiên vô tận, vĩnh hằng. Câu thơ vừa thể hiện nỗi nhớ, đồng thời cũng thể hiện
tấm lòng biết ơn sâu nặng của người cán bộ miền xuôi đối với Việt Bắc, nơi đã che chở, nuôi
dưỡng cách mạng từ trong trứng nước!
Nỗi nhớ được cụ thể hóa qua khơng gian, thời gian:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Tố Hữu đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho tình cảm của
người chiến sĩ miền xi với đồng bào Việt Bắc. Đó khơng phải là nỗi nhớ của ý thức, của lí trí
lạnh lùng mà là nỗi nhớ hằn in trong trái tim của người ra đi như nỗi nhớ “người yêu” – một nỗi
nhớ da diết, cồn cào, mãnh liệt. Câu thơ có từ để hỏi “nhớ gì” vừa thể hiện sự ngỡ ngàng về một

hiện thực trong trái tim mình, dường như bản thân người đi cũng thực sự bất ngờ bởi nỗi nhớ
đằm sâu mãnh liệt đến thế, vừa như khẳng định sự hiện hữu một tình cảm đặc biệt dành cho Việt
Bắc trong trái tim mình. Thật đáng trân trọng!
Trong xúc cảm của một tình yêu nồng nàn, khung cảnh thiên nhiên lãng mạn mở ra “
Trăng lên đầu núi – nắng chiều lưng nương.” Một câu thơ phác họa hai thời điểm khác nhau: vế
đầu là hình ảnh gợi tả khơng gian hị hẹn lãng mạn với ánh trăng vừa hé lộ dịu dàng e ấp, tình tứ;
vế sau là hình ảnh gợi không gian của buổi chiều lao động trên nương rẫy, những tia nắng còn
trải vàng trên lưng chừng núi. Dường như, những khoảnh khắc đẹp như tranh vẽ ấy đã lí giải tại


sao nỗi nhớ đồng bào trong lòng người đi lại như nỗi nhớ “người yêu”. Thiên nhiên và hình ảnh
cuộc sống lao động của con người nơi đây thật khiến lòng người xao xuyến, đắm say!
Và như một cuốn phim quay chậm, những hình ảnh thân thuộc hiện về nguyên vẹn trong
tâm trí người đi:
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngịi Thia sơng Ðáy, suối Lê vơi đầy
Kết thúc khổ thơ , tình cảm lại toả ra tràn ngập cả núi rừng Việt Bắc. Những kỷ niệm
chung và riêng đan xen nhau, lần lượt hiện ra rõ mồn một trong tâm trí của người đi “từng bản
khói cùng sương”, “từng rừng nứa bờ tre”... Nghệ thuật điệp từ “nhớ” nằm trong cấu trúc điệp
“nhớ từng”, kết hợp với biện pháp tu từ liệt kê những hình ảnh về khơng gian sinh sống của đồng
bào, nơi đi về ấm áp trong tình cảm gia đình, những địa danh lịch sử người cán bộ đã từng đặt
chân “Ngịi Thia, sơng Đáy, suối Lê…” làm cho những kỷ niệm thân thương về những tháng
ngày gian khổ mà kiên cường đấu tranh chống giặc hiện lên tầng tầng lớp lớp, hết hình ảnh này,
đến hình ảnh khác như suối nguồn khơng bao giờ vơi cạn.
Nhà thơ Chế Lan Viên từng nói “Thơ Tố Hữu là thơ cách mạng, chứ khơng phải thơ tình
u, nhưng thơ anh là của một tình nhân, anh nói các vấn đề bằng trái tim của một người say
đắm. Cái sức mạnh lớn nhất của Tố Hữu là quả tim anh”. Điều này dễ nhận thấy ở bài thơ Việt
Bắc từ việc sử dụng thể thơ lục bát, ở cách đối đáp giao duyện ngọt ngào thiết tha đến việc sử

