Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

(TIỂU LUẬN) buổi thảo luận thứ bảy thừa kế theo pháp luật bộ môn những quy định chung về luật dân sự, tài sản, thừa kế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.45 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HCM
KHOA LUẬT DÂN SỰ

BUỔI THẢO LUẬN THỨ BẢY
THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
Bộ môn: Những quy định chung về Luật dân sự, tài sản, thừa kế.
Giảng viên: Đặng Lê Phương Uyên
Nhóm 2 – Lớp QT46B2
Danh sách sinh viên thực hiện:

Phạm Châu Kim Yến
Trần Thị Ngọc Thúy
Nguyễn Huyền Trâm
Trần Thị Bảo Trâm
Ao Lê Kim Trân
Lê Tường Vy
Triệu Lê Phương Uyên
Nguyễn Thị Phương Thảo
Lê Huỳnh Lam Trà
TPHCM, tháng 03 năm 2022


 Xác định vợ/chồng của người để lại di sản

Tóm tắt bản án:
Bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao tại Hà Nội.
Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Tiến, Nguyễn Thị Bằng, Nguyễn Thị Khiết, Nguyễn Thị Triển
Bị đơn: ông Nguyễn Tất Thăng
Cụ Thát có hai vợ là cụ Tần và cụ Thứ, người vợ thứ nhất có 4 người con là ông Thăng, bà


Bằng, bà Khiết và bà Triển, người vợ thứ hai có 1 người con là bà Tiến. Tài sản đang tranh
chấp bao gồm 5 gian nhà ngói cổ, 2 gian nhà ngang bếp, chuồng trâu, sân, ao, khi chết các cụ
không để lại di chúc nhưng ông Thăng lại cho rằng đây là đất của tổ tiên để lại cho ơng và ơng
đã đứng tên di sản đó nay bà Bằng, bà Khiết, bà Triển, bà Tiến về chia di sản. Tại Tịa án sơ
thẩm thì bác bỏ đơn khởi kiện yêu cầu các nguyên đơn đối với ơng Thăng. Tịa án phúc thẩm
thì hủy bản án dân sự sơ thẩm chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của bên nguyên đơn đối với ông
Thăng về việc yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Thát, cụ Tần, cụ Thứ.
1.1. Điều luật nào của BLDS quy định trường hợp thừa kế theo pháp luật?

Căn cứ theo điều 650 BLDS 2015 (tương ứng với điều 675 BLDS 2005) quy định về:
“Những trường hợp thừa kế theo pháp luật”
1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Khơng có di chúc;  người để lại di sản không lập di chúc hoặc đã từng viết nhưng hủy
bỏ ( hủy bỏ minh thị và hủy bỏ ngầm định)
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di
chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc khơng cịn tồn tại vào thời điểm mở
thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di
sản hoặc từ chối nhận di sản.
2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau

đây: a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc khơng có hiệu lực pháp luật;
c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ khơng có quyền
hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;
liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng khơng cịn tồn tại vào
thời điểm mở thừa kế.
1.2. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong vụ việc
được nghiên cứu.

Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong vụ việc được nghiên cứu là hợp lý bởi lẽ khi cụ
Thát mất năm 1961 cụ Thứ mất năm 1994 các cụ đều không để lại di chúc. Cụ Tần trước khi


mất năm 1995 cũng chỉ dặn dò lại cho bà Bằng ghi chép vào ngày mùng 8 tháng 6 năm 1994
nên căn cứ vào điều 651 BLDS 2005 thì di chúc trên không thỏa mãn các điều kiện được xem
là di chúc miệng hợp pháp do đó theo điểm a, điểm b khoản 1 điều 675 BLDS 2005 di sản
trong vụ việc được nghiên cứu cần phải được chia thừa kế theo pháp luật vì vậy cách xử lý của
Tịa án là hồn tồn hợp lý và có cơ sở.
1.3. Vợ/chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
- Căn cứ theo điểm a khoản 1 điều 651 BLDS 2015 (tương ứng với điểm a khoản 1 điều 676

BLDS 2005) thì vợ chồng thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Trong trường hợp này, có thể thấy, cụ
Thát có hai người vợ, nếu xác định hai người vợ này là vợ hợp pháp của cụ Thát thì cả hai bà
sẽ thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Thát theo cơ sở pháp lý được nêu.
1.4. Cụ Thát và cụ Thứ có đăng ký kết hơn khơng? Vì sao?
- Cụ Thát và cụ Thứ khơng có đăng ký kết hơn vì theo bản án dân sự sơ thẩm các nguyên

đơn trình bày như sau: “Năm 1956 cải cách ruộng đất vì nhiều đất nên bị quy thành phần địa
chủ. Bố mẹ các bà nói với cụ Thứ tố khổ để được chia ½ nhà. Sau đó Nhà nước sửa sai gia đình
các bà được trả lại nhà đất, bố mẹ các bà vẫn chung sống cùng nhau. Như vậy cụ Thát và cụ
Thứ chỉ sống chung như vợ chồng từ năm 1956 chứ không đăng ký kết hôn.”
1.5. Trong trường hợp nào những người chung sống với nhau như vợ chồng nhưng
không đăng ký kết hôn được hưởng thừa kế của nhau? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Theo Nghị quyết số 01/2003/ NQ-HĐTP ngày 16 tháng 04 năm 2003 về hôn nhân thực tế,
quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987 nếu có một bên chết trước thì
bên vợ hoặc bên chồng còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại mốc thời gian này được
lấy từ khi Luật hơn nhân và gia đình năm 1986 bắt đầu có hiệu lực khi đó thì những nam nữ
sống chung như vợ chồng được công nhận hợp pháp được gọi là hôn nhân thực tế cũng theo

Nghị quyết này của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do trường hợp hợp nam nữ
sống chung với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm
2001 và có đủ điều kiện đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn 2 năm từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 đến
ngày 01 tháng 01 năm 2003 do đó đến tháng 01 năm 2003 mà có một bên vợ hoặc một bên
chồng chết thì bên cịn lại được hưởng thừa kế theo pháp luật và thừa kế.

