Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

MỘT vài góp ý về dự THẢO THÔNG tư của bộ CÔNG THƯƠNG về QUY ĐỊNH về CÁCH xác ĐỊNH sản PHẨM, HÀNG HOÁ là sản PHẨM, HÀNG HOÁ của VIỆT NAM HOẶC sản XUẤT tại VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.92 KB, 8 trang )

MỘT VÀI GĨP Ý VỀ DỰ THẢO THƠNG TƯ CỦA BỘ CÔNG THƯƠNG VỀ QUY
ĐỊNH VỀ CÁCH XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM, HÀNG HOÁ LÀ SẢN PHẨM, HÀNG
HOÁ CỦA VIỆT NAM HOẶC SẢN XUẤT TẠI VIỆT NAM
KHƯU HỒNG LINH
PHẠM HOÀNG VŨ
Chất lượng cao 41B

Tóm tắt
Việc thiếu đi một văn bản pháp luật quy định về tiêu chuẩn xác định hàng hoá sản xuất tại
Việt Nam ("made in Vietnam") đã gây ra nhiều khó khăn cho các tổ chức, cá nhân hoạt động
sản xuất trong việc ghi nhãn hàng hoá và đồng thời ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi của
người tiêu dùng. Để giải quyết vấn đề trên, dựa trên các quy định hiện hành về xuất xứ hàng
hố, Bộ Cơng thương đã xây dựng Dự thảo Thông tư về quy định về cách xác định sản
phẩm, hàng hóa là sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam (sau đây
gọi là Dự thảo Thông tư) và hiện đang cơng bố lấy ý kiến hồn thiện. Trong phạm vi bài viết
này, trên cơ sở phân tích pháp luật Việt Nam và tham khảo pháp luật Hoa Kỳ về xuất xứ
hàng hóa, nhóm tác giả nêu lên các ưu điểm và khuyết điểm của các quy định có trong Dự
thảo Thơng tư, qua đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định liên quan đến việc
ghi xuất xứ Việt Nam trên nhãn hàng hoá. Từ đó, người đọc, với tư cách là những người
thuộc chuyên ngành luật cũng như những người tiêu dùng, sẽ hiểu được khái niệm xuất xứ
hàng hoá cũng như việc ghi nhãn hàng hoá được "sản xuất tại Việt Nam" hay "xuất xứ Việt
Nam".
Từ khóa: nhãn hàng hố của Việt Nam, xuất xứ hàng hố, dán nhãn hàng hố, Dự thảo
Thơng tư về quy định về cách xác định sản phẩm, hàng hoá là sản phẩm, hàng hoá của Việt
Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam, Bộ Công thương.
Abstract
The dearth of a legal document stipulating the standards to determine goods that were
made in Vietnam has resulted in the difficulties for the producers when labelling their
products and also adversely affected the rights of the consumers. In order to resolve the
aforementioned problem, based on the applicable laws on product's origin, the Drafted
Circular on how to determine products, goods belong to Vietnam or made in Vietnam


(called Drafted Circular henceforth) was released by the Ministry of Industry and Trade for
seeking feedbacks for the process of finalization. Within the scope of this article, by
analyzing Vietnamese law and referring US law on product’s origin, the writers point out
both the good points and drawback of Drafted Circular's provisions, then proposes changes
to Draft’s regulations on applying “Vietnamese product” on the product’s label. Thanks to
this article, the reader, in the manner of a law expert as well as a consumer, may thoroughly
understand the concept of labelling "made in Vietnam" or "originated in Vietnam" on
products and goods.
1


