Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

(TIỂU LUẬN) TÍNH tất yếu KHÁCH QUAN, hợp QUY LUẬT của CON ĐƯỜNG đi lên CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM vận DỤNG vào VIỆC xây DỰNG NIỀM TIN, lý TƯỞNG CHO SINH VIÊN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (619.74 KB, 30 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN,
HỢP QUY LUẬT CỦA CON ĐƯỜNG
ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
VẬN DỤNG VÀO VIỆC XÂY DỰNG NIỀM TIN,
LÝ TƯỞNG CHO SINH VIÊN HIỆN NAY

MÃ MÔN HỌC: LLCT120314_ 03CLC
THỰC HIỆN: Nhóm 03. Thứ 2,3 tiết 1,2,3
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: THS.Trương Thị Mỹ Châu

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 07 năm 2021

0

0


DANH SÁCH NHĨM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ III, NĂM HỌC 2020-2021
Nhóm số 03(Lớp thứ 2,3, tiết 1,2,3)

Tên đề tài: Tính tất yếu khách quan, hợp quy luật của con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vận dụng vào việc xây dựng niềm tin, lý
tưởng cho sinh viên hiện nay.


STT

HỌ VÀ TÊN SINH
VIÊN

MÃ SỐ SINH
VIÊN

TỶ LỆ %
HỒN

SĐT

THÀNH

1

Đồn Kiến Trúc

20151069

100%

0979410444

2

Phạm Quốc Anh Huy 20161100

100%


0916xxx519

3

Nguyễn Huy Tồn

20151421

100%

0342xxx901

4

Đặng Đình Khơi

20151385

100%

0846xxx492

5

Nguyễn Lê Bình An 20151113

100%

0935xxx616


6

Trịnh Tấn Đại

20125051

100%

0967xxx313

7

Dương Cơng Huy

19145233

100%

0986xxx925

8

Đào Ngun Khôi

20125069

100%

0362xxx314


9

Lương Phạm Vũ

20145660

100%

0952xxx579

Đặng Thị Kim Anh

20125040

100%

0983xxx478

10
Ghi chú:

 Tỷ lệ % = 100%
 Trưởng nhóm: Đồn Kiến Trúc
Nhận xét của giáo viên:
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
Ngày … tháng 07 năm 2021
Giáo viên chấm điểm


0

0


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu..................................................................................... 1
3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 2
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................ 3
CHƯƠNG 1: TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN, HỢP QUY LUẬT CỦA
CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM....................... 3
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội. .............................. 3
1.2. Quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội mang tính tất yếu khách
quan của lịch sử. .............................................................................................. 3
1.2.1. Dựa vào học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, CNXH ra đời là
một tất yếu kinh tế ....................................................................................... 4
1.2.2. Sự ra đời của CNXH là do nhu cầu giải phóng con người một
cách triệt để .................................................................................................. 5
1.2.3. Sự ra đời của CNXH là một yếu tố tất yếu đạo đức xã hội ............ 7
1.2.4. Sự ra đời của CNXH là một tất yếu của văn minh nhân loại ........ 8
1.3. Quan niệm của HCM về đặc trưng, bản chất của CNXH .................10
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG VÀO VIỆC XÂY DỰNG NIỀM TIN, LÝ
TƯỞNG CHO SINH VIÊN HIỆN NAY ......................................................... 14
2.1. Thực trạng về niềm tin, lý tưởng của sinh viên hiện nay. .................... 14
2.2. Chính sách của đảng nhà nước về xây dựng niềm tin, lý tưởng cho sinh
viên hiện nay .................................................................................................. 17
2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc xây dựng niềm tin, lý


0

0


tưởng cho sinh viên hiện nay ........................................................................ 19
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................... 26

0

0


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin đều khẳng định tính tất yếu khách quan của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chỉ rõ vị trí lịch sử, nhiệm vụ đặc thù của nó
trong q trình vận động, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tế
của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến
hành giải phóng dân tộc, hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần
lên chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ học thuyết Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội và dựa trên
đặc điểm truyền thống và văn hóa tư tưởng, điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam
và sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc tại các nước thuộc địa, Chủ nghĩa xã
hội ra đời là do tác động của tất cả các nhân tố: kinh tế, chính trị, đạo đức, xã hội,
văn hóa. Qua đó, Hồ Chí Minh xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là hoàn toàn phù hợp với quy luật chung đối với

các nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay, phù hợp với điều kiện lịch
sử của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, đó là một tất yếu khách quan, được thể hiện
ở cả phương diện lý luận và phương diện thực tiễn.
Để làm rõ luận điểm trên, nhóm chúng em chọn đề tài: “Tính tất yếu khách
quan, hợp quy luật của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vận dụng
vào việc xây dựng niềm tin, lý tưởng cho sinh viên hiện nay”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích các quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và tính tất yếu
của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam.
Tìm hiểu các vấn đề thực tiễn và đưa ra những giải pháp trong việc quanh việc
xây dựng niềm tin, lý tưởng cho sinh viên hiện nay.
1

0

0


3. Phương pháp nghiên cứu
Tham khảo, tổng hợp có chọn lọc từ nhiều kênh thông tin, qua các phương
pháp phân tích, so sánh, đối chiếu để đảm bảo tính chặt chẽ từ đó đi đến kết luận.
Áp dụng các phương pháp liên ngành khoa học xã hội - nhân văn, lý luận chính
trị để nghiên cứu hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh

2

0

0



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN, HỢP QUY LUẬT CỦA
CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.1.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.

Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã hình thành
một hệ thống quan điểm hết sức đặc sắc về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong
phương thức tiếp cận chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh có nhiều định nghĩa khác nhau:
- Định nghĩa chủ nghĩa xã hội như một chế độ xã hội hoàn chỉnh đối lập với chế độ
tư bản chủ nghĩa;
- Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách chỉ ra các mặt riêng biệt của nó (về kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hố, quan hệ quốc tế...);
- Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bắng cách nêu bật mục tiêu (tổng quát và cụ thể) của
nó, v.v.
Trong các cách tiếp cận đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội. Bởi lẽ, theo Người, mục tiêu là sự thể hiện cô đọng nhất các bản chất
đặc trưng, tính ưu việt vốn hàm chứa trong chế độ xã hội tương lai mà chúng ta xây
dựng.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội ở giai đoạn đầu
của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mặc dù còn tồn đọng tàn dư của xã hội cũ nhưng xã
hội xã hội chủ nghĩa khơng cịn áp bức, bóc lột, xã hội do nhân dân lao động làm
chủ, trong đó con người sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền lợi của cá nhân và tập
thể vừa thống nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau.

3

0


0


1.2.

Quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội mang tính tất yếu khách quan
của lịch sử.
1.2.1. Dựa vào học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, CNXH ra đời là một
tất yếu kinh tế
Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác khẳng định sự phát triển

của xã hội loài người là quá trình lịch sử - tự nhiên. Theo quá trình này, “Sự sụp đổ
của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu như nhau” . Vận dụng
học thuyết của C. Mác để nghiên cứu về tiến trình lịch sử, Hồ Chí Minh cho rằng:
“Cách sản xuất và sức sản xuất phát triển và biến đổi mãi, do đó mà tư tưởng của
người, chế độ xã hội, v.., cũng phát triển và biến đổi. Chúng ta đều biết từ đời xưa
đến đời nay, cách sản xuất từ chỗ dùng cành cây, bủa đá đã phát triển dần đến máy
móc, sức điện, sức nguyên tử. Chế độ xã hội cũng phát triển từ cộng sản nguyên thủy
đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản chủ nghĩa và ngày nay
gần một nửa loài người đang tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ cộng sản chủ
nghĩa. Sự phát triển và tiến bộ đó khơng ai ngăn cản được” . Tuy nhiên, ngay từ năm
1953 Hồ Chí Minh đã nhận thấy: Tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con
đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội như Liên Xơ. Có nước
thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội như các nước
Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta” . Người giải thích: Chế độ dân chủ mới là chế
độ dưới sự lãnh đạo của Đảng và giai cấp công nhân, nhân dân đã đánh đổ đế quốc
và phong kiến; trên nền tảng công nông liên minh, nhân dân lao động làm chủ, nhân
dân dân chủ chuyền chính theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Tư tưởng trên đặt vào bối cảnh xã hội đương thời, Hồ Chí Minh muốn khẳng

định, lịch sử xã hội lồi người phát triển qua các chế độ cơng xã nguyên thủy, chiếm
hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa rồi tiến lên xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ
nghĩa; nhưng lộ trình này khơng bắt buộc đối với tất cả các nước mà nó diễn ra theo
hai phương thức: Có thể trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa như Liên Xô và
4

0

0


cũng có thể bỏ qua giai đoạn này như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình tất yếu,
tuân theo những quy luật khách quan, trước hết là những quy luật trong sản xuất vật
chất; song, tùy theo bối cảnh cụ thể mà thời gian, phương thức tiến lên chủ nghĩa xã
hội ở mỗi quốc gia sẽ diễn ra một cách khác nhau, trong đó, những nước đã qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa sẽ “đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Những nước chưa
qua giai đoạn phát triển này có thể đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi đã “đánh đổ đế quốc
và phong kiến” dưới sự lãnh đạo của Đảng vô sản và được tư tưởng Mác Lênin dẫn
đường.
Với nhận định trên, Hồ Chí Minh đã cho thấy tính chất chung của các quy luật
phát triển xã hội và tính đặc thù trong sự thể hiện các quy luật đó ở những quốc gia cụ
thể, trong những điều kiện cụ thể.
1.2.2.

Sự ra đời của CNXH là do nhu cầu giải phóng con người một cách

triệt để
Trong Tun ngơn của Đảng Cộng sản, năm 1848, Mác, Ănghen không chỉ
luận giải về vấn đề giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc mà vấn đề giải phóng con

người được các ơng để cập khá sâu sắc. Các ông cho rằng, “sự phát triển tự do của
mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Con người và cuộc đấu tranh nhằm giải phóng con người cũng giữ vị trí rất
quan trọng trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ chủ tịch. Hồ chủ tịch
nói: “Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước nhà được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai
cấp, giải phóng được con người, cũng chỉ khi các giai cấp và mỗi con người đều được
giải phóng thì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc mới hồn tồn triệt để.
5