* Hôn nhân thực tế: nam và nữu kết hôn trước 3/1/1987 mà không đăng ký kết hôn (đây là thời
điểm lt hơn nhân gia đình có hiệu lực. Nam và nữu chung sống với nhau như vợ chồng từ 3/1/1987
đến trước 1/1/ 2001 thì họ được cho thời gian 2 năm để bổ sung thủ tục đăng ký kết hôn (nếu sau
khoảng thời gian này mà vẫn không đăng ký thì khơng được cơng nhận là vợ chồng).

1. 6. Ngồi việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với người phụ nữ nào? Đoạn nào
của bán án cho câu trả lời.


- Ngồi sống với cụ Thứ, cụ Thát cịn sống với cụ Tần.
- Đoạn trong bản án cho câu trả lời: "Bố mẹ các bà là cụ Nguyễn Tất Thát có 2 vợ, vợ cả là

cụ Nguyễn Thị Tần, vợ hai là cụ Phạm Thị Thứ. Cụ Thát và cụ Tần có 4 người con chung là:
Nguyễn Tất Thăng, Nguyễn Thị Bằng, Nguyễn Thị Khiết và Nguyễn Thị Triển. Cụ Thát và cụ
Thứ có 1 người con là Nguyễn Thị Tiến."
1.7. Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm 1960
thì cụ Thứ có là người thừa kế của cụ Thát không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm 1960 thì cụ

Thứ không là người thừa kế của cụ Thát.
- Căn cứ vào Điểm a Khoản 4 Nghị Quyết 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990 có định về

trường hợp một người có nhiều vợ hoặc chồng: “Trong trường hợp một người có nhiều vợ

(trước ngày 13-01-1960 ngày cơng bố Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 đối với miền Bắc;
trước ngày 25-3-1977 ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất
trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết
ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì
tất cả các người vợ đều là người thừa kể hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người
chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ."
- Do cụ Thát và cụ Thứ sống với nhau ở Hà Nội, là miền Bắc. Do vậy, để cụ Thứ là người

thừa kế của cụ Thát thì hai cụ phải sống với nhau trước ngày 13-01-1960. Trong trường hợp
này vì hai cụ sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm 1960 nên sẽ không được công nhận là
người thừa kế của cụ Thát.
 Cụ Thứ không được nhận thừa kế do vi phạm quy tắc 1 vợ 1 chồng

1.8. Câu trả lời cho câu hỏi trên có khác khơng khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền
Nam? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Nếu cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền Nam thì câu trả lời sẽ khác đi. Bởi căn cứ Điểm a

Khoản 4 Nghị Quyết 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990 có định về trường hợp một người
có nhiều vợ hoặc chồng: “Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960
ngày cơng bố Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977
ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với
miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà
việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ
đều là người thừa kể hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa
kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ."
- Trong trường hợp này, nếu cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền Nam và bắt đầu sống với nhau như

vợ chồng vào cuối năm 1960 thì cụ Thứ vẫn là người thừa kế của cụ Thát. Vì 2 cụ sống với



nhau như vợ chồng trước 25-3-1977 thì vẫn được xem là người thừa kế của nhau, phù hợp với
điều kiện ở Điểm a Khoản 4 Nghị Quyết 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990.
1.9. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ
Thát.
- Về việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ Thát là hoàn toàn hợp lý.
- Căn cứ Điểm a Khoản 4 Nghị Quyết 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990 có định về

trường hợp một người có nhiều vợ hoặc chồng: “Trong trường hợp một người có nhiều vợ
(trước ngày 13-01-1960 ngày cơng bố Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 đối với miền Bắc;
trước ngày 25-3-1977 ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất
trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết
ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì
tất cả các người vợ đều là người thừa kể hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người
chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ."
- Trên thực tế, hai cụ đã chung sống với nhau như vợ chồng trước năm 1960, và có sự xác

nhận từ họ hàng, hàng xóm cụ thể là cụ Nguyễn Xuân Chi, ông Nguyễn Văn Chung, ông
Nguyễn Hoàng Đăm đều khẳng định cụ Thứ là vợ hai của cụ Thát. Vậy việc Tòa án thừa nhận
cụ Thứ là người thừa kế của cụ Thát là hợp lý và đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp cho cụ
Thứ.


Xác định con của người để lại di sản

2.1. Con nuôi của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
Con nuôi của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
Căn cứ vào: Điểm a, khoản 1 Điều 651 BLDS 2015: Người thừa kế theo pháp luật
“a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.”

