HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
TỔ GIÁO DỤC QUỐC PHỊNG VÀ AN NINH
-------------------------
TIỂU LUẬN
HP2 CƠNG TÁC QUỐC PHỊNG VÀ AN NINH
Phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
Sinh viên: PHẠM THỊ THẢO
Mã số sinh viên: 2052020037
Lớp 2: XDĐ & CQNN K40
Hà nội, tháng 09 năm 2021
LỜI CẢM ƠN
Để đề tài được hoàn thành ngoài nỗ lực bản thân, em xin gửi lời cảm ơn
chân thành tới các thầy đã giúp đỡ em trong q trình học tập mơn học GIÁO
DỤC QUỐC PHỊNG – AN NINH cũng như trong q trình thực hiện tiểu luận.
Do tình hình dịch bệnh covid 19 diễn biến phức tạp, để đảm bảo kết thúc
học phần đánh giá kết quả học tập cho sinh viên nhà trường và Tổ Giáo dục
Quốc Phòng và An Ninh đã tạo điều kiện cho chúng em tham gia làm bài tiểu
luận thay cho kì thi chung như bình thường, dù có nhiều thay đổi song em vẫn cố
gắng nắm bắt và tiếp thu kiến thức hết sức mình. Tuy nhiên thời gian làm bài cịn
nhiều hạn chế, em khơng thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự
đánh giá, góp ý của thầy (cơ) để tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Phạm Thị Thảo
1
ĐỀ TÀI: “PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẢO
VỆ MÔI TRƯỜNG”
Phần 1: MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Thế kỉ của chúng ta đang sống là thế kỉ của công nghệ khoa học, của thời đại
4.0 phát triển không ngừng. Con người cũng vì thế mà bị cuốn vào vịng xoáy
vội vã ấy mà quên lãng đi những thứ xung quanh mình. Khoa học cơng nghệ
đem đến cho chúng ta một cuộc sống phát triển nhưng đi kèm đó cũng là những
hệ lụy không dễ dàng giải quyết. Đặc biệt là ảnh hưởng tiêu cực tới mơi trường
sống của chính nhân loại, chính cuộc sống của mỗi chúng ta. Chúng ta dường
như qn rằng bảo vệ mơi trường cũng chính là bảo vệ cuộc sống của chính bản
thân mình. Mơi trường là một tổ hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh bên
ngoài của một hệ thống hoặc một cá thể, sự vật nào đó có tác động, ảnh hưởng
trực tiếp hoặc gián tiếp đến sức khỏe, đời sống của con người. Nói một cách dễ
hiểu hơn, gần gũi hơn, mơi trường chính là ngơi nhà của chúng ta. Mái nhà ấy có
thể đẹp hay khơng, vững chãi hay khơng, mãi trường tồn hay khơng chính là nhờ
vào sự bảo vệ của mỗi cá nhân chúng ta.
2. Tính cấp thiết
Cuộc sống ngày càng phát triển thì các nhóm tơi phạm cũng xuất hiện và hành
động một cách tinh vi hơn, đặc biệt là xuất hiện rất nhiều những vi phạm trong
bảo vệ môi trường. Như chúng ta cũng biết, môi trường là tổng hợp các yếu tố
vật chất tự nhiên như vật lý, hóa học, sinh học tồn tại ngồi ý chí chủ quan của
con người và các yếu tố nhân tạo bao gồm tổng thể quan hệ giữ người với người
có quan hệ mật thiết với nhau, có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của con
người và sinh vật. Mơi trường có rất nhiều vai trị trong đó cụ thể là: Mơi trường
là không gian sống lý tưởng của con người và các lồi sinh vật; Mơi trường là
2
nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con
người; Môi trường là nơi chứa đựng, trung hòa và phân hủy các chất phế thải do
con người tạo ra trong cuộc sống và hoạt động sản xuất của mình; Mơi trường là
nơi bảo vệ con người và sinh vật ra khỏi các tác động bên ngồi; Mơi trường là
nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người…vv. Môi trường tự nhiên là
nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá cung cấp đa dạng cho các hoạt động sản
xuất và trong đời sống hằng ngày của con người như: đất, nước, khơng khí,
khống sản và các dạng năng lượng ánh sáng, gió… cũng như các sản phẩm
công, nông, lâm, ngư nghiệp và văn hóa, du lịch. Hiện nay tình trạng ơ nhiễm
mơi trường đang diễn biến nghiêm trọng dẫn đến nhiều hệ lụy như biến đổi khí
hậu, thời tiết khắc nghiệt, mưa axit, mức nước biển dâng, sa mạc hóa. Theo một
số nghiên cứu cho thấy, Trái đất đang nóng hơn 40oC so với kỷ băng hà cách đây
13.000 năm. Và có thể trong 100 năm trở lại đây, nhiệt độ sẽ tăng từ 0.6 – 0.7 oC
và ước tính trong vịng 100 năm tới nhiệt độ sẽ tăng khoảng 1.4 – 5.8 oC. Sự nóng
lên của trái đất sẽ gây ra những ảnh hưởng lớn đến môi trường sống của con
người. Khi nhiệt độ tăng cao sẽ xảy ra hiện tượng băng tan và mực nước biển
cũng dâng theo; số cơn bão diễn ra hằng năm tăng cao; làm phá vỡ tầng ozon…
Bên cạnh đó, một số lồi động vật cịn có thể mất đi mơi trường sống của mình
và nếu chúng khơng kịp thích ứng với sự thay đổi đột ngột này có thể sẽ bị tuyệt
chủng. Khi mơi trường bị ô nhiễm, cuộc sống của con người cũng sẽ bị đe dọa và
ảnh hưởng nặng nề. Con người có thể sẽ mắc các bệnh như về phổi, tim mạch,
gan, trẻ em có thể chậm phát triển về tư duy… Tất cả những điều đó đang ngày
ngày rình rập cuộc sống của mỗi chúng ta, nếu khơng sớm nhận ra thì ngày tận
thế đang từ từ đến rất gần. Vì vậy, việc cấp thiết cần phải làm hiện nay đó là giữ
gìn, phịng ngừa, hạn chế các tác động xấu đến mơi trường, bảo vệ mơi trường và
ứng phó với sự cố mơi trường; khắc phục ơ nhiễm, suy thối, cải thiện, phục hồi
môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi
3
trường trong lành. Để bảo vệ mơi trường thì mỗi cá thể phải tự giác ý thức được
trách nhiệm của bản thân mình đối với mơi trường, sự thay đổi tích cực nhất
chính là đến từ sự thay đổi của mỗi bản thân, mỗi cá thể. Bên cạnh đó, cơng tác
phịng, chống của những lực lượng chức cũng đóng góp một phần không nhỏ xây
dựng nên một cuộc sống trong lành, tươi đẹp, an toàn và chất lượng hơn.