dụng linh hoạt, tài tình cặp đại từ nhân xưng “mình, ta” nhịp nhàng sánh đơi để nói về tình cảm
gắn bó giữa cán bộ với nhân dân. Chính lý tưởng cộng sản là ngọn nguồn của mọi cảm hứng sáng
tạo trong thơ Tố Hữu. Thơ ơng ln có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tình cảm yêu nước, yêu
chủ nghĩa xã hội thuần túy với một tình cảm cá nhân đằm thắm nhất. Nhờ thế, nhà thơ đã sáng
tạo nên một thế giới nghệ thuật độc đáo của thơ trữ tình chính trị, mang đậm đà bản sắc dân tộc
và nâng nó lên một trình độ mới.
Tóm lại, qua những lời thơ thủ thỉ tâm tình chân thành đằm thắm của người ra đi với người
ở lại trong đoạn thơ trên, ta không chỉ thấy những hồi ức đẹp đẽ về một Việt Bắc thơ mộng nghĩa
tình mà người đọc cịn cảm nhận một tình cảm cách mạng thiết tha, sâu đậm trong tình quân dân
cá nước. Đoạn thơ cũng tiêu biểu cho phong cách trữ tình - chính trị của Tố Hữu, để lại dấu ấn
khó phai trong lịng độc giả. Những vần thơ cũng góp phần nhắc nhớ con người về lối sống ân
nghĩa thủy chung, có được những ngày bình n hạnh phúc, đừng vội quên những tháng ngày
gian khổ đã qua! Phải chăng vì thế mà thơ Tố Hữu bao giờ cũng mới, nó trở thành cách nhìn,
thành nếp sống phổ biến của những con người thời đại mới!”


Đề 7:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cơ em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hịa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về sự kết hợp yếu tố nhạc và họa trong
thơ Tố Hữu.

BÀI LÀM
Tố Hữu là nhà thơ lớn, là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Các
tác phẩm của ông luôn in đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, mang tính trữ tình
chính trị và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. “Việt Bắc” là một trong những sáng tác hay nhất
của đời thơ Tố Hữu, là đỉnh cao của thơ kháng chiến chống Pháp. Đó được xem như một bản
tổng kết bằng thơ cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ mà anh dũng kiên cường. Cả bài thơ cũng
là dòng chảy cảm xúc dạt dào, tha thiết về nỗi nhớ Việt Bắc. Tiêu biểu trong bài thơ là những
dịng kí ức về một bức tranh tứ bình Việt Bắc thơ mộng, ân tình:
Ta về, mình có nhớ ta

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Tố Hữu viết Việt Bắc nhân một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Sau chiến dịch Điện
Biên Phủ thắng lợi, tên giặc Pháp cuối cùng rời khỏi quê hương, cơ quan trung ương chính phủ
rời chiến khu Việt Bắc về tiếp quản thủ đô sau mười lăm năm gắn bó. Trong giờ phút chia tay
đầy lưu luyến bịn rị, Tố Hữu đã viết bài thơ này. Mạch thơ tn trào theo dịng hồi tưởng của
nhà thơ về những năm tháng gắn bó với mảnh đất và con người Việt Bắc. Nhớ về Việt Bắc, không
chỉ là nỗi nhớ về những hi sinh, gian khổ “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” mà còn là nỗi nhớ
về một Việt Bắc đẹp như thơ, làm say đắm lòng người.
Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi tu từ. Nhưng hỏi chỉ là cái cớ để thể hiện tâm tư tình cảm,
nhấn mạnh nỗi nhớ da diết của người về Thủ đô.


Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Hai câu đầu là lời hỏi đáp của ta - người cán bộ kháng chiến về xuôi. Ta hỏi mình có nhớ ta.
Người cách mạng về xi hỏi người Việt Bắc để bộc lộ tâm trạng của mình là dù có ở nơi xa xơi
, dù có xa cách nhưng lịng ta vẫn gắn bó với Việt Bắc. Chữ "ta" và "nhớ" được điệp đi điệp lại
nhiều lần vừa nhấn mạnh chủ thể nỗi nhớ, vừa khẳng định một tình cảm nhớ nhung đang chế
ngự, tràn ngập trong tâm hồn người đi. Nỗi nhớ hướng về "những hoa cùng người" hướng về
thiên nhiên , núi rừng và con người Việt Bắc. "Hoa" là sự kết tinh của hương sắc, cịn "người" là