2.2. Trong trường hợp nào một người được coi là con nuôi của người để lại di sản? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ Điều 653 BLDS 2015 quy định “con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản
của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này. ”
Đồng thời, việc nhận nuôi con phải thỏa mãn các yếu tố dưới đây theo quy định của pháp luật:
Thứ nhất, về điều kiện nhận con nuôi theo đúng pháp luật quy định
Người nhận con nuôi và phải đủ điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật con nuôi
2010 như sau:


“1. Người nhận con ni phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;
c) Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục
con ni;
d) Có tư cách đạo đức tốt.”
Về điều kiện nhận ni con nuôi được quy định tại Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm 2010
như sau:
2. Những người sau đây không được nhận con nuôi:
a) Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
b) Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh;
c) Đang chấp hành hình phạt tù;
d) Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân
phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu,
người có cơng ni dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi
phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
3. Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con

ni hoặc cơ, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con ni thì khơng áp dụng quy định tại
điểm b và điểm c khoản 1 Điều này."

Căn cứ Điều 8 Luật con nuôi 2010 quy định về người được nhận làm con nuôi như sau:
Trẻ em dưới 16 tuổi;
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con ni;
+ Được cơ, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.
=> Như vậy, ngay cả khi bên nhận nuôi con và bên được nhận nuôi đáp ứng theo quy định
của pháp luật thì họ phải nộp hồ sơ lên Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục đăng
ký nhận con nuôi. Sau khi làm xong thủ tục và được cấp Giấy xác nhận làm con nuôi thì về
phương diện pháp lý, con ni sẽ được hưởng di sản thừa kế theo đúng pháp luật.
2.3. Trong Bản án số 20, bà Tý có được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con nuôi không?
Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
- Trong Bản án số 20, bà Tý được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con nuôi.
- Câu trả lời trên được thể hiện rõ ở đoạn mà các nguyên đơn trình bày: “...Các Bà có nghe

nói trước đây bố mẹ các bà có nhận bà Nguyễn Thị Tý là con ni,sau đó bà Tý về với bố mẹ
đẻ và đi lấy chồng.”; và đoạn: “Anh Trần Việt Hùng, chị Trần Thị Minh Phượng, chị Trần Thị
Hồng Mai, chị Trần Thị Hoa trình bày: “Mẹ đẻ của các anh chị là bà Nguyễn Thị Tý trước đây
có là con ni cụ Thát và cụ Tần trong thời gian khoảng 6 đến 7 năm, sau đó bà Tý về nhà mẹ
đẻ sinh sống.”


2.4. Tịa án có coi bà Tý là con ni của cụ Thát và cụ Tần không? Đoạn nào của bản
án cho câu trả lời.
- Tịa án khơng cơng nhận bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần.
- Đoạn của bản án cho câu trả lời: “Tại bản án dân sự sơ thẩm số 28/2008/DS-PT ngày

29/4/2008 của TAND thành phố Hà Nội xác định bà Nguyễn Thị Tý Không phải là con nuôi cụ
Thát, cụ Tần, cụ Thứ.”
Và đoạn: “Hàng thừa kế thứ nhất của cụ Thác gồm 7 người: cụ Tần, cụ Thứ, ông Thăng, bà
Bằng, bà Triển,bà Khiết, bà Tiến …”

Tịa án khơng cơng nhận bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần vì căn cứ vào Điểm a,
khoản 1 Điều 651 BLDS 2015: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm có con ni của người chết.” thì
bà Tý phải thuộc hàng thừa kế thứ nhất của hai cụ. Khi tòa án đưa ra nhận định quyết về người
thừa kế thì Tịa án đã khơng đề cập đến bà Tý do đó chúng ta có thể suy ra là Tịa án đã khơng
cơng nhận bà tý là con nuôi.
..

2.5. Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tý.
- Hướng giải quyết của tòa án liên quan đến bà Tý là hợp lý. Trong lý lịch của cụ Thác cụ

Tần không ghi nhận bà Tý là con nuôi như vậy quan hệ con nuôi này không được đăng ký tại
cơ quan có thẩm quyền.
Trong thực tiễn nếu việc nuôi con nuôi chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn thì khơng
đủ cơ sở để xác định đó là con ni trên thực tế. Việc bà tý chỉ là con ni trong vịng 6 đến 7
năm liên liên quan đến tư cách hưởng thừa kế Tòa án đã theo hướng xác định bà Nguyễn Thị
Tý Không phải là con nuôi của cụ Thát cụ Tần là hợp lý.
2.6. Trong Quyết định số 182, Tòa án xác định ông Tùng được hưởng thừa kế với tư
cách nào? Vì sao?
- Trong Quyết định số 182, Tòa án xác định anh Tùng được hưởng thừa kế với tư cách là

con ni, là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất vì ông Tùng được các cụ cao tuổi trong làng xác
nhận là ở với hai cụ Phạm Ngọc Cầu và cụ Nguyễn Thị Ngọc Dung từ năm 2 tuổi (do cha mẹ
ông Tùng chết sớm và hai cụ là bà con họ hàng). Như vậy ông Tùng đã ở với hai cụ từ năm
1951 và cũng là người phụng dưỡng, chăm sóc hai cụ khi già yếu, khi hai cụ chết ông Tùng là
người lo mai táng cho hai cụ.
2.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án liên quan đến anh Tùng.
- Hướng xác định trên của Tòa án liên quan đến anh Tùng là hợp lý vì hai cụ nhận anh Tùng

là con ni đã được xác lập từ năm 1951 và được xác lập trước khi có Luật Hơn nhân và Gia
đình năm 1986 nên đây được xem là trường hợp con nuôi thực tế theo Nghị quyết số 01 ngày

20/1/1988 của Tòa án nhân dân tối cao.