Keywords: made in Vietnam, Vietnamese origin label, Drafted Circular on how to
determine products, goods belong to Vietnam or made in Vietnam, Drafted Circular,
Ministry of Industry and Trade.
I. Đặt vấn đề
Trong thời gian gần đây, các vụ việc về gian lận thương mại liên quan đến xuất xứ hàng
hoá đã xảy ra khiến dư luận xã hội đặc biệt quan tâm, tiêu biểu là vụ việc Asanzo 1. Có thể
thấy rằng, đối với hàng hoá xuất nhập khẩu dán nhãn "Made in Vietnam" thì đã có các điều
ước quốc tế và hiệp định song phương điều chỉnh, còn riêng đối với hàng hố lưu thơng
trong nước, đến thời điểm hiện tại, vẫn hồn tồn khơng có các tiêu chí rõ ràng phục vụ cho
mục đích ghi nhãn xuất xứ Việt Nam. Do đó, nhiều doanh nghiệp vẫn e ngại khi ghi xuất xứ
Việt Nam hay sản xuất tại Việt Nam lên sản phẩm của minh vì lo sợ bị tố cáo có hành vi
"gian lận thương mại". Ở chiều ngược lại, nhiều doanh nghiệp lại lợi dụng tâm lý yêu nước,
ủng hộ hàng Việt của người tiêu dùng để dán nhãn, quảng cáo "sản xuất tại Việt Nam" hay
"Made in Vietnam" cho hàng hố nhập khẩu hay lắp ráp hồn tồn từ nước ngồi. Điều này
khơng chỉ ảnh hưởng tiêu cực tới quyền lợi của người tiêu dùng mà còn mất niềm tin của
một bộ phận người tiêu dùng đối với nền sản xuất trong nước, gây cản trở cho công cuộc
vận động "Người Việt dùng hàng Việt".
Bởi các lẽ trên, Bộ Công thương đã công bố bản Dự thảo Thông tư. Văn bản này được
xây dựng nhằm giải quyết các vấn đề pháp lý phát sinh nêu trên bằng cách lần đầu tiên đưa

ra các tiêu chí xác định "sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam",
ngồi ra cịn các quy định liên quan đến các thể hiện, ngôn ngữ thể hiện v.v.
II. Quy định về cách xác định sản phẩm, hàng hóa là sản phẩm, hàng hóa của Việt
Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam
2.1. Ưu điểm của Dự thảo Thông tư quy định về Quy định về cách xác định sản
phẩm, hàng hóa là sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam
Xuất xứ hàng hoá là một trong những thông tin bắt buộc phải được ghi trên nhãn của
hàng hoá, sản phẩm theo quy định pháp luật của nhiều quốc gia trên tồn thế giới, trong đó
có Việt Nam. Nếu nhìn nhận dưới khía cạnh là một thuật ngữ pháp lý thì thuật ngữ “xuất xứ
hàng hóa” được định nghĩa và thừa nhận rộng rãi tại các điều ước quốc tế cũng như pháp
luật Việt Nam. Cụ thể, theo Điều 3(b) Hiệp định về Quy tắc xuất xứ (Agreement on Rules of
Origin - Hiệp định ROO) của Tổ chức thương mại thế giới (“WTO”), một nước được xác
định là nước xuất xứ của một hàng hóa cụ thể nếu như hàng hóa được hồn tồn sản xuất ra
ở nước đó hoặc khi nhiều nước cùng tham gia vào q trình sản xuất ra hàng hóa đó, thì
nước xuất xứ hàng hóa là nước thực hiện cơng đoạn chế biến cơ bản cuối cùng. Hay tại phụ
lục K của Cơng ước quốc tế về đơn giản hóa và hài hịa thủ tục hải quan (được sửa đổi bởi
1

Cơng ty CP Tập đồn Asanzo (“Cơng ty Asanzo”) bị tố cáo nhập khẩu tivi và một số mặt hàng khác từ Trung Quốc
nhưng lại ghi nhãn hàng hóa “Made in Vietnam” hay sử dụng cụm từ “Đỉnh cao công nghệ Nhật” trong một số thông tin
quáng cáo. Qua kết quả xác minh, điều tra, Bộ Tài Chính xác định Cơng ty Asanzo có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu
cơng nghiệp (giả mão nhãn hiệu), lừa dối người tiêu dùng và có hành vi vi phạm về trốn thuế. Xem thêm: Asanzo có
dấu hiệu giả mạo xuất xứ và lừa dối người tiêu dùng, báo Tuổi Trẻ, [ (truy cập lần cuối ngày 15/11/2019)