0

0


Giải phóng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của xã hội. Giải phóng
con người khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng và đồng thời phải hướng tới một cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc cho con người. Con người được phát triển toàn diện, cao về
trí tuệ, cường tráng về thể chất, trong sáng về đạo đức, phong phú về tinh thần, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ
được thể hiện trong đặc trưng tổng quát dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng,
văn minh, mà cịn được thể hiện qua đặc trưng về con người trong xã hội xã hội chủ
nghĩa. Về phương diện con người, chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân
văn, nhân đạo: tất cả vì con người, cho con người và phát triển con người tồn diện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con
người xã hội chủ nghĩa. Để có con người xã hội chủ nghĩa phải xác định và hiện thực
hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu chính đáng của con người trong xã hội xã hội chủ

nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Đối với Việt Nam, hàng nghìn năm dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ
phong kiến, thực dân, nhiều khuynh hướng cứu dân, cứu nước đã được thử nghiệm
nhưng đều không đem lại kết quả cuối cùng mà dân tộc khát khao đạt được. CNXH
là con đường giải phóng nhân loại, nhân dân lao động bị áp bức. Hồ Chí Minh viết:
"Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân
biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đồn kết, ấm no trên quả
đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hịa bình, hạnh phúc, nói tóm
lại là nền cộng hịa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho
đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới
hiểu nhau và yêu thương nhau". Hoặc ở dưới dạng tổng hợp hơn, Người cho rằng:
"Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và
tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình". Con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nhân loại nói chung, của Việt Nam nói riêng vừa là một tất yếu của
6

0

0


lịch sử, vừa đáp ứng được khát vọng của những lực lượng tiến bộ xã hội trong quá
trình đấu tranh tự giải phóng mình. Cách định nghĩa chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản như trên thường được Người sử dụng thời kỳ trước năm 1954, khi chủ nghĩa xã
hội là xu thế tất yếu mà quá trình cách mạng Việt Nam cần đạt tới.
1.2.3.

Sự ra đời của CNXH là một yếu tố tất yếu đạo đức xã hội

Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng, từ

rất sớm và xuyên suốt cuộc đời cách mạng của mình. Cuốn sách Đường cách mệnh
năm 1927 không phải là một chuyên luận về vấn đề đạo đức cách mạng, nhưng ở
trang đầu cuốn sách. Người đã nêu lên hai mươi ba điều về tư cách một người cách
mạng, giải quyết ba mối quan hệ: Với mình, với người, với việc. Những thập kỷ bốn
mươi, năm mươi, sáu mươi, Người đều có những bài viết ngắn gọn, súc tích về đạo
đức cách mạng. Trong Di chúc, Người nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực
sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân... Đảng
cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo
họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Người coi đạo đức như gốc của cây, như nguồn của sông, cũng như sơng thì
có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc
thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng
cho lồi người là một cơng việc to tát mà tự mình khơng có đạo đức, khơng có căn
bản, tự mình đã hủ hố, xấu xa thì cịn làm nổi việc gì?” . Vai trị nền tảng của đạo
đức cách mạng được Hồ Chí Minh khẳng định: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ
thành xã hội mới, là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất
nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh
được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
7

0

0


tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” (3) . Đạo đức trở thành
nhân tố quyết định sự thành bại của mọi công việc, phẩm chất mỗi con người: “Mọi

việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuận đạo đức cách mạng, hay
là không”, “Tuy năng lực và công việc mỗi người có khác nhau, người làm việc to,
người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng”.
Người từng khẳng định: “Chúng ta đem tinh thần mà chiến thắng vật chất” (4) . Chỉ
nhìn về vật chất, chỉ nhìn ở hiện tượng, chỉ lấy con mắt hẹp hịi mà xem, thì khơng
giải thích được thắng lợi của ta đối với kẻ thù lớn mạnh. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng
ta theo chủ nghĩa Mác-Lênin, chúng ta khơng những nhìn vào hiện tại mà lại nhìn
vào tương lai, chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân
tộc. Cho nên chúng ta quả quyết trả lời những người lừng chừng và bi quan kia rằng:
“Nay tuy châu chấu đấu voi,
Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra” (5) .
Đạo đức còn “có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ thành một xã hội
mới và xây dựng mỹ tục thuần phong”. “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn
gian khổ, thất bại, cũng khơng sợ sệt, rụt rè, lùi bước…, khi gặp thuận lợi và thành
công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ,
vui sau thiên hạ”…, không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan
liêu, khơng kiêu ngạo khơng hủ hố”.
1.2.4.

Sự ra đời của CNXH là một tất yếu của văn minh nhân loại

Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong thời kỳ rất dài của
lịch sử trước khi có sự phân chia giai cấp, xã hội lồi người khơng có áp bức, bóc
lột, đấu tranh.
Tuy nhiên, từ khi xuất hiện giai cấp, nhà nước xuất hiện, chế độ người áp bức
bóc lột người cũng xuất hiện và từ đó dẫn đến những cuộc đấu tranh phản kháng của
những người nô lệ chống lại giai cấp chủ nô (từ khoảng thế kỷ thứ VII trước Công
nguyên đến khoảng thế kỷ III sau Công nguyên).
8


