Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Luận văn: Một số giải pháp cao chất lượng cho vay dự án đầu tư tại Sở giao dịch ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (933.95 KB, 95 trang )


Trang 1


Luận văn
Một số giải pháp cao chất
lượng cho vay dự án đầu tư
tại Sở giao dịch ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt
Nam

Trang 2
Mục lục
Lời mở đầu 3
Chương 1 Lý luận chung về dự án đầu tư và cho vay dự án 6
1. Sự cần thiết phải tiến hành hoạt động đầu tư theo dự án 6
2. Đặc điểm hoạt động đầu tư phát triển 7
3. Dự án đầu tư 8
3.1 Khái niệm 8
3.2 Phân loại dự án đầu tư 9
3.2.1 Theo cơ cấu tái sản xuất 9
3.2.2 Theo lĩnh vực hoạt động 10
3.2.3 Theo giai đoạn hoạt động 10
3.2.4 Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng 11
3.2.5 Theo phân cấp quản lý 11
3.2.6 Theo nguồn vốn 11
3.2.7 Theo vùng lãnh thổ 12
4. Cho vay dự án đầu tư 12
4.1 Dự án đầu tư xin vay 12
4.2 Quy trình cho vay dự án đẩu tư 12
4.3 Sự cần thiết của việc cho vay dự án đầu tư 14


4.4 Thẩm định dự án đầu tư xin vay 18
4.5 Hợp đồng tín dụng 20
5. Nguồn vốn cho vay dự án đầu tư 22
6. Chất lượng cho vay dự án đầu tư 23
6.1 Khái niệm 23
6.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay 23

Trang 3
6.2.1 Các chỉ tiêu định tính 23
6.2.2 Các chỉ tiêu định lượng 26
7. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay dự án đầu tư 32
7.1 Nhóm nhân tố thuộc ngân hàng 33
7.1.1 Quy mô, cơ cấu, kỳ hạn nguồn vốn của các NHTM 33
7.1.2 Năng lực của ngân hàng trong việc thẩm định dự án, thẩm định khách hàng
33
7.1.3 Năng lực giám sát và sử lý các tình huống cho vay của ngân hàng 34
7.1.4 Chính sách tín dụng ngân hàng 35
7.1.6 Công nghệ ngân hàng 36
7.2 Nhóm nhân tố thuộc khách hàng 36
7.2.1 Nhu cầu đầu tư 36
7.2.2 Khả năng của khách hàng trong việc đáp ứng yêu cầu của ngân hàng 37
7.2.3 Khả năng của khách hàng trong việc quản lý sử dụng vốn vay 39
7.3 Nhóm nhân tố thuộc môi trường 40
7.3.1 môi trương tự nhiên 40
7.3.2 Môi trường kinh tế 40
7.3.3 Môi trường chính trị xã hội 41
7.3.4 Môi trường pháp lý 41
7.3.5 Sự quản lý của nhà nước và các cơ quan chức năng 41
Chương 2. Thực trạng cho vay dự án đầu tư tại SGDI- BIDV 43
1. Khái quát chung về BIDV và SGDI 43

1.1 BIDV 43
1.2 Chức năng nhiệm vụ và mô hình tổ chức 45
1.3 Sở giao dịch 1 46

Trang 4
2. Một số hoạt động chủ yếu của SGDI 51
2.1 Hoạt động huy động vốn 53
2.2 Hoạt động tín dụng 55
2.3 Hoạt động dịch vụ 57
3. Thực trạng cho vay dự án tại Sở 58
3.1 Tình hình cho vay 58
3.1.1 Nền khách hàng tiền vay 59
3.1.2 Doanh số cho vay 62
3.1.3 Tình hình thu nợ 63
4. Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay của Sở 63
5. Đánh giá chất lượng cho vay dự án 64
5.1 Những kết quả đạt được 64
5.2 Hạn chế và nguyên nhân 68
Chương 3 Một số giải pháp, kiến nghị 72
1. Định hướng chung về hoạt động kinh doanh của Sở 72
1.1 Định hướng chung 72
1.1.1 Tăng cường năng lực về vốn để đáp ừng nhu cầu 73
1.1.2 Nâng cao chất lượng tín dụng 74
1.1.3 Bảo lãnh 74
1.1.4 Lãi suất 74
1.1.5 Dịch vụ và công nghệ ngân hàng 74
1.1.6 Biên pháp tổ chức điều hành 75
1.2 Định hướng cho vay dự án 76
2. Một số giải pháp nhằm nầng cao chất lượng cho vay dự án 78
2.1 Thực hiện việc xây dựng chính sách tín dụng một cách hợp lý 79


Trang 5
2.2 Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án 80
2.3 Chú trọng phân tích tài chính dự án trước khi cho vay 82
2.3.1 Xem xét các chỉ tiêu cơ cấu vốn của doanh nghiệp 82
2.3.2 Xem xét khả năng trả nợ của doanh nghiệp 83
2.4 Đa dạng hoá các phương thức huy động vốn trung, dài hạn 86
2.5 Tiêu chuẩn hoá cán bộ để nâng cao chất lượng tín dụng 86
2.6 Phát triển hệ thống thông tin 89
2.7 Nâng cao vai trò công tác thanh tra kiểm soát 90
3 Kiến nghị 91
Kết kuận 96
Tài liệu tham khảo 97

Trang 6

Lời mở đầu
Thực tế chứng minh rằng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là quá
trình tất yếu nhằm đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, quan hệ sản xuất hợp lý phù
hợp với lực lượng sản xuất làm cơ sở để xây dựng một đất nước dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Thực hiện nhiệm vụ đó, những năm qua, nhất
là sau hơn 10 năm “Đổi mới” chúng ta đã thu được nhiều thành công bước đầu. Từ
một nước có nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, phải nhập khẩu lương thực, đã trở
thành một trong ba quốc gia xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới. Cùng với ngành
nông nghiệp các ngành, các lĩnh vực khác như công nghiệp, ngoại thương, du lịch,
ngoại giao cũng đạt được những thành công nhất định góp phần đưa Việt Nam
từ một nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, tỷ lệ lạm phát cao thành một nước
có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá và ổn định, tỷ lệ lạm phát ở mức thấp, ngày càng
có vị thế trong khu vực và trên trường quốc tế. Từ đó cho thấy hướng đi và bước đi