2


Nghị định thư 1999) thì “nước xuất xứ của hàng hóa” là nước mà tại đó hàng hóa được chế
biến hoặc sản xuất, phù hợp với tiêu chuẩn đã được đặt ra nhằm mục đích áp dụng trong
biểu thuế hải quan, những hạn chế về số lượng hoặc các biện pháp liên quan đến thương

mại.2
Tại Việt Nam, theo định nghĩa tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định 31/2018/NĐ-CP, nước xuất
xứ hàng hố là nước, nhóm nước, hoặc vùng lãnh thổ nơi sản xuất ra tồn bộ hàng hóa hoặc
nơi thực hiện công đoạn chế biến cơ bản cuối cùng đối với hàng hóa trong trường hợp có
nhiều nước, nhóm nước, hoặc vùng lãnh thổ tham gia vào quá trình sản xuất ra hàng hóa
đó.
Việc ghi xuất xứ đối với hàng hóa nói chung đóng vai trị quan trọng đối 03 (ba) chủ thể
sau đây:
(i) Đối với Nhà nước: xuất xứ hàng hóa là yếu tố quan trọng để Nhà nước quyết định
thực thi cam kết về ưu đãi thuế quan và ưu đãi phi thuế quan cũng như các biện pháp hoặc
công cụ thương mại, như thuế chống phá giá, thuế đối kháng...
(ii) Đối với thương nhân: hàng hóa có xuất xứ là điều kiện thiết yếu để được hưởng ưu
đãi trong bối cảnh các Khu vực mậu dịch tự do (“FTA”) được hình thành ngày càng nhiều
với mong muốn thúc đẩy tự do hóa thương mại bằng cách cắt giảm thuế quan đối với những
mặt hàng có xuất xứ từ các quốc gia thành viên.
(iii) Đối với người tiêu dùng: một sản phẩm có xuất xứ rõ ràng là cơ sở để người tiêu
dùng nhận biết, so sánh và lựa chọn mua hàng vì xuất xứ hàng hóa là một trong các tiêu chí
giúp người tiêu dùng đánh giá các yếu tố tạo nên ưu điểm của sản phẩm như cơng nghệ, giá
cả, mức độ an tồn... so với sản phẩm/hàng hóa tương tự.
Điểm đáng chú ý của Dự thảo là việc đưa ra các phương pháp xác định xuất xứ tương tự
như các phương pháp mà thế giới đang áp dụng, như xuất xứ thuần tuý(WO), hàm lượng giá
trị hoá khu vực (RVC) hay chuyển đổi mã sản phẩm theo Hệ thống hài hịa mơ tả và mã
hàng hóa (Hệ thống HS) của Tổ chức Hải quan Thế giới. Cụ thể, trong dự thảo quy định về
phương pháp xác định xuất xứ dựa trên xuất xứ thuần tuý như sau:
"Điều 8. Hàng hố có xuất xứ thuần túy
Hàng hóa được coi là có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam khi
thuộc một trong các trường hợp sau:
1. Cây trồng và các sản phẩm từ cây trồng được trồng và thu hoạch tại Việt Nam.
2. Động vật sống được sinh ra và nuôi dưỡng tại Việt Nam.
3. Các sản phẩm từ động vật sống nêu tại khoản 2 Điều này.