Nhận thấy được tính cấp thiết ấy, em đã chọn đề tài “Phịng, chống vi phạm
pháp luật về bảo vệ mơi trường” làm bài tiều luận kết thúc học phần 2 đường lối
quốc phịng và an ninh của mình.
Phần 2: NỘI DUNG
I. Nhận thức chung về vi phạm pháp luật về bảo vệ mơi trường
1. Khái niệm, vai trị và quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường
1.1. Khái niệm
Bảo vệ môi trường là nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ
trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước, các cấp, các
ngành, là cơ sở quan trọng để phát triển bền vững và thực hiện thành công sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với phương châm lấy phòng
ngừa và ngăn chặn làm nguyên tắc chủ đạo, kết hợp với xử lý ô nhiễm, cải thiện
môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên; phát huy năng lực nội sinh, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về bảo vệ môi
trường. Để bảo vệ môi trường, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật
quy định những quy tắc xử sự buộc các cá nhân, tổ chức phải tuân thủ khi tham
gia khai thác, sử dụng các thành phần của mơi trường như vai trị, trách nhiệm
của các chủ thể; quy định các hành vi bị nghiêm cấm trong việc khai thác, sử
dụng các thành phần của môi trường; quy định các biện pháp bảo vệ môi trường
cũng như quy định các chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo
vệ mơi trường. Theo đó, pháp luật về bảo vệ mơi trường là hệ thống các văn bản
4
pháp luật quy định những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận
nhằm giữ gìn, phịng ngừa, hạn chế các tác động xấu đến môi trường; ứng phó sự
cố mơi trường; khắc phục ơ nhiễm, suy thối, cải thiện, phục hồi mơi trường;
khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong
lành.
1.2. Vai trị của pháp luật trong cơng tác bảo vệ mơi trường
Pháp luật có vai trị rất quan trọng trong công tác bảo vệ môi trường. Môi
trường bị hủy hoại chủ yếu là do sự “tác động quá mức” của con người đối với
các thành phần cấu tạo nên mơi trường tự nhiên. Chính con người trong q trình
khai thác các yếu tố (thành phần) của môi trường đã làm mất sự cân bằng sinh
thái, gây ô nhiễm, suy thối thậm chí hủy hoại mơi trường. Vì vậy, muốn bảo vệ
môi trường trước hết phải tác động đến con người bằng những chế tài nhất định.
Pháp luật với tư cách là hệ thống các quy phạm điều chỉnh hành vi xử sự của con
người sẽ có tác dụng rất lớn vì vậy vai trị của pháp luật trong BVMT được thể
hiện qua những khía cạnh sau:
Pháp luật quy định những quy tắc xử sự mà con người phải thực hiện khi
khai thác và sử dụng các yếu tố (thành phần) của môi trường.
Pháp luật xây dựng hệ thống các quy chuẩn môi trường, tiêu chuẩn môi
trường để bảo vệ môi trường.
Phát luật quy định các chế tài hình sự, kinh tế, hành chính, dân sự buộc
các cá nhân, tổ chức phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu đòi hòi pháp luật
trong việc khai thác, sử dụng các yếu tố của môi trường.
Pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân tham gia bảo vệ môi trường
Giải quyết các tranh chấp liên quan đến bảo vệ môi trường.
1.3. Quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường
Pháp luật về tổ chức, quản lý các hoạt động bảo vệ môi trường:
5
+ Hiến pháp (1980, 1992, 2013) quy định về công tác bảo vệ môi trường
+ Luật, Pháp lệnh quy định về bảo vệ môi trường
+ Nghị định, Nghị quyết, Quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
+ Các văn bản hướng dẫn của các cấp về công tác bảo vệ môi trường
Pháp luật xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường:
+ Xử lý hình sự
+ Xử lý vi phạm hành chính
+ Xử lý trách nhiệm dân sự trong bảo vệ môi trường
2. Khái niệm, dấu hiệu của vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
2.1. Khái niệm
Tội phạm về môi trường là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến các quy định của
Nhà nước về bảo vệ môi trường, xâm phạm đến các thành phần của mơi trường
làm thay đổi trạng thái, tính chất của môi trường gây ảnh hưởng xấu tới sự tồn
tại, phát triển con người và sinh vật, mà theo quy định phải bị xử lý hình sự.