0

0


Chế độ chiếm hữu nô lệ tan rã, lịch sử loài người chuyển sang chế độ phong
kiến (từ khoảng thế kỷ thứ III sau Công nguyên đến khoảng thế kỷ XVIII). Mặc dù
có nhiều tiến bộ so với chế độ chiếm hữu nơ lệ, nhưng tình trạng áp bức bóc lột
không những không mất đi mà ngày càng sâu sắc, minh chứng bởi nhiều cuộc khởi
nghĩa của nông nô chống lại chuyên chế phong kiến trải qua hàng ngàn năm lịch sử.
Khi chế độ tư bản chủ nghĩa được xác lập, giai cấp tư sản với tư cách là giai cấp
thống trị đã thể hiện mọi thủ đoạn của các giai cấp bóc lột đã có trong lịch sử dưới
vỏ bọc và thủ đoạn tinh vi hơn nhằm áp bức, bóc lột, tước đoạt và nơ dịch lao động
của quần chúng nhân dân lao động. Người lao động khơng cịn giới hạn nào là khơng
bị bóc lột, dẫn đến sự tha hóa lao động trong xã hội tư bản.
Người cơng nhân mất đi niềm đam mê, sự sáng tạo, động lực lao động, họ
không quan tâm đến hiệu quả sản xuất và sâu xa hơn nữa là, tạo ra sự bất bình đẳng
ngày càng tăng về tài sản cũng như đào sâu thêm cái vực thẳm giữa lao động và tư
bản.Nguyên nhân là do “người công nhân ngày càng tạo ra nhiều hàng hóa, anh ta
lại trở thành một hàng hóa càng rẻ mạt. Thế giới vật phẩm càng tăng thêm giá trị thì
thế giới con người càng mất giá trị”. Người công nhân không cảm thấy sung sướng
mà lại cảm thấy khổ sở vì họ khơng phát huy được lao động tự do sáng tạo của mình
trong lao động mà chỉ làm kiệt quệ thân thể mình. Trong xã hội tư bản, lao động của
người công nhân không giúp họ khẳng định mình mà ngược lại.
Do vậy, việc phủ định chế độ áp bức bóc lột trong chủ nghĩa tư bản nói riêng,
xã hội lồi người nói chung là tất yếu. Đó là q trình phủ định biện chứng để xã hội
loài người quay trở về điểm xuất phát ban đầu, nhưng ở trình độ cao hơn, theo mơ
hình: [xã hội cộng sản ngun thuỷ (khơng có áp bức, bóc lột) - xã hội (chiếm hữu
nơ lệ, phong kiến, tư bản - xuất hiện áp bức, bóc lột, tha hóa - là sự phủ định xã hội
khơng áp bức bóc lột) - xã hội cộng sản chủ nghĩa (khơng có áp bức, bóc lột - phủ

định của phủ định)].
9

0

0


Khi nói về tính tất yếu ra đời chủ nghĩa xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen viết:
“Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo
ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa
cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện
của phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra”.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về sự phát
triển tất yếu của xã hội lồi người theo các hình thái kinh tế - xã hội.
Trong lịch sử cận đại và hiện đại, sự phát triển của dân tộc Việt Nam đã được
trải nghiệm qua các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Các cuộc đấu tranh giành
độc lập dân tộc để xây dựng lại một chế độ phong kiến (Cần Vương), hoặc để xây
dựng một chế độ cộng hòa đại nghị tư sản (theo hệ tư tưởng tư sản) đã bị bế tắc.
Với điều kiện lịch sử mới, con đường phát triển của dân tộc Việt Nam là độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Điều này chính là sự lựa chọn đúng đắn
của Hồ Chí Minh và thực tế chứng minh con đường phát triển đó của dân tộc Việt
Nam là tất yếu, duy nhất đúng, hợp với điều kiện của Việt Nam và phù hợp với xu
thế tất yếu của thời đại.
Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, khi đã tin theo kết luận về chủ
nghĩa cộng sản khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã khẳng định
rằng: "chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không
phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình dân, bác ái. đồn kết, ấm no trên
quả đất, việc làm cho mọi người và vì người, niềm vui, hịa bình, hạnh phúc, nói tóm
lại là nền cộng hịa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho

đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới
hiểu nhau và yêu thương nhau":.
1.3.

Quan niệm của HCM về đặc trưng, bản chất của CNXH

10

0

0


Đặc trưng, bản chất tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo Hồ Chí
Minh, cũng trên cơ sở của lý luận Mác - Lênin, nghĩa là trên những mặt về chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, về cụ thể Người đã nhấn mạnh những điểm:
Thứ nhất, về chính trị: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có chế độ dân chủ.
Chế độ dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa được thể hiện trước hết là xã hội
do nhân dân làm chủ, nhân dân là chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trên nền
tảng liên minh công - nông. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, địa vị cao nhất là nhân
dân. Nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Mọi quyền lợi, quyền lực, quyền hạn
thuộc về nhân dân và mọi hoạt động xây dựng, bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ xã
hội cũng thuộc về nhân dân.
Những tư tưởng cơ bản về đặc trưng chính trị trong xã hội xã hội chủ nghĩa
nêu lên không chỉ cho thấy tính nhân văn cao cả của Hồ Chí Minh mà cịn cho thấy
Hồ Chí Minh nhận thức rất sâu sắc về sức mạnh, địa vị và vai trò của nhân dân; về
sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội khi Đảng lãnh đạo dựa vào nhân dân, huy động
được nhân lực, tài lực, trí lực cho nhân dân để đem lại lợi ích cho nhân dân.
Thứ hai, về kinh tế: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ

yếu.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ
nghĩa tư bản nên xã hội xã hội chủ nghĩa phải có nền kinh tế phát triển cao hơn nền
kinh tế của chủ nghĩa tư bản, đây là nền kinh tế dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ sở hữu tư liệu sản xuất tiến bộ.
Lực lượng sản xuất hiện đại trong chủ nghĩa xã hội biểu hiện: Công cụ lao
động, phương tiện lao động trong quá trình sản xuất đã phát triển dần đến máy móc,
sức điện, sức nguyên tử”. Quan hệ sản xuất trong xã hội xã hội chủ nghĩa được Hồ
Chí Minh diễn đạt là: Lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng, v.v... làm của chung; là tư
11