…"
Hoặc phương pháp chuyển đổi mã sản phẩm:
"Điều 9. Hàng hố có xuất xứ khơng thuần túy
1. Hàng hóa có xuất xứ khơng thuần túy hoặc khơng được sản xuất tồn bộ tại Việt Nam
sẽ được coi là hàng hóa của Việt Nam nếu đáp ứng tiêu chí thuộc Danh mục Quy tắc cụ thể
mặt hàng quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thơng tư này.
2. Các tiêu chí nêu tại Phụ lục I được xác định như sau:
2

The International Convention on the simplification and harmonization of Customs procedures (as amended), opened
for signature 8th May 1974, B-1210 Bruxelles, (Revised Kyoto Convention (entered into force on February 3, 2006)

3


a) Tiêu chí “Chuyển đổi mã số hàng hóa” (sau đây gọi tắt là CTC): là sự thay đổi về mã
HS của hàng hóa ở cấp 2 (hai) số, 4 (bốn) số hoặc 6 (sáu) số so với mã HS của ngun liệu
đầu vào khơng có xuất xứ Việt Nam (bao gồm nguyên liệu nhập khẩu và nguyên liệu không
xác định được xuất xứ) dùng để sản xuất ra hàng hóa đó.
b) Tiêu chí “Hàm lượng giá trị gia tăng” (sau đây gọi tắt là VAC): được tính theo cơng
thức quy định tại khoản 3 Điều này."
Các biện pháp này đã được áp dụng một cách rộng rãi và tồn tại trong một thời gian dài
mà không bị thay thế đã phần nào chứng minh tính đúng đắn. Việc các biện pháp nêu trên
được áp dụng trong Dự thảo Thông tư quyết định hoàn toàn đúng dắn và hợp lý của Bộ
Công thương.
Một ưu điểm khác của Dự thảo liên quan tới các doanh nghiệp đó chính là khơng có các
quy định làm phát sinh thêm chi phí cho doanh nghiệp trong việc ghi nhãn hàng hố có xuất
xứ từ Việt Nam, bởi việc ghi nhãn hàng hóa và cơng bố nước xuất xứ trên nhãn hàng hóa
được thực hiện theo yêu cầu của Nghị định 43/2017/NĐ-CP về nhãn hàng hố. Theo khẳng
định của Thứ trưởng Bộ Cơng Thương Trần Quốc Khánh, "Thông tư chỉ giúp các tổ chức,

cá nhân có căn cứ để thực hiện đúng yêu cầu của Nghị định 43, giúp loại bỏ các trường
hợp vơ tình hay cố tình vi phạm thơng tin về nước xuất xứ…" 3. Điều này giúp giảm bớt sự e
ngại của các doanh nghiệp khi ghi nhãn hàng hoá hay sản phẩm có xuất xứ hay sản xuất tại
Việt Nam.
2.2. Thiếu sót của Dự thảo trong quy định về tiêu chí xác định sản phẩm, hàng hoá
của việt nam hoặc sản xuất tại Việt Nam
Do Thông tư của Bộ Công Thương vẫn ở trong giai đoạn dự thảo và hoàn thiện nên
khơng thể tránh được có những quy định chưa rõ ràng và hợp lý về cách thể hiện hàng hoá
của Việt Nam, các tiêu chí xác định hàng hố của Việt Nam. Theo quan điểm của nhóm tác
giả, các thiếu sót của dự thảo nằm ở khái niệm “hàng hố của Việt Nam”, “xuất xứ Việt
Nam” và “sản xuất tại Việt Nam”. Ngồi ra tiêu chí xác định dựa trên hàm lượng giá trị gia
tăng và các cụm từ được ghi trên nhãn hàng hố cịn có điểm chưa phù hợp. Chi tiết các
thiếu sót của dự thảo như sau:
Thứ nhất, Khoản 10 Điều 3 Dự thảo quy định: “Xuất xứ Việt Nam" là hàng hóa của Việt
Nam theo quy định tại Thông tư này.” Quy định này đã đánh đồng hai khái niệm xuất xứ
hàng hoá và nơi sản xuất hàng hoá khi quy định tại Khoản 2 Điều 4, cho phép "tổ chức, cá
nhân có thể lựa chọn và chỉ sử dụng một trong các cụm từ" bao gồm "sản xuất tại Việt
Nam", "chế tạo tại Việt Nam", "chế tác tại Việt Nam"… để thể hiện hàng hóa là hàng hóa
của Việt Nam trên nhãn hàng hóa và/hoặc trên tài liệu, vật phẩm chứa đựng thông tin liên
quan đến hàng hóa đó. Vì có rất nhiều trường hợp nơi sản xuất, chế tạo không phải là nơi
xuất xứ theo quy định của pháp luật về xuất xứ hàng hoá. Điều này gây ra nhầm lẫn về nơi
xuất xứ và nơi sản xuất của hàng hoá cho doanh nghiệp lẫn người tiêu dùng.