Nội dung:
Thứ nhất, tội phạm về môi trường phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác
động tiêu cực và gây tổn hại ở mức độ đáng kể đến các yếu tố của môi trường,
tài nguyên gây thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp đến tính mạng, sức khỏe, tài sản
của con người, đến sự sống của động vật, thực vật sống trong mơi trường đó.
Thứ hai, tội phạm về mơi trường phải xâm hại đến các quan hệ được luật hình sự
bảo vệ.
2.2. Dấu hiệu vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
Thể hiện dưới 4 yếu tố cấu thành tội phạm
Khách thể của tội phạm:
6
Sự xâm phạm các quy định của Nhà nước trong bảo vệ môi trường, xâm
phạm sự ổn định của môi trường.
Đối tượng tác động của các tội phạm về mơi trường: đất, nước, khơng
khí, hệ sinh thái…
Mặt khách quan của tội phạm:
Nhóm các hành vi gây ơ nhiễm môi trường (quy định tại các điều 235,
236, 237, 239 - Bộ luật hình sự hiện hành)
Nhóm các hành vi hủy hoại tài nguyên, môi trường (quy định tại các điều
238, 242, 243, 244, 245, 246 - Bộ luật hình sự hiện hành)
Nhóm các hành vi làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm (quy định tại các điều
240, 241- Bộ luật hình sự hiện hành). Trong tình hình dịch bệnh diễn ra
căng thẳng, hành động vơ ý thức của bệnh nhân số 17 đã khiến cho cả
nước rơi vào thời kì bùng phát dịch bệnh, gây tổn thất nặng nề cho mọi
lĩnh vực.
Chủ thể của tội phạm: bất kỳ người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và
đạt đủ tuổi, đặc biệt là người có chức vụ quyền hạn.
Mặt chủ quan của tôi phạm: thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vơ ý, đa số là
cố ý. Chủ thể nhận thức được rõ hành vi là sai nhưng vẫn thực hiện. Vụ việc
Formosa Hà Tĩnh năm 2016 đã xả 1 lượng lớn nước thải chưa qua xử lý ra
biển khiến cá chết hàng loạt, không chỉ gây thiệt hại kinh tế nặng nề mà còn
để lại rất nhiều những hệ lụy về sau cho những người con vùng đất nghèo đó.
Về hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường
+ Hành vi vi phạm các quy định về cam kết bảo vệ môi trường, báo cáo đánh giá
tác động môi trường, đề án bảo vệ môi trường;
+ Hành vi gây ô nhiễm môi trường; Hành vi vi phạm các quy định về quản lý
chất thải;
7
+ Hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ mơi trường trong hoạt động nhập
khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện giao thông vận tải, nguyên liệu, nhiên liệu,
vật liệu, phế liệu, chế phẩm sinh học;
+ Hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch và
khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên;
+ Hành vi vi phạm các quy định về thực hiện phịng, chống, khắc phục ơ nhiễm,
suy thối, sự cố mơi trường;
+ Hành vi vi phạm về đa dạng sinh học bao gồm: Bảo tồn và phát triển bền vững
hệ sinh thái tự nhiên;
+ Hành vi vi phạm các quy định về Bảo tồn và phát triển bền vững các loài sinh
vật và bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên di truyền;
+ Hành vi cản trở hoạt động quản lý nhà nước, kiểm tra, phối hợp thanh tra, xử phạt vi
phạm hành chính
Hình thức lỗi: cố ý hoặc vô ý nhưng chủ yếu là cố ý
Hình thức xử lý: sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật hành chính bao
gồm phạt tiền, cảnh cáo, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm và áp dụng các
biện pháp ngăn chặn hành chính khác.
3. Nguyên nhân, điều kiện của vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
3.1. Nguyên nhân, điều kiện khách quan
Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành nhiều chính sách ưu đãi để
phát triển kinh tế mà không quan tâm đến bảo vệ môi trường: Đất nước ta trong
thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm thu hút đầu tư
với nhiều chính sách ưu đãi, nhập khẩu máy móc, phương tiện, thiết bị phục vụ
cơng nghiệp hố, hiện đại hố, nhưng cơng tác kiểm tra, kiểm sốt và quản lý
xuất nhập khẩu chưa chặt chẽ để các đối tượng lợi dụng thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật về môi trường. Việc mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều
kiện phát triển cho các ngành công nghiệp, khai thác khoáng sản, xuất nhập
khẩu, sản xuất hàng hóa sẽ có điều kiện phát triển, song cũng sẽ phải đối mặt với
8
một thách thức đó là các hành vi gây ơ nhiễm, huỷ hoại môi trường, khai thác
cạn kiệt tài nguyên môi trường.
Áp lực tăng trưởng kinh tế, các cơ quan ở địa phương mới chỉ quan tâm đến
lợi ích kinh tế trước mắt, chưa chú trọng đúng mức đến công tác bảo vệ môi
trường: Nhận thức không đầy đủ về công tác BVMT đã kêu gọi đầu tư dàn trải,
cấp phép kinh doanh ồ ạt, không quan tâm đến việc thẩm định ảnh hưởng của
các dự án đối với môi trường.
Công tác quản lý nhà nước về môi trường: Việc phân định chức năng quản lý
nhà nước và phân công trách nhiệm giữa các Bộ, ban ngành trong công tác bảo
vệ mơi trường nói chung, bảo vệ các thành phần mơi trường nói riêng cịn chồng
chéo, trùng dẫm về chức năng nhiệm vụ hoặc mỗi một Bộ lại quản lý một khâu,
một hoạt động nên việc thống nhất quản lý xuyên suốt có sơ hở, để cho các đối
tượng lợi dụng thực hiện tội phạm, vi phạm pháp luật về môi trường.
Hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ mơi trường cịn thiếu và chưa đồng bộ:
Văn bản pháp luật về môi trường hiện nay đang trong giai đoạn xây dựng, bổ
sung và hoàn thiện. Hệ thống các văn bản pháp luật về môi trường hiện nay “vừa
thiếu lại vừa thừa”. Thiếu những văn bản pháp quy mang tính thống nhất và có
hiệu lực cao. Nhiều văn bản pháp luật cịn chồng chéo, trùng lập. Trong khi đó,
thiếu các Thơng tư hướng dẫn thực hiện dẫn đến khó khăn cho lực lượng thực
hiện nhiệm vụ.
3.2. Nguyên nhân, điều kiện chủ quan
Nhận thức của một số bộ phận các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường: Nhận thức chưa cao, ý thức BVMT của các cơ quan, doanh nghiệp và
cơng dân cịn kém, chưa tự giác, vấn đề bảo vệ môi trường chưa được quan tâm
chú trọng đúng mức. Chính quyền các cấp, các ngành chỉ chú trọng phát triển
kinh tế chưa coi trọng công tác bảo vệ môi trường; thực hiện các biện pháp thu
9
hút đầu tư, cấp phép dự án nhưng chưa quan tâm chỉ đạo thực hiện các cam kết
BVMT, đầu tư hệ thống hạ tầng đảm bảo cho công tác xử lý chất thải, rác thải.
Các cơ quan chức năng chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong phòng,
chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường: Đội ngũ cán bộ chiến sỹ trực tiếp
đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật về bảo vệ mơi trường cịn thiếu, chưa
đủ biên chế ở các cấp Công an, dẫn đến cơng tác quản lý địa bàn, quản lý đối
tượng có điều kiện, khả năng phạm tội về mơi trường cịn có những thiếu sót, bất
cập, một số địa bàn cịn bỏ trống, đối tượng đi đâu, làm gì chưa nắm bắt. Vì vậy,
dẫn đến các hành vi vi phạm hành chính về mơi trường ngay từ ban đầu cịn chưa
kịp thời phát hiện, giải quyết triệt để đã trở thành tội phạm. Bên cạnh đó, một số
cán bộ trong lực lượng trực tiếp đấu tranh phòng, chống còn yếu về năng lực
nghiệp vụ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu của cơng tác phịng, chống
tội phạm mơi trường thời kỳ hội nhập, thời kỳ CNH-HĐH. Phần lớn cán bộ trong
lực lượng trực tiếp đấu tranh phòng, chống còn thiếu các kiến thức chuyên sâu
về môi trường, đặc biệt là trong các lĩnh vực quản lý môi trường, công nghệ môi
trường, xử lý chất thải. Một số được tuyển dụng từ ngành ngồi vào, có kiến thức
về mơi trường song lại hạn chế về năng lực nghiệp vụ, dẫn đến những bất cập
trong phát hiện, xử lý các hành vi phạm tội và vi phạm pháp luật về môi trường.
3.3. Nguyên nhân thuộc về đối tượng vi phạm
Vi phạm pháp luật về mơi trường nói chung phần lớn đều có động cơ, mục
đích tư lợi cá nhân, đặc biệt là đối tượng phạm tội về môi trường, hầu hết đều có
mục đích thu lợi bất chính về kinh tế.
Phần lớn các đối tượng đều biết song do chi phí cho xử lý chất thải thường tốn
kém nên giá thành sản phẩm sẽ cao, không cạnh tranh được trên thị trường nên
các đối tượng không đầu tư, chấp nhận bị xử phạt còn rẻ hơn là đầu tư xử lý chất
thải.
10
Ý thức coi thường pháp luật, sống thiếu kỷ cương không tuân thủ các quy tắc,
chuẩn mực xã hội cùng với việc ý thức sai lệch về cách thỏa mãn nhu cầu cá
nhân là yếu tố chủ quan dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ mơi
trường của các đối tượng.
II. NHẬN THỨC VỀ PHỊNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
1. Khái niệm, đặc điểm
1.1. Khái niệm
Phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường là hoạt động các cơ
quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân bằng việc sử dụng tổng hợp các
biện pháp, phương tiện nhằm ngăn chặn, hạn chế tình hình vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường; phát hiện, loại trừ các nguyên nhân, điều kiện của vi phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường; khi vi phạm pháp luật về bảo vệ mơi trường xảy
ra thì hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả tác hại, kịp thời phát hiện, điều tra, xử
lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
1.2 Đặc điểm
Chủ thể tiến hành tham gia phịng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ mơi
trường rất đa dạng. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hành được quy định
trong các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để
tiến hành các hoạt động phòng ngừa cũng như điều tra, xử lý phù hợp.
Biện pháp tiến hành phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
được triển khai đồng bộ, có sự kết hợp hài hịa giữa các biện pháp phòng ngừa
(phòng ngừa xã hội và phòng ngừa nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn) với các
biện pháp điều tra, xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường (cả tội phạm và vi phạm hành chính).
Phịng, chống vi phạm PL về BVMT có liên quan trực tiếp đến việc sử dụng
các công cụ phương tiện nghiệp vụ và ứng dụng tiến bộ của khoa học công nghệ.