0

0


liệu sản xuất thuộc về nhân dân. Đây là tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ cơng hữu
tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, về văn hóa, đạo đức và các quan hệ xã hội: Xã hội xã hội chủ nghĩa
có trình độ phát triển cao về văn hoá và đạo đức, bảo đảm sự công bằng, hợp lý trong
các quan hệ xã hội
Văn hóa, đạo đức thể hiện ở tất cả các lĩnh vực của đời sống song trước hết là
ở các quan hệ xã hội. Sự phát triển cao về văn hóa và đạo đức của xã hội xã hội chủ
nghĩa thể hiện: xã hội khơng cịn hiện tượng người bóc lột người; con người được
tơn trọng, được bảo đảm đối xử cơng bằng, bình đẳng và các dân tộc đồn kết, gắn
bó với nhau.
Hồ Chí Minh cho rằng: Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới “chú ý xem xét mang lợi
ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn”; chỉ ở trong chế độ xã hội
chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát
huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình”.

Chủ nghĩa xã hội là cơ sở, là tiền đề để tiến tới chế độ xã hội hịa bình, đồn
kết, ấm no, tự do, hạnh phúc, bình đẳng, bác ái, việc làm cho mọi người và vì mọi
người; khơng cịn phân biệt chủng tộc, khơng cịn gì có thể ngăn cản nhưng người
lao động hiểu nhau và thương yêu nhau.
Chủ nghĩa xã hội bảo đảm tính cơng bằng và hợp lý trong các quan hệ xã hội.
Đây là xã hội đem lại quyền bình đẳng trước pháp luật cho mọi công dân; mọi cộng
đồng người đồn kết chặt chẽ trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ; ai cũng
phải lao động và ai cũng có quyền lao động, ai cũng được hưởng thành quả lao động
của mình trên nguyên tắc làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, khơng làm
thì khơng hưởng, tất nhiên là trừ những người chưa có khả năng lao động hoặc khơng
cịn khả năng lao động.
Thứ tư, về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội là cơng trình
tập thể của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
12

0

0


Từ xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã hội tư bản chủ nghĩa, cuộc đấu tranh của
người lao động luôn diễn ra ngày càng quyết liệt nhằm thủ tiêu chế độ người bóc lột
người. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa - chế độ của nhân dân, do nhân dân làm chủ
lợi ích của cá nhân gắn liền với lợi ích của chế độ xã hội nên chính nhân dân là chủ
thể, là lực lượng quyết định tốc độ xây dựng và sự vững mạnh của chủ nghĩa xã hội.
Trong sự nghiệp xây dựng này, Hồ Chí Minh khẳng định “Cần có lãnh đạo của một
đảng cách mạng chân chính của giai cấp cơng nhân, tồn tâm tồn ý phục vụ nhân
dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa
Mac-Lenin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải
phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công".


13

0

0


CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG VÀO VIỆC XÂY DỰNG NIỀM TIN, LÝ TƯỞNG
CHO SINH VIÊN HIỆN NAY
2.1. Thực trạng về niềm tin, lý tưởng của sinh viên hiện nay.
Thế hệ trẻ là một lực lượng xã hội đặc biệt, có vai trò rất quan trọng trong lịch
sử, trong các giai đoạn cách mạng cũng như trong hiện tại và tương lai. Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng ta ln quan tâm, chăm lo giáo dục, rèn luyện, phát huy vai trò
xung kích, sáng tạo của họ vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Lý tưởng quyết định sự thành công của con người trong cuộc sống. Lý tưởng
dẫn dắt sự nghiệp, tăng thêm sức mạnh cho con người để đạt thành công. Vì vậy,
cuộc sống cần có lý tưởng để dẫn đường, nhất là với những người trẻ, đang ở độ tuổi
đẹp nhất của đời người, giàu nhiệt huyết và khát vọng cống hiến. Mỗi người, mỗi thế
hệ đều có một lý tưởng riêng của mình, một mục đích cao đẹp để suốt đời phấn đấu
thực hiện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Thanh niên là bộ phận của dân
tộc. Dân tộc bị nơ lệ thì thanh niên cũng bị nơ lệ. Dân tộc được giải phóng, thanh
niên mới được tự do. Vì vậy, “thanh niên phải hăng hái tham gia cuộc đấu tranh của
dân tộc... phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh. Cho
nên, lý tưởng cách mạng của thanh niên không tách rời lý tưởng của Đảng, của dân
tộc.Lý tưởng xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Bước vào công cuộc đổi mới, trong điều kiện của cơ chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, lý tưởng cách mạng

của thanh niên là tiếp tục phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều đó đúng với câu nói "Đâu
cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên".
Vì vậy, niềm tin của thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay, vẫn tiếp nối ngọn lửa từ
thế hệ cha anh, là niềm tin cách mạng, niềm tin vào sự nghiệp của Đảng và nhân dân.
14