3

Hội thảo xin ý kiến về dự thảo Thông tư quy định về cách xác định sản phẩm, hàng hóa là sản phẩm, hàng hóa của
Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam, trang thông tin điện tử Bộ Công thương Việt Nam,
[ (truy cập lần cuối ngày 6/9/2019)

4



Hiện nay, quy định pháp luật về ghi nhãn hàng hóa, nơi sản xuất hoặc chế biến hàng hóa
được đánh đồng với nơi xuất xứ hàng hóa. Cụ thể, Nghị định 43/2017/NĐ-CP quy định về
cách ghi xuất xứ hàng hóa là ghi cụm từ “sản xuất tại” hoặc “chế tạo tại”, “nước sản xuất”,
“xuất xứ” hoặc “sản xuất bởi” kèm theo tên nước hoặc vùng lãnh thổ sản xuất ra hàng hóa
đó4. Quy định này vơ hình trung tạo ra sự đồng nhất giữa khái niệm “sản xuất tại”, “chế tạo
tại” (made in) với “xuất xứ” (origin of goods). Cho nên, người tiêu dùng vẫn thường nhầm
lẫn nơi xuất xứ của hàng hóa với nơi sản xuất ra hàng hóa. Thực tế, có nhiều trường hợp nơi
sản xuất/chế tạo khơng phải là nơi xuất xứ hàng hóa. 5Bởi vì việc xác định xuất xứ hàng hóa
(origin of goods) và cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa tuân theo các quy tắc xuất xứ ưu
đãi, quy tắc xuất xứ không ưu đãi, có sự phân biệt rạch rịi khái niệm “made in” với
“origin”.
Tại Hội thảo góp ý về Dự thảo do bộ Công thương tổ chức vào ngày 25/9, nhiều ý kiến
cho rằng Dự thảo là bản sao chép của các Nghị định trước đó, trong đó có Nghị định
43/2017/NĐ-CP về nhãn hàng hố, do đó có thể Dự thảo vẫn chưa khắc phục về điểm bất
hợp lý của Nghị định này.6
Thứ hai, về việc xác định hàng hoá của Việt Nam hay sản xuất tại Việt Nam đối với hàng
hố, sản phẩm có xuất xứ khơng thuần t dựa chỉ trên tiêu chí “Hàm lượng giá trị gia tăng”
phải hơn 30% là chưa phù hợp với nhiều ngành sản xuất. Vì một số mặt hàng đặc thù như
dệt may, giày da… tiền gia công nguyên liệu rất lớn đồng thời sử dụng nhiều nhân cơng, do
đó đạt tỉ lệ 30% là hồn tồn có thể. Trong khi các ngành ít sử dụng nhân công, chi phí
nguyên vật liệu nhập từ nước ngồi lớn, như cơ khí, điện tử... thì rất khó để cho doanh
nghiệp muốn ghi nhãn sản phẩm của Việt Nam, cho dù công nghệ được áp dụng có thể là
cơng nghệ của Việt Nam hoặc do người Việt sáng tạo ra. "Q trình tồn cầu hố đã từng
bước xóa nhịa những biên giới sản xuất và lưu thơng hàng hóa dịch vụ, thứ đáng giá nhất
để xác định xuất xứ của một sản phẩm có lẽ là bản quyền sáng chế và giá trị thương hiệu",
đây là nhận định của một chuyên gia (giấu tên) từng có kinh nghiệm tham gia đàm phán
nhiều hiệp định đối tác thương mại cùng Bộ Cơng thương 7. Điển hình là như sản phẩm
iPhone của hãng Apple, dù được lắp ráp và sử dụng một số nguyên liệu tại Trung Quốc,