11
Phịng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ mơi trường có sự phối kết hợp chặt
chẽ giữa các chủ thể tham trên cơ sở chức năng, quyền hạn được phân cơng.
2. Nội dung, biện pháp phịng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ mơi
trường
2.1. Nội dung phịng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ mơi trường
Nắm tình hình vi phạm pháp luật về bảo vệ mơi trường, nghiên cứu làm rõ
những vấn đề có tính quy luật trong hoạt động vi phạm pháp luật của các đối
tượng.
Xác định và làm rõ các nguyên nhân, điều kiện của vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường.
Xây dựng các kế hoạch, biện pháp, các giải pháp chủ động hạn chế các
nguyên nhân, khắc phục các điều kiện của vi phạm PL về BVMT.
Tổ chức lực lượng tiến hành các hoạt động khắc phục các nguyên nhân, điều
kiện của tội phạm về môi trường, từng bước kiềm chế, đẩy lùi tình trạng vi phạm
pháp luật về bảo vệ mơi trường.
Tiến hành các hoạt động điều tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ mơi
trường.
2.2. Biện pháp phịng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
Các biện pháp phịng, chống chung:
Biện pháp tổ chức - hành chính: Xây dựng, hoàn thiện cơ cấu tổ chức các cơ
quan quản lý Nhà nước về môi trường.
Biện pháp kinh tế: Biện pháp này chủ yếu dùng các lợi ích vật chất để kích thích
chủ thể thực hiện những hoạt động có lợi cho mơi trường, bảo vệ mơi trường và
ngược lại xử lý, hạn chế lợi ích kinh tế của chủ thể vi phạm.
Biện pháp khoa học - công nghệ: Là ứng dụng các biện pháp khoa học công
nghệ vào giải quyết những vấn đề môi trường.
12
Biện pháp tuyên truyền, giáo dục: là giáo dục, tuyên truyền đường lối chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng vào
việc bảo vệ môi trường;
Biện pháp pháp luật là biện pháp xây dựng các quy phạm pháp luật và tổ chức
thực hiện, áp dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc
bảo vệ môi trường.
Các biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường cụ thể:
Tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền và các cơ quan, ban ngành có liên
quan trong đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Phối hợp với các cơ quan có liên quan tiến hành các hoạt động tuyên truyền,
giáo dục quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào cơng tác đấu tranh phịng
chống tội phạm, vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Phối hợp với các lực lượng, các ngành có liên quan để vận động quần chúng
tham gia tích cực vào hoạt động phịng, chống tội phạm, vi phạm hành chính về
mơi trường và bảo vệ môi trường.
Sử dụng các hoạt động nghiệp vụ chuyên môn để phịng, chống vi phạm pháp
luật về bảo vệ mơi trường.
3. Chủ thể tham gia phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường
Trong Hiến pháp 2013, tại Điều 43, quy định: “Mọi người có quyền được sống
trong mơi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ mơi trường ”. Khoản 1, Điều
4, Luật BVMT 2014 quy định: “Bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ
mọi của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân”. . Do vậy, để cơng tác phịng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác về bảo vệ mơi trường
đạt kết quả địi hỏi phải có sự chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, sự tham gia, phối
hợp chặt chẽ, nhịp nhàng của các cấp, các ngành và toàn xã hội, trên cơ sở phân
định rõ chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể. Theo đó, các chủ thể có trách
13
nhiệm trong bảo vệ mơi trường và phịng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường như sau:
Đảng lãnh đạo Nhà nước, các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị và
quần chúng nhân dân: tham gia vào phịng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ
mơi trường thơng qua việc hoạch định các chủ trương, chính sách, ban hành các
văn bản hướng dẫn, nghị quyết, chỉ thị.
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp: ban hành và hoàn thiện hệ thống pháp
luật, ban hành các Pháp lệnh, Nghị quyết về bảo vệ mơi trường.
Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp: Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp
thống nhất quản lý Nhà nước về BVMT trong phạm vi cả nước, ban hành các
Nghị định, Nghị quyết, Quyết định.
Nhiệm vụ của Bộ Tài nguyên và môi trường: chịu trách nhiệm trước Chính
phủ trong việc thực hiện quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường.
Nhiệm vụ của Bộ Xây dựng: Trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực
hiện pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các hoạt động xây dựng cơ bản, xử
lý chất thải rắn.
Nhiệm vụ của Bộ Y tế: Trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, ban hành quy
chế quản lý chất thải y tế; công tác bảo vệ môi trường tại các cơ sở y tế.
Nhiệm vụ của Bộ Thông tin truyền thông: đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
giáo dục phịng, chống tội phạm về bảo vệ mơi trường.
Bộ Tư pháp: Bộ Tư pháp nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản
pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực y tế.
Các tổ chức xã hội, đồn thể quần chúng và cơng dân; Trách nhiệm hộ gia
đình và cơng dân; Các cơ quan bảo vệ pháp luật (Cơng an, Viện kiểm sát, Tồ
án,... cần phối hợp nhịp nhàng hơn để phát huy hết khả năng của mình.