- Cơ sở pháp lý: Điều 34. 35, 36, 37 Luật Hơn nhân Gia đình 1986
- Tuy nhiên trước khi luật này được ban hành thì những quy định về việc nhận con nuôi

chưa được xác định đầy đủ nên việc nhận nuôi con nuôi trước khoảng thời gian trên vẫn có
hiệu lực pháp lý trừ việc nhận ni con ni trái mục đích xã hội như ni con ni để bóc lột
sức lao động, hay lợi dụng con ni vào những hoạt động phạm pháp. Nếu việc nuôi con nuôi
trước đây chưa được ghi nhận vào sổ hộ tịch nhưng việc nuôi con nuôi đã được mọi người
công nhận và cha mẹ nuôi đã thực hiện nghĩa vụ đối với con ni và ngược lại thì việc ni
con ni vẫn có những hậu quả pháp lý như luật định. Bên cạnh đó, theo lời khai của ơng Tùng
trong bản án: “ Cụ Cầu là bác của ơng. Ơng được cụ Cầu, cụ Dung nuôi dưỡng từ nhỏ và ở
cùng hai cụ trong ngôi nhà lá mái gắn liền với diện tích đất 3.127m2 (hiện bà Nga đang tranh
chấp) từ trước năm 1975. Hai cụ chỉ có một mình bà Nga, bà Nga ở với hai cụ đến năm 1962
thì đi công tác và ở xa nhà nên ông là người trực tiếp nuôi dưỡng hai cụ và khi hai cụ chết ơng
cũng là người lo mai táng.”
2.8. Nếu hồn cảnh tương tự như trong Quyết định số 182 xảy ra sau khi có Luật hơn
nhân và gia đình năm 1986, anh Tùng có được hưởng thừa kế của cụ Cầu và cụ Dung
khơng? Vì sao?
- Nếu hồn cảnh tương tự trong Quyết định 182 xảy ra khi có Luật hơn nhân và gia đình

năm 1986, anh Tùng khơng được hưởng thừa kế của cụ Cầu và cụ Dung. Vì trong Luật hơn
nhân và gia đình năm 1986, theo Điều 37: “Việc nhận nuôi con nuôi do Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn nơi thường trú của người nuôi hoặc con nuôi công nhận và ghi vào sổ hộ tịch”.
Trong bản án, việc nhận anh Tùng là con nuôi không được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị
trấn nơi thường trú công nhận và ghi vào sổ hộ tịch, dù cho anh Tùng đã được hai cụ nuôi
dưỡng từ nhỏ, khi hai cụ già yếu, anh là người phụng dưỡng, chăm sóc hai cụ và là người mai
táng khi hai cụ chết thì anh Tùng vẫn khơng được hưởng thừa kế của cụ Cầu và cụ Dung.
2.9. Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ mấy của người để lại di sản? Nêu cơ sở pháp lý khi

trả lời.
- Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản.
Cơ sở pháp lý: Căn cứ vào điểm a, khoản 1, điều 651 quy định về người thừa kế theo pháp
luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con

nuôi của người chết.
2.10. Đoạn nào của bản án cho thấy bà Tiến là con đẻ của cụ Thát?


- Đoạn đầu: “ Cụ Thát và cụ Thứ có 1 người con là Nguyễn Thị Tiến. Theo các nguyên đơn

và bà Khiết thì cụ Thát có vợ hai là cụ Thát và bà Tiến là con cụ Thát. Nhưng ông Thăng không
đưa ra được chứng cứ nào chứng minh cụ Thứ không phải là vợ cụ Thát. Án sơ thẩm căn cứ
vào lý lịch của bà Tiến có xác nhận của chính quyền địa phương thì bà Tiến là con cụ Thát và
em ông Thăng, bà Bằng, bà Khiết,bà Triển cũng như xác nhận của họ hàng, hàng xóm khẳng
định cụ Thứ là vợ cụ Thát và bà Tiến là con của cụ Thứ, cụ Thát.”
2.11. Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tiến?
- Hướng giải pháp trên của Tòa án được xem là hợp lí vì căn cứ bà Tiến xuất trình được lý

lịch và giấy khai sinh có bố là cụ Thất và mẹ là cụ Thứ, do ủy ban nhân dân phường Xn La
cấp. Vì lí do trên nên bà Tiến đủ tư cách để nhận di sản theo Điều 651 người thừa kế theo pháp
luật Bộ Luật Dân sự 2015.
2.12. Có hệ thống pháp luật nước ngồi nào xác định con dâu, con rể là người thừa kế
của cha mẹ chồng, cha mẹ vợ khơng? Nếu có, nêu hệ thống pháp luật mà anh /chị biết.
- Hệ thống pháp luật ở nước Nga:
+ Theo pháp luật nước Nga thì tại Điều 1142, Điều 1143, Điều 1144 thì những người thừa

kế sau chỉ được hưởng thừa kế , nếu khơng cịn ai ở hàng thừa kế trước hưởng di sản thừa kế