0

0


Niềm tin cách mạng là sự hòa quyện giữa nhận thức lý tưởng với tình cảm và ý chí,
trở thành động lực tinh thần giúp thanh niên vượt qua mọi khó khăn, thử thách, ra
sức phấn đấu theo con đường, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Đặc biệt, trong bối cảnh nước ta đang thực hiện quá độ lên CNXH, khi cái
mới và cũ còn tồn tại đan xen, cái tiến bộ đang dần hình thành và tàn dư của xã hội
cũ chưa bị loại bỏ hồn tồn thì chủ nghĩa cá nhân vẫn có mơi trường, điều kiện thuận
lợi để phát triển với những biểu hiện ngày càng phức tạp và vô cùng tinh vi. Thực tế
này đã được Đảng ta nhận định: “Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ
phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn cịn
nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Ở một
số cơ quan cơng quyền, tình trạng cục bộ địa phương, bè phái, tệ quan liêu, tham
nhũng, xa dân, tư lợi của cơng, chun quyền, độc đốn, hách dịch, lên mặt làm quan
cách mạng,... vẫn diễn ra, đang nổi lên như một vấn nạn, gây bức xúc cho tồn xã
hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn
thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu
lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”… Nguyên

nhân sâu xa, chủ yếu của tình trạng này là do “bản thân những cán bộ, đảng viên đó
thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao
động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hịi,
bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, khơng làm trịn trách nhiệm, bổn phận của mình
trước Đảng, trước dân”. Điều đó dẫn đến một hệ lụy vơ cùng nguy hại: “sự suy thối
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ
là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khơn lường, có thể dẫn tới tiếp tay
hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách
mạng của Đảng và dân tộc”
15

0

0


Hiện nay, một số ít thanh niên ta lại có biểu hiện dao động, hoài nghi, thiếu
tin tưởng vào tư tưởng của Người. Có thể kể ra những biểu hiện ấy là:
Thiếu khát vọng về lý tưởng tốt đẹp. Bất cứ ai cũng đều có một lý tưởng
cho riêng mình. Đó là mục tiêu, cũng là động cơ phấn đấu học tập, lao động để đạt
mục đích đề ra. Với cán bộ, đảng viên thì lý tưởng riêng nằm trong lý tưởng chung
của Đảng là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Mong muốn tột bậc của Bác Hồ là
“độc lập cho Tổ quốc”, “tự do cho đồng bào”, “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành” đã thơi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước. Lý tưởng biểu hiện ra
hành động. Nhiều cán bộ, đảng viên vì thiếu lý tưởng mà làm việc cầm chừng theo
kiểu “trung bình chủ nghĩa”, làm cho xong chuyện, “sáng vác ô đi, tối vác về”, không
dám đổi mới, làm thì sợ sai, sợ mắc khuyết điểm. Trong cơ quan, họ như những cái
bóng, nói như dân gian là nếu “bỏ thì thương, vương thì tội”!
Lười học lý luận, giáo điều, bảo thủ, xơ cứng. Lý luận là ánh sáng soi
đường, không học hoặc học qua loa đại khái, học chống đối thì làm gì có ánh sáng

để mà đi. Nghị quyết Đảng là chủ trương đường lối mà nhiều cán bộ, đảng viên
khơng học nghị quyết, thậm chí khơng biết nội dung nghị quyết thì lãnh đạo được ai
(?). Vì thiếu lý luận nên dẫn tới giáo điều, dựa nhiều kinh nghiệm nên bảo thủ. Trong
khi đó, thực tiễn ở ngày hơm nay thay đổi đến chóng mặt, khơng có cái nhìn của lý
luận khơng thể nắm bắt được bản chất và dự đốn được tình huống.
Tư tưởng của Bác Hồ và chính Người là hiện thân của quan niệm “một tấm
gương sống còn giá trị hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Tâm lý học hiện
đại khẳng định phương pháp giáo dục tốt nhất là giáo dục bằng chính nhân cách nhà
giáo dục. Đảng ta cũng yêu cầu cán bộ, đảng viên lãnh đạo bằng cách nêu gương.
Thế mà ở một số nơi có cán bộ lại theo đuôi quần chúng, không bằng quần chúng.
Bi quan về chủ nghĩa xã hội, dao động trong suy nghĩ, việc làm. Đến nay,
ai cũng thấy sự đổ vỡ của Liên Xơ (trước đây) là tất yếu vì những sai lầm quá lớn,
nhưng có cán bộ, đảng viên ta chỉ nhìn thấy hiện tượng rồi nghe lời kích động của kẻ
16

0

0


xấu mà có những phát ngơn khơng chỉ ngược với đường lối của Đảng mà còn ngược
cả với đạo lý truyền thống. Cũng vì bi quan mà thu mình lại trong cái vỏ ốc cá nhân
nên có cán bộ né tránh, ngại va chạm, khơng dám đấu tranh, khơng có chính kiến, cơ
hội, đúng kiểu “thấy xơi nói xơi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi” như Bác Hồ từng phê
phán.
Lại có cán bộ đạt được một ít thành tích thì lên mặt thỏa mãn, huênh hoang
cho rằng cơ quan đi lên là nhờ “tài năng” mình lãnh đạo. Họ khơng biết rằng “nước
lên thuyền lên”, cơ quan ấy nằm trong tổng thể công cuộc đổi mới chung của Đảng.
Hơn nữa, dù người ấy có tài thật nhưng cũng cịn nhờ sự ủng hộ của đồng chí, đồng
nghiệp, quần chúng...