của chúng ta là đúng đắn, tạo thế và lực mới cho một thời kỳ phát triển cao hơn.
Xu hướng quốc tế hoá cùng điều kiện cụ thể riêng đã tạo cho Việt Nam
nhiều cơ hội tiếp cận trình độ khoa học công nghệ cả về mặt kỹ thuật và quản lý
Tuy nhiên để đạt được mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đưa đất nước tiến
lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì vẫn còn rất nhiều thử thách cần phải
vượt qua. Trong giai đoạn đầu thực hiện CNH-HĐH nhiệm vụ chủ yếu được xác
định là tập trung các nguồn lực xây dựng và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi
mới và nâng cao trình độ công nghệ, máy móc thiết bị, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
từ nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế hiện đại với cơ cấu công- nông nghiệp,
dịch vụ hợp lý, phát triển sản xuất trong nước theo cả chiều rộng và chiều sâu. Để
đáp ứng cho nhu cầu đầu tư đó chủ yếu vẫn phải dựa vào nguồn vốn tín dụng trung
và dài hạn từ hệ thống ngân hàng thương mại trong nước. Vai trò tín dụng trung và
dài hạn sẽ được phát huy mạnh mẽ trong thời gian tới khi mà nguồn vốn tự tích luỹ
của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn quá nhỏ bé, không thể đáp
ứng nhu cầu đổi mới trang thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất là những hoạt

Trang 7
động đòi hỏi khối lượng vốn lớn. Nguồn vốn cấp phát từ ngân sách rất hạn hẹp,
không thể đầu tư dàn trải cho nhiều lĩnh vực mà chủ yếu chỉ tập trung xây dựng cơ
sở hạ tầng và những công trình công nghiệp lớn. Nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư
khá dồi dào nhưng việc huy động chúng lại không dễ dàng. Trong bối cảnh đó thì
việc các ngân hàng thương mại phải phát huy hết vai trò và thế mạnh của mình để
đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Là một trong bốn hệ thống ngân hàng thương mại lớn nhất của cả nước,
ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam luôn tự xác định cho mình nhiệm vụ
đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển chung đó của đất nước, chính vì
vậy mà trong thời gian qua BIDV và Sở giao dịch 1 đã có nhiều nỗ lực trong việc
mở rộng hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng chung dài hạn nói riêng nhằm
đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp qua đó góp phần thực hiện

mục tiêu chung của nền kinh tế. Tuy nhiên nếu nhìn nhận, đánh giá một cách
khách quan rằng bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được thì hoạt động tín
dụng chung dài hạn của BIDV và SGD vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm
năng thực sự của mình. Trong khi rất nhiều doanh nghiệp đang thực sự thiếu và
cần vốn thì bản thân SGD lại đang thừa vốn không thể giải ngân đặc biệt là ngoại
tệ. Xuất phát từ thực tế đó em chọn đề tài “ Một số giải pháp cao chất lượng cho
vay dự án đầu tư tại Sở giao dịch1 ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”.
Bố cục đề tài gồm ba chương:
* Chương 1. Lý luận chung về dự án đầu tư và cho vay dự án đầu tư.
* Chương 2. Thực trạng cho vay dự án đàu tư tại SGD1 Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
* Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
cho vay dự án đầu tư tại SGD1.
Do kiến thức và kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế nên những khía
cạnh mà đề tài đề cập tới trong chuyên đề không thể tránh khỏi những sai sót. Với
tinh thần thực sự cầu thị, em mong rằng sẽ nhận được những góp ý, chỉ bảo của

Trang 8
các thầy cô, anh chị đang công tác trong ngành ngân hàng để em có thể nâng cao
trình độ lý luận cũng như nhận thức của mình.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Trần Thị Hà
người đã trực tiếp hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện đề tài, cùng các
anh chị cán bộ Phòng tín dụng1 sở giao dịch BIDV đã tận tình giúp đỡ trong thời
gian thực tập tại đây.
Hà Nội, ngày 21 tháng 4 năm 2003.

Trang 9
chương1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ CHO VAY DỰ ÁN ĐẦU
TƯ.

1. Sự cần thiết phải tiến hành các hoạt động đầu tư theo dự án
Hoạt động đầu tư (gọi tắt là đầu tư) là quá trình sử dụng các nguồn lực về
tài chính, lao động, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất khác nhằm trực
tiếp hoặc gián tiếp tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất
kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, của địa phương, của ngành, của các cơ sở sản
xuất kinh doanh dịch vụ, các cơ quan quản lý nhà nước và xã hội nói riêng.
Hoạt động đầu tư trực tiếp tái sản xuất cơ sở vật chất kỹ thuật nói trên được
gọi là đầu tư phát triển. Đó là một quá trình có thời gian kéo dài trong nhiều năm
với số lượng các nguồn lực được huy động cho từng công cuộc đầu tư khá lớn và
nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư.
Các thành quả của loại đầu tư này cần và có thể được sử dụng trong nhiều
năm đủ để các lợi ích thu được tương ứng và lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra. Chỉ
có như vậy công cuộc đầu tư mới được coi là có hiệu quả. Nhiều thành quả của
đầu tư có giá trị sử dụng rất lâu,hàng trăm năm, hàng nghìn năm như các công
trình kiến trúc cổ ở nhiều nước trên thế giới.
Khi các thành quả của đầu tư là các công trình xây dựng hoặc cấu trúc hạ
tầng như nhà máy, hầm mỏ, các công trình thuỷ điện, các công trình thuỷ lợi,
đường xá, cầu cống, bến cảng thì các thành quả này sẽ tiến hành hoạt động của
mình ngay tại nơi chúng được tạo ra. Do đó, sự phát huy tác dụng của chúng chịu
nhiều ảnh hưởng của các điều kiện kinh tế, tự nhiên, xã hội nơi đây.
Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư phát triển được tiến hành thuận lợi,
đạt mục tiêu mong muốn, đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao thì trước khi bỏ vốn
phải tiến hành và làm tốt công tác chuẩn bị. Có nghĩa là phải xem xét, tính toán
toàn diện các khía cạnh kinh tế - kỹ thuật, điều kiện tự nhiên, môi trường xã hội,
pháp lý có liên quan đến quá trình đầu tư, đến sự phát huy tác dụng và hiệu quả
đạt được của công cuộc đầu tư, phải dự đoán các yếu tố bất định (sẽ xảy ra trong