(giống khoản 2 Điều 676 BLDS 2005 của Việt Nam).
+ Những người thừa kế cùng hàng được chia phần bằng nhau (Điều 1146 BLDS Liên bang

Nga ) cũng áp dụng các qui định về thừa kế vị đối với các hàng thừa kế (Điều 1146 BLDS Liên
bang Nga) , đồng thời khi quy định về thừa kế thế vị thì pháp luật nước nga quy định người
thừa kế hợp pháp bị tước quyền thừa kế thì khơng được thừa kế vị (khoản 2 Điều 1146 BLDS
Liên Bang Nga ). Ba hàng thừa kế đầu bao gồm những người theo trình tự ưu tiên hưởng di sản
tương tự như Điều 679 của nước ta ( Điều 1142-1144). Những hàng thừa kế sau họ áp dụng
phương pháp tính bậc tương tự như của nước cộng hòa Pháp để xác định mối quan hệ thân
thuộc của những người thân thích khác đối với người chết. Qua đó họ xác định những người
thừa kế ở ba hàng sau bao gồm (Điều 1145- BLDS Nga - Hàng thừa kế thứ 4 bao gồm những
thân thích bậc 3.
- Hàng thừa kế thứ 5 bao gồm những thân thích bậc 4
- Hàng thừa kế thứ 6 bao gồm những thân thích bậc 5
- Hàng thừa kế thứ bảy là những người ko có mối quan hệ huyết thống với người chết là :

con riêng, bố dượng, mẹ kế, con rể, con dâu…..



Con riêng của vợ /chồng:


3.1. Bà Tiến có phải là con riêng của chồng cụ Tần khơng? Vì sao?
- Bà Tiến là con riêng của Chồng cụ Tần . Bởi vì bà Tiến đưa ra được những minh chứng

chứng minh rằng bà là con của cụ Thát. Bởi vì trước đó cụ Thát có vợ là cụ Tần và đã có 4
người con là ông Thăng, bà Bằng , bà Khiết và bà Triển, và sau đó theo ngun đơn thì cụ Thát
có vợ hai là bà Thứ có 1 người con riêng là bà Tiến. Bà Tiến cũng đã xuất trình được lý lịch và
giấy khai sinh chính do Ủy ban nhân dân phường Xuân La cấp ghi bà Tiến có bố là Nguyễn

Tấn Thát, mẹ là Phạm Thị Thứ . các nhân chứng như cụ Nguyễn Xu
ân Chi, ông Nguyễn Văn Chung và ơng Nguyễn Hồng Đăm đều khẳng định cụ Thứ là vợ
thứ hai của cụ Thát, bà Tiến là con của cụ Thát và cụ Thứ.
3.2. Trong điều kiện nào con riêng của chồng được thừa kế di sản của vợ? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời?
- Căn cứ Điều 654 BLDS 2015 quy định về Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng,

mẹ kế: “Điều 654. Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế
Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, ni dưỡng nhau nhưcha con, mẹ
con thì được thừa kế di sản của nhau và cịn được thừa kế di sản theoquy định tại Điều 652 và
Điều 653 của Bộ luật này.”
=> Như vậy, trong điều kiện con riêng của chồng có quan hệ chăm sóc, ni dưỡng nhau như
mẹ con thì được thừa kế di sản của vợ.
3.3. Bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần khơng? Vì sao?
- Bà Tiến không đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần. Căn cứ Điều 654 BLDS

2015 về “Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế” thì khơng có đủ cơ sở để xác
nhận cụ Tần coi bà Tiến như con. Trong bản án không đề cập đến việc bà Tiến chăm sóc hay
ni dưỡng cụ Tần, mặc dù có đề cập đến việc bà Tần có để lại lời dặn dị chia đất cho bà Tiến
được bà Bằng ghi lại nhưng khơng đủchứng cứ để xác minh.
3.4. Nếu bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng di sản thừa kế của cụ Tần thì bà Tiến được
hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ mấy của cụ Tần? Nêu cơ sợ pháp lý khi trả lời.
- Nếu bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng di sản thưa kế của cụ Tần thì bà Tiến được hưởng

thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của cụ Tần.
- Căn cứ Điều 654 BLDS 2015: “Điều 654. Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ

kếCon riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, ni dưỡng nhau như cha con, mẹ
con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và
Điều 653 của Bộ luật này”.



Căn cứ Điều 653 BLDS 2015: “Điều 653. Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ
nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ
Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kếdi sản theo
quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này”.
Căn cứ tại điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015:
“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ cha nuôi, mẹ nuôi,con đẻ, con nuôi

của người chết”.
3.5. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tịa án khơng thừa nhận tư cách thừa kế của bà Tiến
đối với di sản của cụ Tần.
- Về việc Tịa án khơng thừa nhận tư cách thừa kế của bà Tiến đối với di sản của cụTần như

vậy là hoàn toàn đúng, hợp lý.
-Theo Điều 654 BLDS 2015: “Điều 654. Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ
kếCon riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, ni dưỡng nhau như cha con, mẹ
con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và
Điều 653 của Bộ luật này”.
3.6. Suy nghĩ của anh/chị (nếu có) về chế định thừa kế có liên quan đến hồn cảnh của
con riêng của vợ/chồng trong BLDS hiện nay.
- Về quan hệ thừa kế giữa con riêng của vợ/ chồng hiện nay quy định tại Điều 654 BLDS

2015: “Điều 654. Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế
Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, ni dưỡng nhau như cha con, mẹ
con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và
Điều 653 của Bộ luật này”.
Trong BLDS có đưa ra ba hàng thừa kế nhưng cả ba hàng thừa kế đều không đề cập về con

riêng của vợ chồng đối với bố dưỡng, mẹ kế mà cũng không liệt kê bố dượng, mẹ kế đối với
thừa kế của con riêng vợ chồng. Chế định thừa kế nên quy định con riêng vợ chồng nếu có
quan hệ chăm sóc, ni dưỡng như cha con, mẹ con thì nên xác định rõ thừa kế theo hàng thứ
nhất và nên coi họ như người con đẻ, con nuôi của người chết.