2.2. Chính sách của đảng nhà nước về xây dựng niềm tin, lý tưởng cho sinh viên
hiện nay
Trong những năm qua, các trường đại học và cao đẳng trên cả nước đã khơng
ngừng nổ lực phát huy dân chủ trong q trình dạy học và bước đầu đã đạt được
những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, vẫn cịn nhiều vấn đề về dân chủ trong day
học được đặt ra cần giải quyết. Trong bài viết này tác giả tập trung nghiên cứu khái
niệm dân chủ trong dạy học, cơ sở triển khai và những quan điểm để từ đó đưa ra
một số giải pháp nâng cao tinh thần dân chủ cho sinh viên thơng qua các học phần lý
luận chính trị.
Sinh viên là lực lượng xã hội hùng hậu, có sức khoẻ, có trình độ học vấn, có
tiềm năng sáng tạo, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học hiện đại. Trong giai
đoạn cách mạng mới, với bối cảnh thế giới biến động phức tạp, trước những thách
thức to lớn của xu thế tồn cầu hố về kinh tế, sự phát triển của kinh tế tri thức, Đảng
ta khẳng định: Thanh niên là lực lượng xung kích cách mạng, là nguồn nhân lực
quyết định thắng lợi của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Sinh viên là những người có tri thức và nhiệt huyết, là tinh hoa trong giới trẻ
nói chung. Chính vì lẽ đó, sinh viên ln là những người có khả năng nhận thức tốt
17

0

0


hơn, đồng thời nếu có định hướng tốt chắc chắn sẽ trở thành lực lượng lãnh đạo cách
mạng trong mọi thời kỳ cách mạng. Muốn vậy, tất yếu phải xây dựng văn hóa chính
trị cho sinh viên Việt Nam, đáp ứng những yêu cầu của tình hình mới và phù hợp với
đặc thù nền chính trị Việt Nam.
Trong tầng lớp trí thức, sinh viên đóng một vai trị quan trọng. Họ là tiền thân
của lực lượng lao động có chất lượng trong tương lai. Một phần trong số họ sẽ trở

thành những cán bộ, cơng chức nhà nước, thậm chí sẽ là lực lượng lãnh đạo nịng
cốt. Đất nước có trở nên giàu đẹp, văn minh hay khơng chính là nhờ phần lớn sự
đóng góp của lực lượng này – lực lượng có sức khỏe, có trí tuệ, có nhiệt huyết. Tuy
nhiên từ trước tới giờ, chúng ta thường coi sinh viên là lực lượng chính của lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội, chứ chưa nhìn nhận vai trị của sinh viên đối với lĩnh vực
chính trị.
Với đặc điểm riêng của mình, văn hóa chính trị của sinh viên nước ta hiện nay
được xem xét trên 3 khía cạnh:
Về tri thức chính trị: Sinh viên được trang bị một cách có hệ thống tri thức lý
luận chính trị khi ngồi trên ghế giảng đường. Trong tất cả các trường cao đẳng, đại
học ở Việt Nam, sinh viên đều phải học các mơn lý luận chính trị trong 2 năm học
đầu tiên, bao gồm 3 học phần: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam.
Với xuất phát điểm học lực khá cao, sinh viên có khả năng nắm bắt được những
nội dung cơ bản về nền tảng tư tưởng chính trị của hệ thống chính trị Việt Nam. Từ
đó họ trở thành những người được trang bị phông kiến thức nền khá bài bản.
Ngồi ra, sinh viên được học tập ở mơi trường đại học – mơi trường có trình
độ khoa học, văn hóa cao; các trường đại học thường tập trung ở trung tâm các thành
phố, vì vậy sinh viên có điều kiện tiếp cận với các hoạt động kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội nên họ có tri thức chính trị xã hội cao hơn so với các thanh niên cùng lứa
khác.
18

0

0


Về niềm tin chính trị: Với việc được trang bị những kiến thức khá bài bản về
tri thức chính trị, cùng với việc được sinh sống trong một môi trường học tập tích

cực, sinh viên có cơ sở để xây dựng niềm tin chính trị. Cùng với những chính sách
đãi ngộ của Đảng và Nhà nước đối với sinh viên, những hoạt động của các đoàn thể,
hội sinh viên… sẽ dễ dàng hình thành niềm tin và lý tưởng chính trị cho sinh viên.
Bản thân sinh viên là những người khá độc lập về tư duy, họ có tri thức và bản
lĩnh để phân biệt đúng, sai, đồng thời họ là những người trẻ, năng động, hoạt bát, cho
nên khi sinh viên đã có được niềm tin chính trị, thì họ sẽ trở thành lực lượng nòng
cốt trong các hoạt động phong trào.
Về hành vi chính trị: Sinh viên rất hăng hái tham gia các phong trào thi đua
yêu nước, các phong trào đoàn thể khi họ cảm thấy tin tưởng, những phong trào này
có thể diễn ra trên nhiều lĩnh vực của đời sống: văn hóa, giáo dục, kinh tế, chính trị…
Sinh viên là những cơng dân trẻ đầy năng lực và nhiệt huyết, học tập ở các
trung tâm của các tỉnh và các thành phố lớn, họ có điều kiện tham gia các phong trào
do đoàn thể và chính quyền phát động. Đồng thời họ là những cơng dân có trí tuệ, có
trách nhiệm trong những cuộc bầu cử định kỳ bầu đại biểu Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp.
2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc xây dựng niềm tin, lý tưởng
cho sinh viên hiện nay
Sinh viên Việt Nam - những chủ nhân tương lai của đất nước có vị trí và vai
trị rất quan trọng trong xã hội. Song trong những năm gần đây, do ảnh hưởng của
q trình tồn cầu hóa, sự tác động tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị trường,
đã làm xuất hiện nhiều biểu hiện tiêu cực trong lối sống, đạo đức của một bộ phận
không nhỏ sinh viên, nên việc giáo dục đạo đức cho sinh viên đang là vấn đề cấp
thiết, được toàn xã hội quan tâm. Để khắc phục những biểu hiện tiêu cực đó, nhiều
nhà nghiên cứu đã tiến hành các cuộc điều tra xã hội học, tâm lý học, triết học…và
xác định ba chủ thể có vai trị chủ đạo trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên
19