nhưng người tiêu dùng vẫn nghĩ đến nó như một sản phẩm của nước Mỹ. Câu hỏi đặt ra là
có nên xem bản quyền, thương hiệu sở hữu trí tuệ là của người Việt Nam là tiêu chí quan
trọng nhất để xác định một hàng hoá, sản phẩm của Việt Nam hay khơng? Nhóm tác giả
hồn tồn đồng ý với ý kiến này.
Thứ ba, theo quy định của Uỷ ban thương mại Hoa Kỳ, nếu sản phẩm không đủ tiêu
chuẩn để dán nhãn “sản xuất tại Hoa Kỳ” (made in USA) nhưng được lắp ráp tại Mỹ, hay
thành phần nguyên liệu có một phần xuất xứ từ Mỹ, hay được thiết kế bởi cơng ty ở Mỹ, thì
vẫn có thể ghi thêm các cụm từ như “Made in USA từ linh kiện nhập khẩu” (Made in U.S.
from Imported Parts), “đóng gói ở...” (Packaged in), “thiết kế bởi...” (Designed by) hay “lắp
4

Khoản 2 Điều 15 Nghị định
Nguyễn Tuấn Vũ (2017), "Pháp luật về xuất xứ hàng hóa", Đại học luật TP.HCM, tr.5
6
Tranh cãi về loại văn bản ‘made in Vietnam’, Báo pháp luật, [ (truy cập lần cuối ngày 6/11/2019)
7
Loay hoay tranh cãi "Made in Vietnam": Thơi thì... “Made in the world”!", báo Viettimes, [ (truy cập lần cuối ngày 5/11/2019)
5

5


ráp ở...” (Assembled in) v.v8. Ví dụ như sản phẩm iPad pro 2017 của hãng Apple có dịng
chữ "Designed by Apple in California. Assembled in China" (Do Apple thiết kế tại
California và lắp ráp ở Trung Quốc). Điều này giúp doanh nghiệp sản xuất thể hiện được sự
trung thực trong kinh doanh, tránh các cáo buộc về gian lận nhãn hàng hố khơng đáng có,
đồng thời cung cấp thêm các thông tin liên quan cho người tiêu dùng.
Dự thảo hiện nay mới chỉ quy định cho phép các sản phẩm, hàng hoá đạt đủ tiêu chuẩn
xác định hàng hoá, sản phẩm của Việt Nam hay sản xuất tại Việt Nam ghi nhãn thể hiện là
hàng hóa của Việt Nam.