Thừa kế thế vị và hàng thừa kế thứ hai, thứ ba


Tóm tắt bản án:
Bản án số 69/2018/DSPT ngày 09/3/2018 về nội dung yêu cầu công nhận quyền thừa kế và
tranh chấp di sản thừa kế của TANDCC tại HN.
Nguyên đơn là anh Thiều Văn C1 (Người đại diện theo ủy quyền là Phan Văn C2).
Bị đơn Đỗ Quang V (Người đại diện theo ủy quyền là ông Trần hậu Đ).
Bà Đỗ Thị T5 khơng lấy chồng nhưng có 1 đứa con nươi là Đỗ Đức Phương C3. Anh Thiều
Văn C1 kết hơn hợp pháp với chị C3 có con chung là cháu Thiều Thị Thùy T7 (sinh năm 2002)
và Thiều Đỗ Gia H4 (sinh năm 2004). Chị C3 (chết năm 2007), bà T5 (Chết 2009) cả hai
không để lại di chúc. Di sản bà T5 để lại là thửa đất số 203, tờ bản đồ số 12, diện tích 127,3m2
tại khối 7 (tổ 12 cũ), phường L, thành phố H. Ngày 1/8/2005, bà được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AC 188680, trên đất có ngơi nhà cấp 4 và tài sản khác gắn liền với đất.
Năm 2011, anh C1 về sửa lại nhà và làm thủ tục khai nhận thừa kế cho hai cháu T7, H4 đối với
di sản do bà T5 để lại nhưng ông Đỗ Quang V (cháu ruột bà Tân) ngăn cản vì nhà đất nêu trên
có nguồn gốc UBND thị xã H cấp cho cụ M và cụ L là ông bà nội ông V; bà T5 không có
chồng ở cùng 2 cụ, khi hai cụ chết bà T5 là ng quản lí di sản, năm 1997 bà T5 bán 1 phần đất
(114m2) cho bà Phan Thị Thanh T8; Chị C3 không phải là con ni hợp pháp vì khơng có cấp
chính quyển nào thừa nhận nên ko có quyền thừa kế tài sản.
Vì vậy, anh C1 (đại diện hợp pháp của T7 và H4) khởi kiện yêu cầu giải quyết về quyền thừa
kế tài sản giữa anh và ông V đồng thời cơng nhận quyền thừa kế tồn bộ di sản T5 của T7 và
H4. Tại bản án số 42/2015/DSST ngày 29/12/2015 của TAND thành phố H chấp nhận yêu cầu

nguyên đơn và bác bỏ yêu cầu bị đơn. Sau án sơ thẩm, bị đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm. Bản án số 20/2016/DSPT ngày 03/6/2016 TAND tỉnh H chấp nhận kháng cáo của bị đơn
hủy bản án sơ thẩm nêu trên. Tại bản án 03/2017/DSST ngày 14/6/2017 của TAND tỉnh H chấp
nhận yêu cầu của bị đơn, bác kháng cáo của nguyên đơn, hủy 1 phần quyết định của UBND thị
xã H liên quan đến việc cấp giấy chứng nhân quyền sử dụng đất của bà T5, tạm giao cho ơng V
và bà T2 quản lí đất và tài sản gắn liền với đất. Sau án sơ thẩm, nguyên đơn kháng cáo toàn bộ
bản án sơ thẩm. Tại phiên tịa phúc thẩm ngày 09/3/2018, ơng Đ xác định căn nhà câos 4 là của
con cháu cụ M và L xây dựng không phải của bà T5.
4.1. Trong vụ việc trên, nếu chị C3 cịn sống, chị C3 có được hưởng thừa kế của cụ T5
khơng? Vì sao?
- Trong vụ việc trên, nếu chị C3 cịn sống, chị C3 có được hưởng di sản thừa kế của bà T5.

Mặc dù chị C3 không là con nuôi hợp pháp của bà T5 vì khơng được cấp chính quyền nào xác
nhận, tuy nhiên mỗi quan hệ mẹ con nuôi được xác nhận trên thực tế bởi các đương sự có liên
quan và căn cứ trên hộ khẩu của bà T5. Vì thế chị C3 là con nuôi của bà T5 được pháp luật
công nhận. Điểm a Khoản 1 Điều 651 BLDS 2015, chị C là con nuôi của người chết thuộc
hàng thừa kế thứ nhất nên có thể hưởng thừa kế của bà T5.