0

0



chính là gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó nhà trường có vai trị hết sức to
lớn trong giáo dục đạo đức cho sinh viên để sau này họ có thể trở thành những cơng
dân tốt, sống có ích cho xã hội.
a) Vai trò của nhà trường trong giáo dục đạo đức cho sinh viên
Giai đoạn đại học là giai đoạn có nhiều biến đổi to lớn cả về tâm sinh lý cũng
như khẳng định sự tích lũy tri thức và vốn sống. Sinh viên phải tự chủ động đưa ra
các quyết định về thái độ, hành động và chịu trách nhiệm về bản thân thay vì nhận
được sự chỉ bảo, bao bọc thường xuyên của gia đình. Sinh viên sẽ tiếp thu và tích lũy
tri thức chuyên ngành, đồng thời mở rộng cơ hội, khả năng sáng tạo và phát huy
những tiềm lực tri thức của mình, sống một cuộc sống mới chủ động hơn, xác lập
các mối quan hệ xã hội, tham gia vào quá trình xã hội hố… Do đó, ngay từ đầu việc
giáo dục nhân sinh quan cho sinh viên là công tác rất quan trọng. Sứ mệnh này thuộc
về nhà trường nhằm giúp cho sinh viên nhanh chóng thích ứng với cuộc sống mới ở
mơi trường đại học, từ đó tạo ra các tiền đề, nền tảng lành mạnh trong sự phát triển
của họ sau này.
Nhà trường là chủ thể chính trong giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên.
Việc bắt buộc phải thực hiện kỷ cương, nề nếp trong dạy và học lúc đầu có thể là yếu
tố khách quan chi phối hành vi, thái độ của sinh viên nhưng dần về sau chúng sẽ trở
thành nguyên tắc sống.
b) Những nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên trong nhà trường hiện nay:
Do những hoạt động của sinh viên thường gắn liền với nhà trường nên các
trường đại học có vai trò chủ đạo nhất trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên.
Mỗi chủ trương, hoạt động của nhà trường đều có tác động trực tiếp đến việc hình
thành thế giới quan và nhân sinh quan mới cho sinh viên bởi những tri thức mà họ
thu nhận được trước đó cịn chưa đầy đủ. Mỗi sinh viên đều có nhu cầu khám phá tri
thức mới, cuộc sống mới, các giá trị mới nên nhà trường càng có vai trị quan trọng
trong định hướng tư tưởng cho họ. Ngay từ những buổi đầu tiên của sinh viên năm
20


0

0


thứ nhất, các trường đại học và cao đẳng đã tiến hành kì học chính trị nhằm bồi dưỡng
cho sinh viên lý tưởng, bản lĩnh, lòng yêu nước, tự hào dân tộc, khơi dậy niềm tin
vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta
đã lựa chọn. Nhờ khóa học này mà mỗi sinh viên thu nhận thêm tri thức về lĩnh vực
chính trị, xã hội. Nhiều sinh viên đã thể hiện mong muốn được đứng trong hàng ngũ
của Đảng để có thể rèn luyện, trưởng thành và cống hiến nhiều hơn nữa cho xã hội.
Kì học này cũng có ý nghĩa lớn trong việc giúp sinh viên nhận thức về tình hình đất
nước, những sự kiện xảy ra trên thế giới để họ có thể xác định quan điểm, thái độ,
khơng để kẻ xấu lợi dụng, kích động, gây mất ổn định chính trị, xã hội.
Ngồi cơng tác giáo dục lý tưởng, nhà trường cũng chú trọng đến công tác
giáo dục truyền thống cho sinh viên như: truyền thống tôn sư trọng đạo, truyền thống
hiếu học, truyền thống hiếu nghĩa, uống nước nhớ nguồn…nhằm giáo dục cho sinh
viên sự hiểu biết và trân trọng, giữ gìn các giá trị văn hóa dân tộc.
Việc giáo dục đạo đức cho sinh viên cũng được gắn liền với việc giáo dục
pháp luật. Sinh viên ngoài việc nắm bắt những nội qui, qui chế nhà trường cịn cần
có những hiểu biết cơ bản về pháp luật, về an tồn giao thơng, phịng chống ma tuý
và các tệ nạn xã hội… Giáo dục cho sinh viên đạo đức và pháp luật có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, giúp họ vừa có ý thức tự giác, chủ động vừa nhận thức được những
giới hạn cụ thể trong thái độ và hành vi của mình.
Giáo dục đạo đức cho sinh viên không thể chỉ ở việc tuân thủ thực hiện những
qui tắc, chuẩn mực cứng nhắc. Nhà trường cũng có vai trị đặc biệt quan trọng trong
việc định hướng, giáo dục những kỹ năng “mềm” để sinh viên có thể xử lý các tình
huống nảy sinh trong cuộc sống một cách tích cực nhất. Để có thể đạt được mục tiêu
như vậy thì nhà trường phải tạo môi trường cho sinh viên sinh hoạt, rèn luyện, phát

triển tồn diện, có sức khoẻ tốt và đời sống tinh thần phong phú lành mạnh. Bên cạnh
đó, nhà trường cũng chú trọng bồi dưỡng thể lực tạo tiền đề vật chất để sinh viên có
thể hồn thành tốt những nhiệm vụ khác như học tập, nghiên cứu và tham gia các
21

0

0


×