bơng hoa đẹp nhất giữa núi rừng. Xét cho cùng, "người ta là hoa của đất". Hoa và người đồng
hiện càng tôn lên vẻ đẹp cho nhau,
khiến khơng gian trở nên hài hịa, lãng mạn.
Nỗi nhớ hiện về trong tấm trí người đi theo mạch trình tự bốn mùa, mỗi mùa là một bức
tranh đẹp tồn bích, mà khởi đầu là bức tranh Việt Bắc trong mùa đông:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Không gian mở ra trước mắt người đi không phải là cảnh rừng ảm đạm lạnh lẽo mà là một cánh
rừng xanh bạt ngàn vô tận. Trên tấm thảm xanh đầy sức sống ấy là sắc đỏ rực rỡ, tươi tắn của
những bơng chuối rừng. Sự hài hịa giữa hai màu sắc tương phản “xanh-đỏ” khiến lòng người
cảm thấy ấm áp trước cái lạnh lẽo kahức nghiệt của thời tiết nơi
rừng thiêng nước độc ấy.
Giữa không gian hoang vu mà thơ mộng, xuất hiện hình ảnh những con người lao động
khỏe khoắn cheo leo trên những đỉnh đèo “nắng ánh” với “dao gài thắt lưng”. Những ánh nắng
rực rỡ của ngày mới chiếu rọi vào những chiếc dao gài ở thắt lưng tạo nên phản quang lấp lánh
làm đẹp thêm hình ảnh những con người Việt Bắc chủ động, tự tin giữa đại ngàn.
Bức tranh mùa xuân hiện ra cũng mang nét rất riêng của thiên nhiên nơi đây. Đó là thời
điểm mà cả cánh rừng mênh mơng ngập tràn sắc trắng tinh khôi của hoa mơ nở rộ:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Cách sử dụng kết hợp từ “mơ nở trắng rừng” khiến người đọc liên tưởng đến sự chuyển
biến của màu sắc, đồng loạt và nhất thể như nhuộn trắng cả không gian, khác với sắc trắng điểm
xuyết khiêm nhường trong những câu thơ miêu tả cảnh ngày xuân của đại thi hào Nguyễn Du
“Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Xuân ở núi rừng Việt Bắc là thế, thật riêng, thật ấn
tượng.
Giữa cái nền trắng của hoa mơ ấy, nổi bật lên hình ảnh con người lao động cần mẫn, dịu
dàng: "chuốt từng sợi giang". Con người đẹp một cách tự nhiên trong công việc hàng ngày. Động
từ "chuốt" kết hợp với trợ từ "từng" đã thể hiện bàn tay khéo léo, tỉ mĩ, và tài hoa của người lao
động. Đó cũng chính là những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Bắc hào hùng nhưng cũng
rất hào hoa.



Nếu như bức tranh mùa đông và mùa xuân được nhà thơ cảm nhận bằng thị giác thì sang
đến bức tranh mùa hè các giác quan quan của nhà thơ được mở rộng để đón nhận những điều thú
vị tuyệt vời chỉ có ở Việt Bắc:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cơ em gái hái măng một mình
Âm vang của tiếng ve làm lá phách đổ vàng. Đó là thứ âm thanh quen thuộc của mùa hè. Khi
tiếng ve cất lên cả không gian như bừng thức, cả cánh rừng phách đột ngột “đổ vàng”. Động từ
“đổ” được sử dụng độc đáo, tạo liên tưởng thú vị về sự chuyển biến thật nhanh, thật đột ngột
của màu sắc khu rừng từ xuân sang hạ. Tưởng như tấm voan trắng tinh khơi của mùa xn vừa
đuwọc trút bỏ thì lập tức bà mẹ thiên nhiên đã khoác lên cách rừng một tấm hồng bào lộng lẫy
kiêu sa. Cảnh tượng thật kì vĩ và ấn tượng vơ cùng. Câu thơ có nét tương đồng với ý thơ "Một
tiếng chim kêu sáng cả rừng" của Khương Hữu Dụng. Chỉ với một câu thơ mà các tác giả đã
gợi lên cả sự vận động của
thời gian, của cuộc sống.
Và trên cái nền vàng của rừng phách ấy, hiện lên hình ảnh thật đáng yêu làm cho bức tranh
thêm nên thơ, trữ tình. Đó là hình ảnh: "cơ em gái hái măng một mình". Một mình đấy nhưng
khơng hề cơ đơn. Dường như thiên nhiên và con người đã hòa làm một, như bạn thân như tri kỉ,
tôn lên vẻ đẹp của nhau thật hài hòa, thơ mộng: thiên nhiên đẹp lộng lẫy, lung linh , và con người
lao động thì thật dịu dàng, duyên dáng. Câu thơ khéo léo bộc lộ tấm lòng yêu mến trân trọng lối
sống giản dị, lặng thầm của những con người Việt Bắc thân thương.
Khép lại đoạn thơ là bức tranh về mùa thu ở Việt Bắc:
Rừng thu trăng rọi hồ bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Có lẽ ấn tượng nhất trong nỗi nhớ về hoa và người Việt Bắc đó là những đêm trăng thu
n bình, lãng mạn. Bức tranh thu khơng có hoa rừng khoe sắc, mà đó là màu sắc dịu dàng, êm
ái ánh trăng thu chiếu tỏa. Câu thơ mở ra một không gian tràn ngập ánh trăng thanh bình soi chiếu
khắp núi rừng chiến khu . Ánh trăng ấy không chỉ mang vẻ đẹp tự nhiên mà nó cịn gắn với niềm
xúc động của những con người từng trải qua bao năm khốc liệt , gian khổ của chiến tranh . Và