 Chỉ xác lập quan hệ với người ni mình
 Quan hệ nuôi dưỡng đời đầu và các đời sau quan hệ huyết thống mới được hưởng thừa

kế.
 Thừa kế thế vị được ưu tiên hơn hàng thừa kế thứ 2  Trong trường hợp vẫn cịn có thể

chia thừa kế thế vị thì sẽ khơng thừa kế theo hàng 2
 Khi nào T7 và H4 hưởng với tư cách hàng thừa kế 2: khi cha mẹ khơng có quyền hưởng

thừa kế.
4.2. Khi nào áp dụng chế định thừa kế thế vị? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

- Chế định thừa kế thế vị căn cứ và Điều 652 BLDS 2015: “Trường hợp con của người để lại

di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì được hưởng phần di sản
mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một
thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt
được hưởng nếu còn sống.”
Vợ/chồng của người con chết trước (hoặc cùng) cha/mẹ có được hưởng thừa kế
thế vị khơng? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Vợ/ chồng của người con chết trước (hoặc cùng) cha/mẹ không được hưởng thừa
kế thế vị. Căn cứ vào Điều 652 BLDS 2015, người thừa kế thế vị chỉ có thể là con hoặc
chắt của người để lại di sản mà không phải là vợ/ chồng của người con đã mất.
4.3. Trong vụ việc trên, Tòa án không cho chồng của chị C3 hưởng thừa kế thế vị của
cụ T5. Hướng như vậy có thuyết phục khơng? Vì sao?
- Trong vụ việc trên, tịa án khơng cho chồng của chị C3 là anh C1 hưởng thừa kế thế vị của

bà T5 là thuyết phục. Căn cứ theo Điều 652 BLDS 2015: “Trường hợp con của người để lại di
sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì được hưởng phần di sản mà
cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời
điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được
hưởng nếu cịn sống.” Như vậy có thể hiểu, nếu bà T5 có di sản mà chị C3 đã mất trước thời
điểm mở thừa kế thì cháu T7 và H4 sẽ là người thừa kế thế vị của chị C3, hưởng phần thừa kế
mà nếu chị C3 còn sống sẽ được hưởng mà không phải anh C1.
4.4. Theo quan điểm của các tác giả, con đẻ của con nuôi của người quá cố có thể được
hưởng thừa kế thế vị không?
- Theo quan điểm của tác giả Chế Mỹ Phương Đài tại chương 7 giáo trình pháp luật về tài

sản, quyền sở hữu tài sản và thừa kế” của ĐH Luật TP.HCM: “ Tuy nhiên Điều 652 BLDS
2015 có quy định trường hợp ngoại lệ là: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước
hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc



mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với
người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu
còn sống”. Có thể thấy, Điều luật đề cập đến con của người để lại di sản nhưng khơng nói rõ là
con ruột hay con nuôi nên người cháu trong cả 2 trường hợp đều được hưởng thừa kế thế vị.
4.5. Trong vụ việc trên, đoạn nào cho thấy Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng
thừa kế thế vị của cụ T5?
- Đoạn cho thấy Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng thừa kế thế vị là tại phần Nhận

định của tòa án. Cụ thể “ Chị C3 (chết năm 2007) và bà T5(chết năm 2009) cả hai không để lại
di chúc nên hai cháu T7 và H4 được thừa kế thế vị di sản của bà T5 theo quy định tại Điều 677
Bộ luật dân sự năm 2005.”
4.6. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án cho cho con đẻ của chị C3 được hưởng thừa kế
thế vị của cụ T5.
- Điều 652 BLDS 2015 có quy định trường hợp ngoại lệ về thừa kế thế vị: “Trường hợp con

của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu
được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng
chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà
cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu cịn sống”.
- Chị C là con ni của bà T, vì chị C chết trước bà T nên 2 con của chị C là T7 và H4 sẽ

được hưởng thừa kế phần di sản mà đáng lẽ ra chị C phải được nhận (thừa kế thế vị). Điều này
hoàn toàn hợp lý và có căn cứ pháp luật khi căn cứ theo điều 652 BLDS 2015 thì có đề cập đến
con của người để lại di sản nhưng khơng nói rõ là con ruột hay con nuôi, vậy nên người cháu
(cháu của người để lại di sản) được thừa kế thế vị.
4. 7.Theo BLDS hiện hành, chế định thừa kế thế vị có được áp dụng đối với thừa kế
theo di chúc không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Điều 652. về Thừa kế thế vị có quy định “ Trường hợp con của người để lại di sản chết


trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha
hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời
điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được
hưởng nếu còn sống.”
- Đối chiếu với khoản a Điều 643 về Hiệu lực của di chúc, di chúc khơng có hiệu lực toàn bộ

hoặc một phần trong trường hợp sau đây: a) Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết
cùng thời điểm với người lập di chúc.


- Có thể thấy sự mâu thuẫn giữa hai điều này nên kết luận chế định thừa kế thế vị không

được áp dụng đối với thừa kế theo di chúc mà chỉ có thể phát sinh trên cơ sở thừa kế theo pháp
luật.
 Thừa kế thế vị chỉ áp dụng thừa kế theo pháp luật.