Trang 10
suốt quá trình kể từ khi thực hiện đầu tư cho đến khi các thành quả của hoạt động
đầu tư kết thúc sự phát huy tác dụng theo dự kiến trong dự án) có ảnh hưởng đến

sự thành bại của công cuộc đầu tư. Mọi sự xem xét, tính toán và chuẩn bị này được
thể hiện trong dự án đầu tư. thực chất của sự xem xét, tính toán và chuẩn bị này
chính là lập dự án đầu tư. Có thể nói, dự án đầu tư được soạn thảo tốt là kim chỉ
nam, là cơ sở vững chắc, tạo tiền đề cho công cuộc đầu tư đạt hiệu quả kinh tế - xã
hội mong muốn.
2. Đặc điểm hoạt động đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực
vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc
hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo
nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các
tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm
lực mới cho nền kinh tế - xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống mọi thành viên
trong xã hội.
Hoạt động đầu tư phát triển có các đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu
tư khác là :
- Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và để nằm khê đọng
trong suốt quá trình thực hiện đầu tư, đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu
tư phát triển.
- Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của
nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều khả năng
xảy ra biến động.
- Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra đối với các cơ sử vật
chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng
và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các
yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế
- Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài
nhiều năm, có khi hàng trăm, hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn

Trang 11
như các công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới ( Kim tự tháp cổ Ai Cập, Nhà

thờ La Mã, Vạn Lý Trường Thành, Ăngco vát ). Điều này nói lên giá trị
lớn lao của các thành quả đầu tư phát triển.
- Các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt động
ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó các điều kiện địa hình tại đó có
ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư và cũng như tác dụng sau này
của các kết quả đầu tư.
- Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu nhiều ảnh
hưởng của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của
không gian.
3. Dự án đầu tư
3.1. Khái niệm
Tầm quan trọng của hoạt động đầu tư, đặc điểm và sự phức tạp về mặt kỹ
thuật, hậu quả và hiệu quả tài chính, kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư đòi hỏi
để tiến hành một công cuộc đầu tư phải có sự chuẩn bị cẩn thận và nghiêm túc. Sự
chẩn bị này được thể hiện ở việc soạn thảo các dự án đầu tư. Có nghĩa là mọi công
cuộc đầu tư phải được thực hiện theo dự án thì mới đạt hiệu quả mong muốn.
Dự án đầu tư có thể được xem xét từ nhiều góc độ. Về mặt hình thức, dự án
đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống cấc hoạt
động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện được
những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Trên góc độ quản lý, dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn,
vật tư, lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế - xã hội trong một thời gian
dài.
Trên góc độ kế hoạch hoá, dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch
chi tiết của một công cụ đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội, làm
tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một hoạt động kinh tế
riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế nói chung.

Trang 12
Xét về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên

quan đến nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra
các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định thông qua việc sử dụng các nguồn
lực nhất định.
3.2. Phân loại dự án đầu tư.
3.2.1. Theo cơ cấu tái sản xuất.
Dự án đầu tư được phân thành dự án đầu tư theo chiều rộng và dự án đầu tư
theo chiều sâu. Trong đó đầu tư chiều rộng có vốn lớn để khê đọng lâu, thời gian
thực hiện đầu tư và thời gian cần hoạt động để thu hồi đủ vốn lâu, tính chất kỹ
thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao. Còn đầu tư theo chiều sâu đòi hỏi khối lượng
vốn ít hơn, thời gian thực hiện đầu tư không lâu và độ mạo hiểm ít hơn so với đầu
tư theo chiều rộng.
3.2.2. Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của dự án đầu tư
Có thể chia thành dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư
phát triển khoa học kỹ thuật, dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ( kỹ thật và xã
hội ) Hoạt động của các dự án đầu tư này có quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Chẳng
hạn các dự án đầu tư phát triển khoa học và cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho các dự
án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, đến lượt mình các dự án
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh lại tạo tiềm lực cho các dự án đầu tư phát
triển khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và các dự án đầu tư khác.
3.2.3. Theo giai đoạn hoạt động của các dự án đầu tư trong quá trình
tái sản xuất xã hội
Có thể phân loại các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thành dự
án đầu tư thương mại và dự án đầu tư sản xuất :
- Dự án đầu tư thương mại là loại dự án có thời gian thực hiện đầu tư và hoạt
động của các kết quả đầu tư để thu hồi vốn đầu tư ngắn, tính chất bất định
không cao lại dễ dự đoán với độ chính xác cao.
- Dự án đầu tư sản xuất là loại dự án có thời gian hoạt động dài hạn ( 5, 10,
20 năm hoặc lâu hơn ) vốn đầu tư lớn, thu hồi chậm, độ mạo hiểm cao, tính

Trang 13

chất kỹ thật phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố bất định trong tương
lai không thể dự đoán hết cũng như dự đoán chính xác ( về nhu cầu, giá cả
đầu vào và đầu ra, cơ chế chính sách, tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật ).
Trên thực tế người có tiền thích đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh thương mại.
Tuy nhiên trên giác độ xã hội hoạt động của loại đầu tư này không tạo ra của cải
vật chất cụ thể một cách trực tiếp, những giá trị tăng thêm do hoạt động của dự án
đầu tư thương mại chỉ là sự phân phối lại thu nhập giữa các ngành, các địa phương,
các tầng lớp dân cư trong xã hội. Do đó, trên giác độ điều tiết kinh tế vĩ mô, nhà
nước cần thông qua các cơ chế chính sách của mình nhằm hướng dẫn, khuyến
khích các nhà đầu tư không chỉ đầu tư vào lĩnh vực thương mại mà còn đầu tư cả
vào lĩnh vực sản xuất, theo các định hướng và mục tiêu đã dự kiến trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
3.2.4. Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi vốn
Ta có thể chia các dự án đầu tư thành dự án đầu tư ngắn hạn (các dự án đầu
tư thương mại) và dự án đầu tư dài hạn (các dự án đầu tư sản xuất, đầu tư phát
triển khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng ).
3.2.5. Theo phân cấp quản lý
Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng được ban hành theo nghị định
52/1999/NĐ-CP ngày 08/08/1999 của Thủ tướng Chính phủ phân chia các dự án
thành 3 nhóm A, B, C tuỳ theo tính chất và quy mô của dự án. Trong đó nhóm A
do thủ tướng Chính phủ quyết định; nhóm B và C do Bộ trưởng, thủ trưởng có
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh và thành phố trực thuộc
TW quyết định.
3.2.6.Theo nguồn vốn
Dựa vào nguồn vốn, dự án đầu tư được phân chia thành :
- Dự án đầu tư có vốn huy động trong nước (vốn tích luỹ của ngân sách, của
doanh nghiệp, từ tiền tiết kiệm của dân cư ).
- Dự án đầu tư có vốn huy động từ nước ngoài (vốn đầu tư trực tiếp, viện trợ,
đầu tư gián tiếp ).