trong giây phút sống trong hịa bình ấy, lịng người chợt nhớ đến “tiếng hát ân tình” ngân vang,
tha thiết .Tiếng hát bộc lộ lịng người, bộc lộ ân tình thuỷ chung , tình nghĩa của con người Việt
Bắc với cách mạng, với bộ đội miền xuôi. Tiếng hát cũng nhắc nhớ người ra đi đừng vội quên
quá khứ nghĩa tình suốt mười lăm năm gắn bó. Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh
bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát "ân tình thủy chung" ấy cịn
gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.
Tố Hữu đã diễn tả nỗi nhớ gắn với hình ảnh của núi rừng và bốn mùa hoà chung sắc màu
đa dạng làm nên vẻ hấp dẫn cho bức tranh tứ bình bằng thơ có họa và nhạc về hoa và người Việt
Bắc. Đọc thơ ông, người đọc như được huy động tất cả các giác quan để cảm nhận: Thị giác
được chiêm ngưỡng những khoảnh khắc trong ngần của rừng mơ mùa xuân, sự chói chang huy
hoàng của rừng phách mùa hè, sự tươi tắn, ấm áp của hoa chuối mùa đơng. Thính giác lắng nghe


âm thanh tiếng ve quen thuộc của mùa hè, lắng nghe tiếng hát thân thương nghĩa tình của con
người Việt Bắc và trái tim rung động biết bao! Đó là thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc. Từng
dòng thơ như ngân nga, như khảm vẽ vào tâm trí người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên, tình người.
Thời gian trong đoạn thơ được diễn tả tuần tự bốn mùa bắt đầu từ mùa đông và khép lại là mùa
thu lịch sử, mùa của thắng lợi trịn đầy, mùa của bình n lắng đọng, nhưng có một thứ bất biến,
khơng hề đổi thay, đó là nỗi nhớ, là tình u nhà thơ dành cho Việt Bắc. Thời gian trôi đi càng
làm nỗi nhớ thêm tha thiết, sâu lắng. Đó là tình yêu đích thực, rung động chân thành của trái tim
nhà thơ, cũng là mạch nguồn làm nên chất trữ tình chính trị sâu sắc và tính dân tộc đậm đà ở mỗi
vần thơ Tố Hữu.
Qua mười câu thơ tuyệt bút , bằng việc sử dụng cấu trúc đối đáp giao dun “ta”- “mình”,
kết hợp với việc sử dụng những ngơn từ hình ảnh giàu sức gợi hình, gợi cảm mà mộc mạc chân
thành, nhà thơ đã làm nổi bật cảnh đẹp thiên nhiên bốn mùa ở núi rừng trong sự hài hòa với cốt
cách và tâm hồn người Việt Bắc. Qua đó, tác giả đặc biệt ngợi ca vẻ đẹp trong tâm hồn con người
Việt Bắc, ngợi ca tình nghĩa cách mạng thủy chung gắn bó bằng tấm lịng trân trọng và biết ơn
sâu nặng. Với việc sử dụng khéo léo, tài tình ngơn ngữ dân tộc, Tố Hữu đã trữ tình hóa mối quan
hệ chính trị,lãng mạn hóa khơng gian kháng chiến khiến tình quân dân trở nên thi vị và đầy ấn
tượng. Đoạn thơ góp phần làm nên thành công của tác phẩm và đem đến cho người đọc ấn tượng

thật đẹp về một thời kì đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc.
Đề 8:
Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân cơng đỏ đuốc từng đồn
Bước chân nát đá, mn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về tính sử thi trong thơ Tố Hữu.
BÀI LÀM
Bài thơ Việt Bắc được nhà thơ Tố Hữu viết vào tháng 10 - 1954, tức sau chiến thắng Điện
Biên Phủ (5 - 1954), miền Bắc được giải phóng. Các cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước
chuyển từ Việt Bắc (thủ đô của cuộc kháng chiến) về Hà Nội. Sự lưu luyến kẻ ở người về là
nguồn cảm xúc lớn cho Tố Hữu viết nên bài thơ này. Bài thơ Việt Bắc được trích trong tập thơ
Việt Bắc (1947 - 1954) của Tố Hữu. Cả bài thơ cũng là bức tranh nhiều màu sắc về mảnh đất và


con người Việt Bắc từ buổi đầu gian khổ gây dựng sự nghiệp cách mạng đến những đêm trường
cả Việt Bắc bừng bừng khí thế đấu tranh. Đó là khúc tráng ca – khúc ca hùng tráng về một giai
đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc.
Câu thơ đầu đoạn vang lên khỏe khoắn, hùng tráng, chứa chan niềm tự hào kiêu hãnh:
Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung

Khắp các nẻo đường từ Việt Bắc tỏa đi muôn nơi đều là “của ta”: Hai tiếng “của ta” giản
dị mà vô cùng thiêng liêng. Chúng thể hiện rõ ý thức làm chủ cũng như niềm tự hào về sự bất
khả xâm phạm của vùng căn cứ. Có sống trong những ngày kháng chiến chống Pháp đầy gian
khổ khó khăn, ta mới thấm thía niềm tự hào kiêu hãnh ấy. Những con đường của ta nhưng đã
phải đổ biết bao xương máu mới giành lại được?
Hình ảnh thơ “Đêm đêm rầm rập như là đất rung” đặc tả sự lớn mạnh nhanh chóng, vượt
bậc và khí thế ra trận hào hùng, ngút trời của đoàn quân và dân ta. Không phải ngẫu nhiên mà
tác giả lại chọn thời điểm ban đêm. Trong cuộc sống, đêm là lúc yên bình, tĩnh mịch, vạn vật đã
chìm vào giấc ngủ say nông nhưng trong kháng chiến, đêm thường là điểm khởi đầu của những
hoạt động, chiến dịch chuẩn bị cho ngày mai thắng lợi. Trong màn đêm bao la bao phủ, trùm
khắm, đoàn quân của ta ra trận rầm rập như vũ bão khiến đất rung, trời lở. Với những từ láy rắn
rỏi, hình ảnh so sánh, phóng đại, nhịp thơ đanh thép, chắc khỏe kết hợp với những phụ âm rung,
câu thơ bật lên âm hưởng khỏe khoắn hùng tráng góp phần tái hiện sống động cuộc diễu binh
hùng vĩ. Có thể nói, tinh thần chiến đấu quả cảm, khí thế ra trận hào hùng của cha ơng trong suốit
bồn nghìn năm dựng nước, giữ nước đã sống dậy trong ngày tháng ra trận.
Chúng ta từng tự hào trước các tráng sĩ thời Trần mang tinh thần Sát Thát, về nghĩa quân
Lam Sơn với sức mạnh Đánh một trận sạch khơng kình ngạc – Đánh hai trận tan tác chim
muông. Và cho đến bây giờ, chúng ta lại càng tự hào về cuộc kháng chiến thần thánh của thời
đại cách mạng:
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Hai từ láy “điệp điệp" và “trùng trùng" đi liền nhau ở câu thơ có sức gợi tả đó, nó vừa gợi
lên hình ảnh của một đồn qn đơng đúc, vừa gợi lên sức mạnh, khí thế hào hùng của một đoàn
quân. Đoàn quân ra mặt trận hùng tráng, mang cả sức mạnh của lòng yêu nước, của lí tưởng cách
mạng, khát khao chiến đấu và chiến thắng quân thù. Câu thơ thứ hai được ngắt theo nhịp 4/4:
"Ánh sao đầu súng / bạn cùng mũ nan" càng làm tăng thêm vẻ đẹp của người lính - một vẻ đẹp
vừa mang tính lãng mạn vừa mang tính hiện thực sâu sắc. Hình ảnh “Ánh sao đầu súng" có thể
là hình ảnh ánh sao trời treo trên đầu súng của những người lính trong mỗi đêm hành quân như
"Đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu; “ánh sao đầu súng" ấy cũng có thể
là ánh sáng của ngôi sao gắn trên chiếc mũ nan của người lính, ánh sáng của lí tưởng cách mạng

soi cho người lính bước đi, như nhà thơ Vũ Cao trong bài Núi đôi đã viết: “Anh đi bộ đội sao
trên mũ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường”.
Góp phần vào sự hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta khơng chỉ có
bước chân thần tốc của những chiến binh tinh nhuệ mà cịn có sự góp cơng góp sức của cả một
tập thể quần chúng nhân dân anh hùng:
Dân cơng đỏ đuốc từng đồn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.


×