4. 8. Theo anh/chị, có nên áp dụng chế định thừa kế thế vị cho cả trường hợp thừa kế
theo di chúc khơng? Vì sao?
Việc áp dụng chế định thừa kế thế vị trong trường hợp thừa kế theo di chúc là khơng hợp lý
vì:
- Thừa kế thế vị áp dụng trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng

một thời điểm với người để lại di sản. Nhưng thừa kế theo di chúc thì người thừa kế có thể là
cá nhân hoặc cơ quan tổ chức. Nếu là cá nhân thì con của những người này có thể là người có
cùng hoặc khơng cùng quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng với người
để lại di sản. Thừa kế theo di chúc phụ thuộc vào ý chí cá nhân, mong muốn của người để lại di
sản. Vậy nên nếu áp dụng thừa kế thế vị theo di chúc sẽ không đảm bảo được quyền lợi của
những người thừa kế khác cũng như là đi ngược lại với ý chí và mong muốn cá nhân của người
để lại di sản. Còn nếu người thừa kế thế vị theo di chúc là pháp nhân thì sẽ khó xác định được
người thừa kế thế vị.

4.9. Ai thuộc hàng thừa kế thứ hai và hàng thừa kế thứ ba?
Theo Điều 651 BLDS 2015:
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột

của người đã chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà
ngoại
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ

ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cơ ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
4.10. Trong vụ việc trên, có cịn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5 ở thời điểm
mở thừa kế không? Vì sao?
- Trong vụ việc trên, khơng cịn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5 ở thời điểm mở

thừa kế. Vì theo Điều 651 BLDS 2015 thì hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ,
mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Trong bản án trên thì cha mẹ của cụ
T5 là cụ M và cụ L đã chết, cụ T5 không lấy chồng mà nhận con nuôi là chị C3, tuy nhiên chị
C3 cũng đã chết. Do đó khơng cịn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5.


4.11. Trong vụ việc trên, có cịn ai thuộc hàng thừa kế thứ hai của cụ T5 ở thời
điểm mở thừa kế khơng? Vì sao?
- Trong vụ việc trên, người thuộc hàng thừa kế thứ hai của cụ T5 ở thời điểm mở thừa

kế là bà T2. Vì theo Điều 651 BLDS 2015 thì hàng thừa kế thứ hai bao gồm: ông nội, bà
nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người đã chết; cháu ruột của
người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. Vì trong bản án trên, tại
thời điểm cụ T5 chết thì chỉ cịn lại duy nhất bà T2, em ruột của cụ T5, là còn sống. Mặc
khác, cháu T7 và H4 là con ruột của chị C3 nhưng chị C3 lại là con nuôi của cụ T5 nên
cháu T7 và H4 chỉ là cháu nuôi của cụ T5. Do đó, cháu T7 và H4 khơng thuộc hàng thừa

kế thứ hai của cụ T5.
4.12. Cuối cùng, Tòa án có áp dụng hàng thừa kế thứ hai khơng trong vụ việc
trên? Vì sao?
- Có thể thấy, cụ T5 khơng có chồng và có 1 người con ni nhưng đã chết nên theo

quy định của pháp luật thì nếu khơng có hàng thừa kế thứ nhất thì sẽ áp dụng hàng thừa
kế thứ hai. Tuy nhiên trong bản án này, Tịa án có xu hướng khơng áp dụng hàng thừa kế
thứ hai mà áp dụng thừa kế thế vị. Trong bản án khơng thấy có nhắc đến việc bà T2 có
được nhận thừa kế nhưng trong phần Nhận định của Tịa án có cơng nhận cháu T7 và H4
được hưởng thừa kế thế vị di sản của cụ T5. Do chị C3 chết năm 2007 và cụ T5 chết
2009, cả hai không để lại di chúc nên cháu T7 và H4 được hưởng thừa kế thế vị di sản
của cụ T5. Nếu theo hướng giải quyết này thì Tịa án chỉ chấp nhận hàng thừa kế thứ hai
khi không có thừa kế thế vị của hàng thừa kế thứ nhất. Do vậy, thừa kế thế vị đã loại trừ
khả năng áp dụng hàng thừa kế thứ hai.
4.13. Suy nghĩ của anh/chị về hướng của Tòa án về vấn đề nêu trong câu hỏi trên
(áp dụng hay không áp dụng quy định về hàng thừa kế thứ hai)
- Hướng giải quyết của Tòa án là ưu tiên áp dụng thừa kế thế vị so với hàng thừa kế

thứ hai là hợp tình hợp lý. Mặc dù theo quy định tại Khoản 3 Điều 651 BLDS 2015 thì
“Những người
ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu khơng cịn ai ở hàng thừa kế trước do đã
chết, khơng có quyền hưởng di sản bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.
Xét thấy hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5 là chị C3 đã chết ở thời điểm mở thừa kế nên
khơng cịn ai ở hàng thừa kế thứ nhất, đáng lẽ ra ở trường hợp này theo quy định của
pháp luật theo Khoản 3 Điều 651 thì nên chia thừa kế cho hàng thừa kế thứ hai là bà T2
nhưng Tòa án đã áp dụng theo hướng thừa kế thế vị, con của chị C3 là cháu T7 và H4, do
đó mà hàng thừa kế thứ hai đã không được áp dụng.


=> Như vậy theo Tòa án cũng như theo thực tiễn thì khi nào thừa kế thế vị của hàng

thừa kế thứ nhất cịn thì vẫn ưu tiên áp dụng theo thừa kế thế vị mà không áp dụng tiếp
hàng thừa kế thứ hai. Mục đích nhằm đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích của các con cháu.



×