Trang 14
Việc phân loại này cho thấy tình hình huy động vốn từ mỗi nguồn và vai trò
của mỗi nguồn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, từng địa
phương và toàn bộ nền kinh tế.
3.2.7. Theo vùng lãnh thổ (theo tỉnh, theo vùng kinh tế)
Cách phân loại này cho thấy tình hình đầu tư của từng vùng kinh tế, từng
tỉnh và ảnh hưởng của đầu tư đối với tình hình phát triển kinh tế xã hội ở từng địa
phương.
Ngoài ra, trong thực tế để đáp ứng yêu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế,
người ta còn phân chia dự án đầu tư theo quan hệ sở hữu, theo quy mô và nhiều
tiêu thức khác.
4. Cho vay dự án đầu tư
Cho vay dự án đầu tư là một dạng cho vay trung và dài hạn chủ yếu nhất
của các ngân hàng thương mại. Đó là việc các ngân hàng thương mại hỗ trợ các
khách hàng có đủ nguồn lực tài chính thực hiện các dự định đầu tư mà thời gian
thu hôi vốn đầu tư vượt quá 12 tháng.
4.1. Dự án đầu tư xin vay
Dự án đầu tư của khách hàng là một bộ phận quan trọng trong tổng thể các
dự án đầu tư của nền kinh tế quốc dân. Quy mô của chúng có thể lớn hay nhỏ tuỳ
thuộc vào mục tiêu đầu tư của chúng. Tuy nhiên, mỗi dự án đầu tư của khách hàng
phải là một công trình nghiên cứu khoa học có mục tiêu cụ thể và có tính khả thi
cao, đưa ra được những luận chứng kinh tế - kỹ thuật xác đáng, nêu lên một cách
cụ thể lượng vốn đầu tư cần có, các nguồn tài chính bù đắp thích hợp, đề xuất được
những giải pháp thực hiện dự án tối ưu.
Dự án đầu tư xin vay của các ngân hàng thương mại ngoài những tố chất
chung trên đây còn cần thêm đặc trưng sinh lời phù hợp với chính sách phát triển
kinh tế - xã hội và pháp luật của Nhà nước.
4.2.Quy trình cho vay dự án đầu tư

Trang 15

Giống như cho vay ngắn hạn, chu kỳ cho vay dự án đầu tư đối với các
khách hàng được bắt đầu bằng việc xem xét và quyết định cho vay, sau đó là giả
ngân vốn, theo dõi nợ vay và kết thúc bằng việc thu nợ gốc và lãi. Chu kỳ cho vay
dự án đầu tư cũng có thể diễn đạt bằng sơ đồ:( T-T’).
Dựa trên đề xuất vay dự án đầu tư của khách hàng vay, ngân hàng thương
mại phải xem xét trong một thời gian nhất định và đưa ra quyết định từ chối hay
chấp nhận cho vay.
Đề xuất vay vốn dự án đầu tư của khách hàng được hợp thức hoá bằng các
tài liệu như: đơn xin vay; hồ sơ pháp lý chứng minh tư cách pháp nhân và vốn điều
lệ ban đầu; hồ sơ tình hình tài chính 2 năm trước khi đề xuất vay và của 2 quý
trong năm đề xuất vay; các tài liệu liên quan đến dự án đầu tư xin vay (luận chứng
kinh tế – kỹ thuật; bản phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật của cấp có thẩm
quyền; các văn bản có liên quan đến cung ứng vật tư thiết bị, nguyên vật liệu, tiêu
thụ sản phẩm; các giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp hoặc cầm cố ).
Việc chấp nhận hay từ chối cho vay một dự án đầu tư của khách hàng phải
dựa vào thẩm tra các mặt như tư cách pháp nhân; mức vốn tham gia của đơn vị vay
vốn; tình hình sản xuất kinh doanh; tình hình công nợ, đồng thời phải xem xét
mụch đích kinh tế xã hội, khả năng thực thi, nguồn cung cấp nguyên liệu, nguồn
nhân lực, hướng tiêu thụ sản phẩm, hiệu quả kinh tế, khả năng hoàn trả vốn vay
của dự án
Khi xem xét, thẩm định và đi đến quyết định chấp nhận hay từ chối cho vay
một dự án đầu tư của khách hàng phải quán triệt các nguyên tắc: Phù hợp với
nguồn vốn của ngân hàng cho vay, nghĩa là không vượt quá khả năng nguồn vốn
hiện có và sẽ huy động được khả dĩ dùng vào cho vay trung và dài hạn của bản
thân ngân hàng cho vay; phù hợp với quyền phán quyết cho vay trung, dài hạn mà
ngân hàng cấp trên dành cho giám đốc ngân hàng đó trong lĩnh vực cho vay trung
và dài hạn, phù hợp với chính sách ưu tiên trong đầu tư và cơ cấu đầu tư đã được
quy định. Trường hợp chấp nhận cho vay do kết quả thẩm định dự án đầu tư xin
vay, ngân hàng phải thông báo bằng văn bản trong thời hạn quy định để khách


Trang 16
hàng vay kịp thời đến ngân hàng lập hồ sơ nhận nợ. Trường hợp từ chối phải thông
báo bằng văn bản và nêu rõ lý do để khách hàng biết.
Hồ sơ thụ lý cho vay dự án đầu tư của khách hàng chính là hợp đồng tín
dụng được ký kết giữa ngân hàng cho vay và khách hàng. Trong hợp đồng này
phải xác định rõ đối tượng vay, mức vay, thời hạn vay, lãi xuất, kế hoách trả nợ,
bảo đảm tiền vay, quyền và nghĩa vụ của bên cho vay
Dựa vào mức cho vay ghi trên hợp đồng tín dụng ngân hàng cho vay tổ
chức việc giải ngân, tức là phát tiền vay để khách hàng vay sử dụng tiền vay vào
việc thực thi dự án đầu tư xin vay.
Tiền cho vay được ngân hàng cho vay phát ra theo tiến độ thực hiện dự án
đầu tư xin vay, được phản ánh kịp thời và chính xác vào tài khoản cho vay, khế
ước vay nợ và các chứng từ hợp lệ khác.
Ngân hàng cho vay theo dõi chặt chẽ tiến độ thực hiện dự án đầu tư xin vay
cho đến khi dự án đầu tư kết thúc và các công trình của dự án được đưa vào thực
hiện có hiệu quả, khách hàng vay trả xong nợ cho ngân hàng cho vay kể cả nợ gốc
và lãi.
4.3.Sự cần thiết của việc cho vay các dự án đầu tư
Xét về mặt bản chất, việc cho vay dự án đầu tư đã làm nảy sinh một mối
quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng, mối quan hệ này chỉ được hình
thành trên cơ sở sự thoả thuận giữa các bên dựa trên nguyên tắc cùng có lợi. Như
vậy có thể nói việc tham gia vào quan hệ tín dụng này là hoàn toàn tự nguyện và
nó đem lại lợi ích cho cả đôi bên. Mặt khác, ngân hàng và các doanh nghiệp
(những khách hàng thường xuyên và chủ yếu) là hai chủ thể quan trọng hàng đầu
trong nền kinh tế quốc dân, việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hai
chủ thể này chắc chắn sẽ có những tác động tích cực đối với sự phát triển chung
của toang bộ nền kinh tế. Như vậy có thể khẳng định rằng việc mở rộng quy mô và
nâng cao hiệu quả cho vay dự án đầu tư là cần thiết và khách quan, nó đem lại
những lợi ích nhất định cho cả ba chủ thể : Ngân hàng (người cho vay); doanh
nghiệp (người đi vay) và nền kinh tế quốc dân.