Thứ tư, trường hợp sản phẩm, hàng hố khơng đạt tiêu chuẩn nêu trên thì Dự thảo vẫn
chưa quy định. Về vấn đề này, đại diện Bộ Công thương đã trả lời: “Đối với doanh nghiệp
nhập khẩu đầu vào từ nhiều nước khác nhau, sản phẩm cuối cùng lại không đủ điều kiện để
thể hiện là hàng hóa của Việt Nam thì doanh nghiệp sẽ thể hiện xuất xứ theo quy định Nghị
định số 43/2017/NĐ-CP quy định nhãn hàng hóa. Điều này có nghĩa doanh nghiệp tự xác
định và tự chịu trách nhiệm, miễn là đừng ghi xuất xứ Việt Nam.”9 Câu trả lời này là chưa
hoàn toàn thuyết phục, xét đến bối cảnh tồn cầu hố và Việt Nam đã mở cửa sâu rộng để
hòa nhập vào thị trường thế giới, thì hàng hố có mức hàm lượng giá trị gia tăng dưới mức
30% sẽ xuất hiện rất nhiều. Do đó cần giải quyết vấn đề một cách tổng thể, quy định xuất xứ
được ghi cho các sản phẩm này, thay vì chỉ tập trung vào hàng hố đủ tiêu chuẩn để ghi
nhãn.
III. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện một số quy định của Dự thảo
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những điểm cịn hạn chế của Dự thảo của Bộ Cơng
thương đã nêu, nhóm tác giả xin đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của
Dự thảo, cụ thể như sau:
Thứ nhất, Bộ Công thương cần bổ sung định nghĩa thế nào là “hàng hoá Việt Nam” hay
“hàng hoá của Việt Nam” tại Điều 3 về Giải thích từ ngữ của Dự thảo.
Hơn nữa, theo quan điểm của nhóm tác giả, nên xem xét việc có nên tiếp tục sử dụng từ
"hàng hố Việt Nam" hay "hàng hoá của Việt Nam". Do khái niệm “hàng hoá Việt Nam”
hay “hàng hoá của Việt Nam” được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo Cục xuất nhập
khẩu, khái niệm "hàng hóa Việt Nam" có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau như:
hàng hóa có xuất xứ Việt Nam để hưởng ưu đãi thuế quan theo cam kết hội nhập kinh tế
quốc tế; hoặc hàng hóa có cơng đoạn sản xuất tại Việt Nam; hoặc hàng hóa có thương hiệu
của Việt Nam. Các khái niệm này tuy khác nhau nhưng thường bị nhầm lẫn, Cục xuất nhập
khẩu cho biết10. Thay vào đó, theo quan điểm của nhóm tác giả, Bộ Cơng thương nên đưa ra
định nghĩa "hàng hố có xuất xứ Việt Nam" dựa trên định nghĩa tại Khoản 1 Điều 3 Nghị
định 31/2018/NĐ-CP.
Thứ hai, về vấn đề hàm lượng giá trị gia tăng để xác định hàng hố có xuất xứ khơng
thuần t là của Việt Nam, Dự thảo nên phân loại tỉ lệ phần trăm theo nhóm sản phẩm, ví dụ
8


(US) Federal Trade Commission (1998),"Complying with the Made in USA standard", tr.9-11
Tiêu chí nào xác định “hàng hố của Việt Nam”, báo Chính Phủ, [ (truy cập lần cuối ngày 6/11/2019)
10
Hiểu về hàng hóa 'Made in Vietnam' và 'xuất xứ Việt Nam', báo Vietnambiz, [ (truy cập lần cuối ngày 6/11/2019)
9

6


sản phẩm cơ khí, sản phẩm điện tử, sản phẩm thô sơ, sản phẩm truyền thống... Trong từng
sản phẩm phải quy định những bộ phận chính do doanh nghiệp Việt sản xuất thì mới được
dán nhãn hàng hố của Việt Nam.
Ngồi ra, đối với những hàng hố, sản phẩm mà q trình sản xuất sử dụng cơng nghệ
hay sáng chế được tạo ra bởi cá nhân, tổ chức Việt Nam thì nên được xem là hàng hố, sản
phẩm của Việt Nam, bất kể nguyên liệu hoàn toàn nhập khẩu.
Thứ ba, Bộ công thương nên chỉnh sửa điều khoản về cách thể hiện nhãn hàng hố, cho
phép doanh nghiệp có hàng hố, sản phẩm khơng đủ tiêu chuẩn để dán nhãn hàng hố có
xuất xứ từ Việt Nam hay sản xuất tại Việt Nam theo quy định của Dự thảo, được phép ghi
thêm các cụm từ khác như “sản xuất tại Việt Nam từ linh kiện nhập khẩu”, “đóng gói tại
Việt Nam” hay “thiết kế bởi Việt Nam”... bên cạnh nơi sản xuất, xuất xứ chính. Để đảm bảo
tính chính xác và minh bạch, Dự thảo nên chỉ cho phép việc ghi nhận nêu trên trong trường
hợp sản phẩm, hàng hoá có những cơng đoạn hay bộ phận được thực hiện, thiết kế, đóng
gói… ở Việt Nam hay bởi tổ chức, cá nhân Việt Nam.
Thứ tư, Đối với một số ngành, lĩnh vực đặc thù, quan trọng hoặc theo quy định của các
Công ước quốc tế, Hiệp định thương mại… mà Việt Nam là thành viên yêu cầu thì cần phải
quy định tổ sản phẩm, hàng hoá của cá nhân, tổ chức sản xuất, chế biến phải dán nhãn hàng
hoá của Việt Nam trước khi được lưu thông trên thị trường Việt Nam. Vấn đề này cần thêm
sự góp ý của các doanh nghiệp, chuyên gia từ mọi lĩnh vực, ngành nghề trong xã hội.
Có thể lấy ví dụ từ pháp luật Hoa Kỳ khi quy định các mặt hàng quần áo và các sản phẩm