14
III. Thực trạng và giải pháp phòng, chống tội phạm về môi trường ở Việt
Nam hiện nay
1.Thực trạng tội phạm về mơi trường và kết quả cơng tác đấu tranh
phịng chống tội phạm về môi trường
1.1. Thực trạng tội phạm về môi trường thời gian qua
Thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế những năm qua cho thấy, Việt Nam đã mở
ra một giai đoạn mới trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh hiệu quả về phát triển kinh tế xã
hội. Việt Nam cũng đối diện với vấn đề môi trường bị ô nhiễm, nguồn. Các khu
công nghiệp, làng nghề, khu đơ thị được hình thành nhanh chóng làm cho nguồn
rác thải cơng nghiệp cũng như rác thải sinh hoạt đưa vào môi trường ngày càng
nhiều, gây ô nhiễm không khí, đất, nước. Hầu hết các khu cơng nghiệp chưa có
hệ thống xử lý mơi trường tập trung hoặc có nhưng hoạt động chỉ mang tính chất
đối phó; việc các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất xả nước thải trực tiếp ra sông,
biển là khá phổ biến. Tình trạng nhập khẩu trái phép chất thải vào nước ta dưới
hình thức phế liệu làm nguyên liệu sản xuất trong nước, kể cả thiết bị công nghệ
lạc hậu dẫn đến nguy cơ biến nước ta thành bãi thải công nghiệp. Tình trạng săn
bắt, bn bán động vật hoang dã, quý hiếm xảy ra hết sức nghiêm trọng, làm
giảm tính đa dạng sinh học; số vụ ngộ độc thực phẩm, ngộ độc hóa chất bảo vệ
thực vật tăng nhanh làm cho tình hình tội phạm về mơi trường và vi phạm pháp
luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam ngày càng gia tăng, khơng những ảnh
hưởng tới tính mạng, sức khỏe và tài sản của cá nhân, tổ chức mà cịn gây thiệt
hại nghiêm trọng đối với mơi trường nói chung.
1.2. Những kết quả đạt được và những hạn chế
Theo số liệu thống kê của Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm môi trường
(C49) Bộ Công an, trong 10 năm qua (từ 2006 đến 2015), toàn lực lượng đã phát
hiện, xử lý hơn 100.000 vụ vi phạm pháp luật về môi trường; khởi tố hơn 3.000
15
vụ với 4.300 bị can; xử phạt vi phạm hành chính 97.000 vụ với số tiền 1.166 tỷ
đồng. Đặc biệt, đã điều tra, xử lý nhiều vụ phạm tội môi trường, tài nguyên, an
toàn thực phẩm nghiêm trọng, phức tạp, gây bức xúc trong nhân dân.
Trong khi đó, cũng trong 10 năm (2006 đến 2015), hệ thống Tòa án nhân dân
đã thụ lý 2.331 vụ, với 4.342 bị cáo. Trong đó, xét xử 2.237 vụ, với 4.145 bị cáo
phạm tội về mơi trường, chiếm 0,37% tổng số vụ án hình sự đã xét xử. (Nguồn:
Tòa án nhân dân tối cao).
Qua số liệu thống kê trên cho thấy, trong những năm qua công tác điều tra,
truy tố, xét xử tội phạm về môi trường bước đầu đã đạt được những kết quả nhất
định. Tuy nhiên, hoạt động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm về mơi
trường vẫn gặp nhiều khó khăn và bộc lộ những hạn chế. Thực tế, từ trước tới
nay, chúng ta chủ yếu mới chỉ điều tra khởi tố và đưa ra xét xử đối với các hành
vi vi phạm thuộc hai tội danh: Hủy hoại rừng (Điều 189BLHS) và tội Vi phạm
quy định về bảo vệ động vật hoang dã, quý hiếm (Điều 190BLHS). Trong khi đó,
các tội danh khác, mặc dù gây hậu quả rất nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản
của người dân và môi trường xung quanh nhưng không thể truy cứu trách nhiệm
hình sự được. Điển hình như vụ Vedan, Nicotex Thanh Thái, Hào Dương và gần
đây nhất là vụ Formosa Hà Tĩnh… vấn đề xử lý hình sự đều được đặt ra, song
kết quả chỉ dừng lại ở xử lý vi phạm hành chính.
Những hạn chế nêu trên xuất phát chủ yếu từ những nguyên nhân sau:
Chưa có sự hướng dẫn kịp thời về Chương các tội phạm về môi trường trong
BLHS 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Việc nhận diện được một hành
vi vi phạm môi trường là rất khó, địi hỏi phải có sự trợ giúp của các phương tiện
khoa học kỹ thuật, phải có sự đánh giá của các cơ quan chuyên ngành, có sự định
tính, định lượng cụ thể mới có thể xác định đó là một hành vi vi phạm pháp luật
về mơi trường. Mặt khác, trước đây theo quy định của pháp luật thì một hành vi
vi phạm pháp luật về mơi trường chỉ có thể bị xử lý về hình sự khi chủ thể tiến
16
hành các hành vi đó “đã bị xử phạt hành chính mà cố tình khơng thực hiện các
biện pháp khắc phục theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền gây hậu quả
nghiêm trọng”. Hoặc những yếu tố được quy định trong Chương các tội phạm về
môi trường như: “hậu quả nghiêm trọng”, “hậu quả rất nghiêm trọng”, “hậu
quả đặc biệt nghiêm trọng”, “Huỷ hoại diện tích rừng rất lớn”… vẫn rất chung
chung, gây nhiều khó khăn cho các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc truy tố,
xét xử các loại án này.