Trang 17
Đối với ngân hàng, trong các tài sản của các ngân hàng thương mại thì
khoản mục cho vay bao giờ cũng chiếm tỷ trọng cao nhất và là khoản mục mang
lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Thu nhập từ tiền cho vay thể hiện dưới dạng
lãi tiền vay và phụ thuộc chủ yếu vào thời hạn của khoản vay. Thời hạn cho vay
càng dài thì lãi suất càng cao và do đó thu nhập của ngân hàng càng lớn. Chính vì
vậy nếu các ngân hàng có thể mở rộng cho vay nhất là cho vay trung và dài hạn
đối với các dự án đầu tư thì sẽ có điều kiện kiếm lời nhiều hơn. Tuy nhiên cũng
phải nói thêm rằng các khoản cho vay có thời hạn càng dài thì càng tiềm ẩn một tỷ
lệ rủi ro cao và đó là lý do vì sao khi mở rộng quy mô các ngân hàng thường chú
trọng đến việc nâng cao chất lượng tín dụng cũng như hiệu quả dự án.
Không chỉ có vậy, việc đáp ứng tốt nhu cầu của các khách hàng cũng là một
thứ vũ khí cãnh tranh lợi hại của các ngân hàng. Khả năng mở rộng các khoản vay
dài hạn còn thể hiện tiềm lực vốn của ngân hàng, chất lượng tín dụng cao phần nào
thể hiện năng lực quản lý, năng lực chuyên môn của cán bộ và nhân viên ngân
hàng. đồng thời việc mở rộng tín dụng trung và dài hạn đặc biệt là với các dự án
đầu tư xin vay của các doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh tín dụng ngắn hạn
cũng như các dịch vụ ngân hàng khác bởi khi được vay vốn các doanh nghiệp sẽ
có điều kiện đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị, tăng năng lực sản xuất
điều đó khiến cho nhu cầu vốn lưu động lại tăng cao và các dịch vụ ngân hàng như
dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, tư vấn cũng sẽ tăng lên chắc chắn địa chỉ đầu tiên
mà khách hàng tìm đến chính là ngân hàng và ngân hàng đã cho họ vay vẵn là sự
lựa chọn được ưu tiên nhất.
Đối với doanh nghiệp: Trong mỗi nền kinh tế nhu cầu vay vốn của các
doanh nghiệp luôn là một đòi hỏi cấp bách. Các doanh nghiệp mới được thành lập
thì cần vốn để xây dựng cơ sở vật chất; nhà xưởng; kho bãi , mua sắm tài sản cố
định và đáp ứng một phần vốn lưu động. Các doanh nghiệp đang hoạt động thì
luôn có nhu cầu đổi mới trang thiết bị; nâng cao trình độ khoa học, công nghệ;
tăng năng lực cạnh tranh; mở rộng sản xuất khi gặp cơ hội thuận lợi. Đặc biệt khi

các cơ hội đầu tư có khả năng mang lại hiệu quả kể cả trong thời điểm trước mắt
cũng như lâu dài thì một nguồn vốn lớn và ổn định sẽ trở nên hết sức cần thiết. Tín

Trang 18
dụng ngân hàng luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu cấp thiết ấy bởi nó có những uy
điểm mà các nguồn vốn khác như phát hành cổ phiếu, trái phiếu không có được.
- Trước hết việc sử dụng nguồn vốn tín dụng ngân hàng cho phếp mở rộng
quy mô sản xuất trong khi vẫn đảm bảo quyền kiểm soát đối với doanh
nghiệp của mình. Điều này sẽ không thể có được nếu nhà kinh doanh thực
hiện biện pháp phát hành cổ phiếu để huy động vốn, khi đó quyền lực sẽ
được san sẻ cho các cổ đông mới. Việc huy động bằng phát hành trái phiếu
có thể khắc phục được nhược điểm này song lại vấp phải một vấn đề quan
trọng khác đó là sự kém linh hoạt, khi cơ hội kinh doanh xuất hiện đòi hỏi
doanh nghiệp phải nhanh chóng chớp lấy song việc phát hành trái phiếu đòi
hỏi nhiều thủ tục và điều kiện khắt khe nên mất nhiều thời gian và có thể để
lỡ mất cơ hội tốt. Tất cả các vấn đề trên có thể được khắc phục nếu doanh
nghiệp sử dụng nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
- Một ưu điểm nữa của nguồn vốn tín dụng ngân hàng so với việc phát hành
cổ phiếu và trái phiếu là khi sử dụng nguồn vốn này doanh nghiệp sẽ tránh
được các chi phí phát sinh như : chi phí phát hành; chi phí bảo lãnh; đăng
ký chứng khoán Hơn nữa, có những doanh nghiệp, nhất là các doanh
nghiệp có quy mô vừa và nhỏ có thể sẽ không đủ điều kiện huy động vốn
thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Đối với nền kinh tế: Nền kinh tế của mỗi quốc gia trong thời kỳ nào cũng
cần có nguồn vốn phục vụ đầu tư phát triển. Sự tham gia của vốn tín dụng ngân
hàng sẽ góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, hơn thế nữa hiệu
quả đạt được của các dự án đầu tư cũng sẽ cao hơn bởi lẽ khi cho vay một trong
những yêu cầu đầu tiên mà ngân hàng đặt ra là an toàn. Chính vì vậy mà đối với
mỗi dự án xin vay, ngân hàng phải xem xét rất kỹ tính khả thi của dự án để tránh
những rủi ro có thể xảy ra và đề ra những biện pháp điều chỉnh kịp thời. Mặt khác

không giống như nguồn vốn cấp phát từ ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng
ngân hàng được giải ngân dựa trên nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi, do đó
người đi vay sẽ phải tính toán làm sao để có thể sử dụng vốn một cách có hiệu quả