gia dụng làm từ sợi dệt và bông đều phải được dán nhãn “Sản xuất tại Hoa Kỳ” nếu sản
phẩm cuối được sản xuất tại Hoa Kỳ và làm từ vải sản xuất tại Hoa Kỳ, bất kể xuất xứ của
các nguyên liệu tạo nên trước đó (như sợi vải tự nhiên hay nhân tạo). Ngồi ra, nhằm phục
vụ cho Hiệp định thương mại ô tô giữa Mỹ và Canada, pháp luật Hoa Kỳ qui định đối với
sản phẩm ô tô được sản xuất kể từ ngày 1/8/1994 thì phải cung cấp thơng tin nơi lắp ráp,
phần trăm vật liệu có xuất xứ từ Mỹ hoặc Canada, và xuất xứ của động cơ và hộp số. 11
IV. Kết luận:
Nhãn hàng hố là yếu tố khơng thể thiếu đối với đa số các sản phẩm, có ảnh hưởng đến
hầu hết các lĩnh vực và các chủ thể như nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng khi
tham gia vào quan hệ pháp luật thương mại. Việc thiếu vắng đi một quy định pháp luật xác
định các tiêu chí để xác định hàng hố, sản xuất có xuất xứ Việt Nam hay sản xuất tại Việt
Nam đã gây ra nhiều khó khăn khơng chỉ cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, quản lý
nhà nước mà còn niềm tin của người tiêu dùng. Dự thảo Thông tư về quy định cách xác định
sản phẩm, hàng hóa là sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam, của
Bộ Công thương, đã lần đầu bổ sung những tiêu chỉ trên, góp phần giải đáp các thắc mắc
cho doanh nghiệp, tuy cịn thiếu sót, cần sự đóng góp của người dân lẫn các chuyên gia.
Trên đây là quan điểm của nhóm tác giả dưới góc nhìn của sinh viên Luật nhằm hồn thiện
Dự thảo thơng tư này.
11

Complying with the Made in USA Standard, trang thông tin điện tử của Uỷ ban thương mại Hoa Kỳ,
[ (truy cập lần cuối ngày
6/11/2019)

7


Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Tuấn Vũ (2017), "Pháp luật về xuất xứ hàng hóa: Luận văn thạc sĩ", Đại học
luật TP.HCM, TP.HCM

2. Huỳnh Thị Ngọc Vi (2008), "Xuất xứ hàng hóa pháp luật và thực tiễn áp dụng: Luận
văn thạc sĩ", Đại học Luật TP.HCM, TP.HCM
3. Bảo Linh (2019), "Các nước quy định về ghi nhãn xuất xứ hàng hóa như thế nào",
Tạp chí Cơng Thương (07)
4. Nguyễn Thị Hồng Hải (2017), "Ngăn chặn gian lận thương mại quốc tế sử dụng giấy
chứng nhận xuất xứ hàng hóa", tạp chí Quản lý nhà nước (255)
5. Giáo trình Pháp luật về thương mại hàng hoá và dịch vụ – Trường ĐH Luật TP.HCM,
NXB Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, 2017
6. Loay hoay tranh cãi "Made in Vietnam": Thơi thì... “Made in the world”!", báo
Viettimes, [ (truy cập lần cuối ngày 5/11/2019)

8



×