Bên cạnh đó, việc xác định chứng cứ trong các tội phạm này rất khó khăn, đặc
biệt đối với tội gây ơ nhiễm khơng khí và nguồn nước. Trường hợp gây ơ nhiễm
khơng khí, mặc dù biết rõ có rất nhiều chất độc hại trong khơng khí của một khu
vực nào đó, nhưng chúng lan tỏa rất nhanh nên việc chứng minh sự xấu đi của
khơng khí là rất khó khăn. Hoặc đối với tội gây ơ nhiễm nguồn nước: Chất thải
công nghiệp, y tế, xác động vật, thải các chất dầu, mỡ, nước thải sinh hoạt, vi
khuẩn, siêu vi khuẩn gây dịch bệnh chỉ trong một thời gian ngắn nó đã lan tỏa
sang những khu vực khác nên rất khó xác định.
Mặt khác, trong một thời gian dài, quan niệm của chúng ta về vấn đề bảo vệ
mơi trường cịn bị xem nhẹ, chưa coi vấn đề môi trường là cấp thiết cần ưu tiên
giải quyết. Ý thức pháp luật, ý thức bảo vệ môi trường của đại bộ phận nhân dân
nhất là các doanh nghiệp cịn nhiều hạn chế. Cơng tác tun truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ.
Công tác phối hợp giữa các lực lượng trong phịng, chống tội phạm về mơi
trường có nơi, có lúc chưa đồng bộ, cịn lúng túng, bị động do chưa có kinh
nghiệm và chưa rõ về cơ chế; công tác phối hợp trong phát hiện, điều tra, xử lý
chưa thống nhất. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cơng tác phịng, chống tội
phạm cịn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác.
17
2. Những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh
phịng chống tội phạm về mơi trường
Để nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm về môi
trường ở Việt Nam hiện nay, theo chúng tôi cần tập trung thực hiện một số giải
pháp sau:
Một là: Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp
luật về tội phạm môi trường.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội phạm về mơi trường thì cơng
tác tun truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật về tội phạm môi trường có
vai trị vơ cùng quan trọng. Hiện nay, chúng ta đã có Hội đồng phổ biến giáo dục
pháp luật ở từng địa phương và cơ sở; việc phổ biến, giáo dục pháp luật nói
chung, pháp luật bảo vệ mơi trường và phịng, chống các tội phạm về mơi trường
nói riêng đã thu được kết quả nhất định. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng
công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cịn nặng về tính hình thức, hiệu quả
chưa cao. Nội dung tuyên truyền, phổ biến chưa thật sát với nhu cầu, điều kiện
của đối tượng cần được tuyên truyền, phổ biến nhất là những người dân sống ở
nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa và đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc
thiểu số. Chúng ta đang thiếu một hệ thống dịch vụ pháp lý đủ mạnh để giúp
người dân, doanh nghiệp nắm vững pháp luật, xử sự theo pháp luật trong hoạt
động nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Mặt khác, thơng tin pháp
luật chưa kịp thời, thống nhất. Do đó, cần phải thường xun và đa dạng hóa các
hình thức tun truyền, giáo dục, trang bị những tri thức cần thiết về bảo vệ môi
trường, sinh thái cho quần chúng nhân dân, đặc biệt là các doanh nghiệp thông
qua các phương tiện truyền thông đại chúng như sách báo, phát thanh, truyền
hình… có như vậy, mới nâng cao được hiệu quả hoạt động phịng ngừa các tội
phạm về mơi trường ở Việt Nam hiện nay.
18
Hai là: Hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm về
mơi trường.
Đất nước ta trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ chế quản lý chưa
thật đồng bộ, chính sách kinh tế – xã hội cịn nhiều thiếu sót. Hệ thống pháp luật
của chúng ta tuy đã có nhiều về số lượng, thay đổi về chất lượng nhưng chưa đáp
ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm đặc biệt là các tội phạm về
mơi trường. Vì vậy, cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo
cơ sở pháp lý đầy đủ cho hoạt động phòng, chống tội phạm về môi trường.
Ba là: Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật
trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm về mơi trường.
Bốn là: Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong
phòng, chống tội phạm về môi trường; trang bị đầy đủ phương tiện, thiết bị kỹ
thuật hiện đại và kinh phí phục vụ cơng tác phịng, chống tội phạm về mơi
trường.
Năm là: Tăng cường ký kết hoặc gia nhập các công ước quốc tế trong lĩnh
vực tội phạm về môi trường.
Nhà nước ta đang tham gia tích cực vào việc giải quyết các vấn đề mang tính
tồn cầu. Quan điểm tăng cường giao lưu, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đấu
tranh phòng, chống tội phạm cần được quán triệt sâu sắc trong xây dựng và thực
hiện pháp luật. Hệ thống pháp luật hình sự nói chung và pháp luật về tội phạm
mơi trường nói riêng cần phải hài hòa với các chuẩn mực quốc tế, đồng thời nội
luật hóa các cam kết quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, tăng cường hợp
tác, giao lưu về pháp luật và thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế góp phần tăng
cường quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho việc thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta, đặc biệt là hội nhập
kinh tế quốc tế, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa.
19
Bên cạnh việc tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn
bản quy phạm pháp luật trên cơ sở đối chiếu, so sánh với các cam kết, chuẩn
mực trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã hoặc sẽ tham gia nhằm làm cho
các quy định pháp luật trong nước phù hợp với luật pháp quốc tế, đảm bảo cho
việc thực hiện các cam kết quốc tế thì chúng ta cũng cần phải khẩn trương ban
hành Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện
điều ước quốc tế trong đó quy định rõ quy trình, cơ chế chuyển hóa các quy
phạm của điều ước quốc tế vào hệ thống pháp luật Việt Nam và quy định điều
kiện, thủ tục thi hành điều ước quốc tế tại Việt Nam.
Sáu là: Hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm về môi trường.