Trang 19
nhất. Đây chính là điểm ưu việt của nguồn vốn tín dụng ngân hàng so với nguồn
vốn cấp phát từ ngân sách nhà nước.
Trong điều kiện Việt Nam hiên nay, nhiệm vụ Công nghiệp hoá, Hiện đại
hoá đất nước nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật XHCN được Đảng và Nhà
nước đặt lên hàng đầu. Nội dung chính của công cuộc này là tập trung vốn xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới nâng cao trình độ khoa học công nghệ; máy
móc, trang thiết bị tùng bước chuyển nền kinh tế từ nông nghiệp lạc hậu sang nền
kinh tế hiện đại với cơ cấu công – nông nghiệp và dịch vụ hợp lý, phát triển sản
xuất trong nước theo cả chiều rộng và chiều sâu. Nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu
đầu tư đó bao gồm: Nguồn do ngân sách Nhà nước cấp, nguồn tự tích luỹ của các
doanh nghiệp, nguồn huy động từ dân cư, tín dụng ngân hàng, huy động trên thị
trường chứng khoán và nguồn vốn viện trợ từ nước ngoài. Trong đó tín dụng ngân
hàng đang là nguồn cung cấp vốn chủ yếu cho các dự án phục vụ đầu tư phát triển
bởi lẽ nguồn vốn tự tích luỹ của hầu hết các doanh nghiệp nước ta hiện nay đều
quá nhỏ bé, không thể đáp ứng nhu cầu đổi mới trang thiết bị, công nghệ, mở rộng
hoạt động sản xuất kinh doanh; Trong khi đó nguồn vốn cấp phát từ ngân sách lại
khá hạn hẹp và phải đầu tư dàn trải trên nhiều lĩnh vực; Các hình thức huy động
vốn đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp lại vẫn còn mới lạ đối với đại bộ phận
công chúng
4.4.Thẩm định dự án đầu tư xin vay
Thẩm định dự án đầu tư là một mắt xích quan trọng trong quy trình cho vay
dự án đầu tư. Thực chất của nó là dùng một số kỹ thuật phân tích, đánh giá toàn bộ
các vấn đề, các phương tiện trình bày trong dự án theo một số tiêu chuẩn kinh tế
kỹ thuật và theo một trình tự hợp lý chặt chẽ nhằm rút ra những kết luận chính xác
về giá trị của dự án, từ đó quyết định cho vay đúng mức, chắc chắn mang lại hiệu

quả kinh tế dự định.
Đối với các ngân hàng thương mại việc thẩm định các dự án đầu tư xin vay
có thể dựa vào kết quả thẩm định của các tổ chức thẩm định chuyên nghiệp nhà
nước hay dân lập. Trong trường hợp này, trách nhiệm của ngân hàng là phải có khả

Trang 20
năng đánh giá chất lượng thẩm định dự án được thực hiện bởi một tổ chức thẩm
định nào đó.
Trong trường hợp dự án đầu tư xin vay cỡ vừa và nhỏ, thời hạn thu hồi vốn
không quá 5 năm, ngân hàng phải tự thực hiện thẩm định dự án đầu tư xin vay. Dù
tái thẩm định hay tự thẩm định thì ngân hàng cũng đều cần đến đội ngũ cán bộ tín
dụng đủ năng lực đánh giá dự án đầu tư xin vay và từ đó đưa ra kết luận chấp nhận
hay từ chối tài trợ đối với dự án đầu tư xin vay.
Muốn thẩm định hay tái thẩm định một dự án đầu tư xin vay có kết quả
mong muốn phải tuân thủ quy trình thẩm định, nghĩa là phải đi từ khâu thu thập
thông tin cần thiết cho việc đánh giá dự án đầu tư, xử lý thông tin bằng những
phương pháp thẩm định nhất định và đi đến những kết quả cụ thể và xác đáng
được ghi trong tờ trình thẩm định dự án đầu tư.
Xét về nội dung thẩm định dự án, người ta thường thực hiện thẩm định ba
mặt cơ bản là các phương diện kỹ thuật, phương diện kinh tế và phương diện tài
chính.
Thẩm định dự án đầu tư về phương diện kỹ thuật là đi sâu nghiên cứu và
phân tích các yếu tố kỹ thuật và công nghệ, thiết bị chủ yếu của dự án đầu tư để
đảm bảo tính khả thi của dự án đầu tư khi thi công xây duẹng cũng như khi vận
hành công trình đã hoàn thành. ở đây người ta chú ý đến sự phù hợp của quy mô
dự án đầu tư với khả năng tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp nguyên vật liệu,
năng lực, năng lực quản lý của doanh nghiệp. Sự lựa chọn thiết bị và công nghệ
của dự án đầu tư, sự cung ứng nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào, sự lựa chọn
địa điểm xây dựng công trình, việc quản lý dự án từ khi thai nghén đến khi kết
thúc đưa vào sử dụng.

Thẩm định về mặt kinh tế xã hội của dự án đầu tư là xét đến hiệu ích của dự
án trên quan điểm vĩ mô. Nó thường được xem xét dựa trên một số chỉ số sinh lời
xã hội như mức đóng góp của dự án đầu tư cho nền kinh tế do tiết kiệm chi phí
nhập khẩu của các sản phẩm nhập khẩu tuơng tự, chỉ số hoàn vốn, mức gia tăng
việc làm, mức đóng góp vào ngân sách nhà nước, mức tích luỹ Đồng thời ở đây