Bảo vệ môi trường là vấn đề mang tính tồn cầu. Do đó, Nhà nước cần có
những chính sách phù hợp để đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm về mơi trường. Ví dụ như: Tham gia
các diễn đàn, hội thảo, hội nghị về môi trường để thảo luận, trao đổi kinh nghiệm
cũng như đúc rút các bài học về bảo vệ môi trường; tranh thủ các nguồn tài trợ
quốc tế. Đặc biệt là của “Quỹ Mơi trường tồn cầu” nhằm huy động và tiếp nhận
cho vay vốn phục vụ mục đích phịng, chống tội phạm về mơi trường.
3. Liên hệ thực tế với Việt Nam
Ơ nhiễm môi trường đang là vấn đề đáng lo ngại khơng những đối với các
nước phát triển mà cịn là sự thách thức đối với các nước đang phát triển trong
đó có Việt Nam. Thời kỳ cơng nghiệp phát triển, việc khai thác các nguồn tài
nguyên quá mức, gây nạn ô nhiễm môi trường, phá rừng, làm suy thoái lớp thổ
nhưỡng, gây ra những tai hoạ và tổn thất lớn lao cho con người. Rõ ràng vấn đề
bảo vệ môi trường trở thành vấn đề thời sự cấp bách đối với mọi quốc gia, của
toàn nhân loại. Ở Việt Nam trong những năm gần đây cùng với nhịp độ phát triển
của nền kinh tế, nâng cao đời sống xã hội thì mơi trường sống ngày càng bị ơ
nhiễm, mơi trường bị ô nhiễm ở mọi nơi mọi chỗ, từng ngày từng giờ ảnh hưởng
20
trực tiếp đến sức khoẻ của con người. Thực trạng đang diễn ra ngày càng cấp
bách và nan giải, chính vì vậy chúng ta cần có cái nhìn tổng quan hơn về thực
trạng ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay từ đó đưa ra các biện pháp khắc
phục, bảo vệ môi trường sống của chúng ta xanh sạch đẹp hơn.
.
Phần 3: KẾT LUẬN
Vấn đề bảo vệ môi trường là vấn đề tồn cầu khơng phải một hai cá nhân có
thể thực hiện mà phải là tồn thể cộng đồng lồi người, cũng khơng phải việc có
thể làm trong ngày một ngày hai mà đó là cả một quá trình cùng nhau cố gắng để
tạo nên một trái đất xanh – sạch – đẹp, một cuộc sống trong lành, khơng có ơ
nhiễm mơi trường, khơng có những thiên tai. Chỉ những hành động nhỏ của
chúng ta hôm nay sẽ thay đổi rất nhiều tương lai của thế hệ con cháu chúng ta.
Chúng ta biết bảo vệ môi trường, là bảo vệ chính nơi ăn chốn ở là mơi trường
sống của chính chúng ta. Ở miền trung Việt Nam mỗi mùa bão đến là lũ lụt, khúc
ruột của chúng ta lại phải chịu đựng cảnh nhà tan cửa nát có những gia đình mất
người thân, rồi những mùa khơ hạn hán khơng có đủ nước sinh hoạt. Phải chăng
đó đều là những lời cảnh báo từ mẹ thiên nhiên rằng con người hãy dừng ngay
những hành động hủy hoại mơi trường – hủy hoại chính sự sống cịn tồn vong
của loài người trên trái đất này.
21
MỤC LỤC
Lời cảm ơn...............................................................................................................
Phần 1: Mở đầu........................................................................................................
1. Đặt vấn đề..........................................................................................................1
2. Tính cấp thiết......................................................................................................1
Phần 2: Nội dung......................................................................................................
I. Nhận thức chung về vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường...........................3
1. Khái niệm, vai trò và quy định của pháp luật về bảo vệ mơi trường..............3
1.1. Khái niệm.................................................................................................3
1.2 Vai trị của pháp luật trong công tác bảo vệ môi trường...........................4
1.3 Quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường..........................................4
2. Khái niệm, dấu hiệu vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.......................5
3. Nguyên nhân, điều kiện của vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường..........7
3.1 Nguyên nhân, điều kiện khách quan.........................................................7
3.2 Nguyên nhân, điều kiện chủ quan.............................................................8
3.3 Nguyên nhân thuộc về đối tượng vi phạm................................................9
II. Nhận thức về phòng chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.............10
1. Khái niệm, đặc điểm.....................................................................................10
2. Nội dung, biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
………………………………………………………………………………11
3. Chủ thể tham gia phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ mơi trường...12
III. Thực trạng và giải pháp phịng, chống tội phạm về môi trường ở Việt Nam
hiện nay................................................................................................................14
1. Thực trạng tội phạm về môi trường và kết quả công tác đấu tranh phịng
chống tội phạm về mơi trường..........................................................................14
2. Những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng
chống tội phạm về mơi trường..........................................................................17
3. Liên hệ thực tế với Việt Nam........................................................................19
Phần 3: Kết luận...................................................................................................20
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài báo về môi trường trên trang luật Hồng Phi
2. Bài viết “Phịng, chống tội phạm vi phạm pháp luật về mơi trường, tài
ngun, an tồn thực phẩm trong tình hình mới” của GS.TS Tơ Lâm, ủy viên
BCT, Bộ trưởng bộ công an trên báo Công an Trà Vinh năm 2016.
3. Bài báo “Thực trạng môi trường Việt Nam hiện nay” của ThS. Nguyễn Hữu
Hòa (TAND tỉnh Bắc Ninh) trên báo Tạp chí tịa án.
23