Trang 21
người ta còn xem xét ảnh hưởng của dự án đến môi trường, đến sinh hoạt văn hoá
và đến sự phát triển kinh tế của địa phương.
Thẩm định phương diện tài chính của dự án đầu tư là phân tích, đánh giá,
kết luận việc sử dụng các nguồn lực tài chính trong tài trợ, khả năng sinh lời, khả
năng hoàn trả nợ, khả năng ứng phó trước thử thách trong quá trình đưa dự án đầu
tư vào thực hiện.
Xét về phương pháp thẩm định dự án đầu tư người ta có thể áp dụng ba
phương pháp cơ bản:
- Phương pháp phân tích so sánh: Đây là phương pháp được sử dụng nhiều
nhất. Người ta so sánh các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật ghi trong dự án đầu tư
với các tài liệu; các định mức kinh tế kỹ thuật hiện hành; các tiêu chuẩn của
nganh, của cả nước; các chỉ tiêu trước khi mở rộng, cải tao; các chỉ tiêu
tương tự của các công trình cùng loại của nước ngoài; các văn bản pháp lý
có liên quan.
- Phương pháp phân tích độ nhậy của dự án đầu tư: Dựa vào một số tình
huống bất trắc có thể xảy ra trong tương lai và những tác động của chúng
đến các chỉ tiêu hiệu quả, như sự vượt quá chi phí đầu tư ban đầu, sản lượng
đạt thấp so với dự kiến, giá đầu vào tăng, giá tiêu thụ sản phẩm giẩm mà
xác định độ sai lệch an toàn cho phép dự án đầu tư vẫn có hiệu quả, nếu
không thì phải áp dụng những giải pháp khắc phục hay hạn chế.
- Phương pháp hạn chế rủi ro: Lượng định một số rủi ro có thể xảy ra và
những giải pháp hạn chế thích hợp thuộc giai đoạn thi công thực hiện và
vận hành dự án đầu tư.

4.5.Hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng hay còn gọi là hợp đồng cho vay là một văn bản được ký
kết giữa người ngân hàng cho vay và người đi vay- chủ dự án đầu tư. Nó ghi nhận
những thoả thuận giữa bên cho vay và bên vay về đối tượng cho vay, mức cho vay
và thời gian vay, bảo đảm nợ vay. Nó là một căn cứ pháp lý quan trọng để thực
hiện một dịch vụ cho vay dự án đầu tư.

Trang 22
Trước hết, trong hợp đồng phải thoả thuận một cách cụ thể đối tượng cho
vay. Đó là các chi cấu thành tổng mức đầu tư của dự án như giá trị vật tư, máy
móc thiết bị, giá trị công nghệ chuyển giao, giá trị sáng chế và phát minh, chi phí
nhân công. giá thuê chuyển nhượng đất đai, giá thuê mua các tài sản khác, chi phí
mua bảo hiểm các tài sản thuộc dự án đầu tư xin vay và các chi phí khác. Những
chi phí trên đây có thể quy lại thành 3 nhóm là nhóm chi phí xây lắp, nhốm chi phí
thiết bị và nhóm những chi phí khác.
Thứ hai: Trong hợp đồng tín dụng phải ghi rõ mức cho vay dự án đầu tư xin
vay. Nó được xác định một cách tổng quát là mức cho vay một dự án đầu tư thì
bằng hiệu số giữa tổng mức đầu tư của dự án và phần vốn của bên vay tham gia
thực hiện dự án đầu tư không được nhỏ hơn 30% của tổng mức đầu tư.
Tổng mức đầu tư của dự án là tổng chi phí xây lắp, chi phí máy móc thiết bị
và chi phí khác ghi trong tổng dự toán của dự án.
Phần vốn tham gia thực hiện dự án của bên vay được tính bằng tổng của
vốn tự có thể hiện bằng tài sản hiện có của bên vay và vốn huy động do bên vay
thực hiện.
Nếu dự án đầu tư là dự án liên doanh thì phần tham gia của bên vay phải
tính cho các bên liên doanh.
Trường hợp dự án đầu tư xin vay có điều kiện thế chấp tài sản thì mức cho
vay không thể lớn hơn 70% mức tài sản thế chấp.
Mức cho vay dự án đầu tư không thể sử dụng một lần mà được sử dụng dần
dần trong quá trình thực hiện thi công của dự án. Từ đó tất yếu nảy sinh phạm trù

mức cho vay còn lại. Mức cho vay còn lại bằng mức cho vay trừ đi số dư nợ hiện
có. Mỗi lần giải ngân ngân hàng phải chú ý đến mức cho vay còn lại này.
Thứ ba: Trong hợp đồng tín dụng phải ghi rõ thời hạn nợ hay còn gọi là thời
hạn cho vay. Nó bao gồm thời hạn rút vốn, thời hạn trả nợ và thời hạn ân hạn nếu
có.
Cuối cùng: Trong hợp đồng tín dụng phải xác định rõ quyền và nghĩa vụ
của ngân hàng cho vay và người vay. Quyền và nghĩa vụ này nếu không có thoả

Trang 23
thuận gì khác giữa ngân hàng cho vay và khách hàng vay thì phải tuân thủ những
quy định về quyền và nghĩa vụ đó của quy chế cho vay hiện hành của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam.
5. Nguồn vốn cho vay dự án đầu tư của các ngân hàng thương mại.
Một trong những vấn đề sống còn đối với mỗi ngân hàng thương mại là
phải bảo đẩm khả năng thanh toán của mình. Để đảm bảo yêu cầu này thì hoạt
động cho vay của ngân hàng phải gắn bó chặt chẽ, dựa trên nền tảng nguồn vốn mà
ngân hàng có được. Nghĩa là cơ cấu cho vay phải phù hợp với cơ cấu nguồn vốn,
các khoản cho vay dự án đầu tư cần phải được hình thành nên từ những nguồn vốn
ổn định và có thời gian dài tương ứng. Theo nguyên tắc đó thì nguồn vốn cho vay
dự án đầu tư bao gồm: Vốn tự có của ngân hàng thương mại; vốn huy động dưới
hình thức tiền gửi trung dài hạn kể cả một phần vốn huy động ngắn hạn; vốn uỷ
thác của Chính phủ và các tổ chức trong và ngoài nước; vay nước ngoài; vay từ
ngân hàng trung ương Mỗi nguồn vốn trên lại có những ưu nhược điểm và tuỳ
từng điều kiện cụ thể mà các ngân hàng thương mại sẽ quyết định sử dụng nguồn
vốn nào thích hợp nhất đối với mình.
Nguồn vốn tự có của ngân hàng là nguồn ổn định nhất tuy nhiên khối lượng
của nó lại không lớn; nguồn tiền gửi trung và dài hạn cũng không đáng kể do
không nhiều khách hàng sử dụng loại hình tiền gửi này của các ngân hàng thương
mại; phát hành trái phiếu lại có chi phí cao hơn so với tiền gửi cùng số lượng; vốn
vay từ ngân hàng trung ương cũng bị hạn chế và phụ thuộc vào chính sách tiền tệ

quốc gia (thông thường NHTW chỉ cho các NHTM vay ngắn hạn, thậm chí trong
trường hợp NHTW đang có chủ trương thắt chặt tiền tệ thì các NHTM còn không
được vay); việc sử dụng một phần vốn huy động ngắn hạn để cho vay đối với các
dự án đầu tư là một trong những phương án khả thi song để tránh những rủi ro có
thể xảy ra những người làm công tác quản trị ngân hàng cũng cần phải tính toán tỷ
lệ trích chuyển. Trong điều kiện hiện nay, hình thức vay nợ nước ngoài để cho vay
dự án được khá nhiều ngân hàng trên thế giới dặc biệt là ở các nước đang phát
triển sử dụng (ưu điểm của nguồn vốn này là khối lượng lớn, lãi suất lại thường
được ưu đãi, hơn nữa điều kiện cho vay lại không quá khó khăn) tuy nhiên nếu

Trang 24
việc quản lý, sử dụng nguồn vốn này không được thực hiện tốt dẫn đén không
hoàn trả được vốn vay thì sẽ làm mất uy tín đồng thời tăng sự phụ thuộc của các
ngân hàng trong nước vào ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng nước ngoài.
6. Chất lượng cho vay dự án đầu tư.
6.1.Khái niệm:
Chất lượng của một khoản vay có thể được hiểu là hiệu quả kinh tế mà
khoản vốn vay đó mang lại cho cả người đi vay (khách hàng) và người cho vay.
Một khoản vay được coi là có chất lượng tốt nếu nó mang lại hiệu quả kinh tế cao
cho cả ngân hàng và khách hàng, tức là vốn vay được người vay đưa vào quá trình
đầu tư tạo ra một số tiền lớn hơn vừa để hoàn trả nợ gốc và lãi vay, vừa trang trải
các chi phí khác mà vẫn bảo đảm có lợi nhuận qua đó đóng góp vào sự tăng trưởng
chung của nền kinh tế. Xét một cách tổng thể khoản vay đó vừa tạo ra hiệu quả
kinh tế vừa tạo ra hiệu quả xã hội.
Với tư cách là một trung gian tài chính trong nền kinh tế, hoạt động chủ yếu
và thường xuyên nhất là nhận tiền gửi và cho vay, để có thể bảo đảm sự tồn tại và
phát triển thì chất lượng của các khoản vay luôn là mối quan tâm hàng đầu của các
NHTM. Việc đáp ứng nhanh chóng, thuận tiện, an toàn nhu cầu vốn của khách
hàng sẽ tạo điều kiện để ngân hàng nâng cao uy tín, thu hút thêm nhiều khách hàng
mới, làm tăng thêm khả năng mở rộng hoạt động tín dụng. Mặt khác, đáp ứng tốt

nhu cầu của khách hàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của họ, bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay; đó cũng là tiền đề để họ có thể
thực hiện đúng cam kết trả nợ đầy đủ đúng hạn.
6.2.Các chỉ tiêu đánh giá Chất lượng cho vay dự án đầu tư.
6.2.1. Các chỉ tiêu định tính
Chất lượng cho vay của một ngân hàng chắc chắn phụ thuộc trước hết vào
uy tín của ngân hàng đó trên thị trường. Một ngân hàng có uy tín cao sẽ có khả
năng thu hút được nhiều khách hàng hơn, ngược lại nếu một ngân hàng có đội ngũ
khách hàng đông đảo, làm ăn có uy tín thì đó là một trong những dấu hiệu chứng
tỏ chất lượng cho vay của ngân hàng đó. Chất lượng cho vay của ngân hàng được

Trang 25
thể hiện ở khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Đối với khách hàng thì
điều này trước hết biểu hiện ở thủ tục đơn giản thuận tiện, cung cấp vốn nhanh
chóng, kịp thời, an toàn. Nhờ vậy doanh nghiêp; khách hàng sẽ tiết kiệm được chi
phí giao dịch, tiết kiệm thời gian và nhất là không bỏ lỡ cơ hội đầu tư tốt. Tuy
nhiên đây mới chỉ là yêu cầu ban đầu, trong nền kinh tế thị trường đầy biến động
và có sự cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các NHTM phải năng động sáng tạo thì mới có
thể mong có chất lượng cho vay tốt, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng lên cả về chất
và lượng của khách hàng. Để đạt được điều đó thì ngoài việc đáp ứng nhanh
chóng, kịp thời nhu cầu vốn ngân hàng phải thực sự trở thành bạn của khách hàng,
sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ khó khăn đối với khách hàng.Chẳng hạn, trong quá trình
xét duyệt cho vay nếu thấy dự án vay vốn của doanh nghiệp có những điểm chưa
hợp lý, không khả thi thì thay vì từ chối cho vay ngân hàng có thể góp ý, tư vấn
cho khách hàng để họ xem xét lại một cách hợp lý Ngoài ra ngân hàng cũng có thể
là người cung cấp thông tin bổ ích về thị trường, về tiến bộ khoa học công nghệ
cho khách hàng. Có làm được như vậy thì nguồn vốn của doanh nghiệp mới thực
sự phát huy được vai trò đòn bẩy kinh tế cả đối với ngân hàng và khách hàng. Như
vậy rõ ràng chỉ nguyên việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng cũng không phải là
một nhiệm vụ dễ dàng đối với các ngân hàng thương mại nhằm nâng cao chất

lượng cho vay của mình.
Yêu cầu thứ hai để có thể có hiệu quả và chất lượng của các khoản vay là
phải bảo đảm được sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Nói cách khác, hoạt
động cho vay phải mang lại cho ngân hàng thu nhập đủ để trang trải cho các chi
phí liên quan và có lãi, hạn chế thấp nhất nhu cơ rủi ro. Điều này không chỉ phụ
thuộc vào ngân hàng mà còn phụ thuộc vào khách hàng (những người vay vốn để
đầu tư). Một khoản cho vay chỉ có thể coi là có hiệu quả khi các nguyên tắc cho
vay được tuân thủ triệt để: sử dụng vốn vay đúng mục đích và có hiệu quả; hoàn
trả nợ gốc và lãi đúng hạn. Việc tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc cho vay vừa là
điều kiện cần thiết vừa là sự biểu hiện của chất lượng một khoản vay. Mục đích sử
dụng vốn vay đã ký kết trong hợp đồng tín dụng được cả ngân hàng và khách hàng
phân tích, đánh giá kỹ lưỡng cả về hiệu quả, tính khả thi cũng như mức độ phù hợp
với chính sách phát triển kinh tế xã hội chung của ngành, của địa phương và của cả

×