Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

137 GIẢI PHÁP GIÁO dục đạo đức học SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.42 KB, 16 trang )

Giáo viên thực hiện: Đậu Thị Chinh

MỘT SỐ GIẢI PHÁP
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH
LỚP CHỦ NHIỆM CẤP THCS
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN GIẢI PHÁP:
Đạo đức của một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên xuống cấp nghiêm
trọng, làm cho đời sống con người ngày càng trở nên bất ổn hơn bao giờ hết. Vì
vậy, việc cần phải làm ngay là tập trung vào giáo dục đạo đức học sinh để xã hội
được bình ổn và tốt đẹp. Nhiệm vụ này là yêu cầu cấp thiết đối với cộng đồng xã
hội nói chung và ngành giáo dục nói riêng. Trong đó, giáo viên chủ nhiệm là
người được nhà trường trực tiếp phân công phụ trách và là người chịu trách
nhiệm chính trong việc tổ chức và thực hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức học sinh
phải hiểu được vai trị quan trọng của mình trong việc này.
Thêm nữa, trong những năm gần đây, đã có nhiều nghiên cứu về giáo dục
đạo đức học sinh. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có một nghiên cứu đầy đủ để tạo
ra định hướng thống nhất trong việc giáo dục đạo đức học sinh.
Và qua thực tế chủ nhiệm, tôi nhận thấy việc giáo dục đạo đức học sinh là
vô cùng phức tạp. Tôi đã băn khoăn, trăn trở: Do đâu mà số học sinh chưa ngoan
ở các lớp có chiều hướng tăng? Các kinh nghiệm, các biện pháp tôi đã và đang
giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm đã thực sự hiệu quả chưa?
Chính những điều đó đã thơi thúc tơi nghiên cứu giải pháp: “Một số giải
pháp giáo dục đạo đức học sinh lớp chủ nhiệm cấp THCS”.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để tiến hành làm giải pháp này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Nghiên cứu các loại tài liệu bổ trợ.
Trang 1


Giáo viên thực hiện: Đậu Thị Chinh



- Tìm hiểu phương pháp giáo dục đạo đức học sinh của đồng nghiệp; tích
cực trao đổi, học hỏi đồng nghiệp để đưa ra được những phương pháp giáo dục
phù hợp nhất với đặc thù học sinh cấp THCS.
- Ghi chép và tổng hợp các phương pháp giáo dục đạo đức học sinh mà
bản thân giáo viên đã áp dụng và có hiệu quả.
- Áp dụng các phương pháp đã tổng hợp được vào quá trình giáo dục đạo
đức học sinh lớp chủ nhiệm. Trong q trình áp dụng có những điều chỉnh cho
phù hợp với tình hình thực tế của lớp chủ nhiệm.
- Đánh giá kết quả thực hiện và hình thành “Một số giải pháp giáo dục
đạo đức học sinh lớp chủ nhiệm cấp THCS”
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Với giải pháp này, đối tượng nghiên cứu của tôi là học sinh cấp THCS.
Tuy nhiên, tôi tập trung nghiên cứu nhiều hơn ở học sinh lớp 9 của Trường
THCS Lương Thế Vinh, năm học 2017- 2018. Vì đây là khối lớp tôi được phân
công chủ nhiệm ở năm học 2017- 2018.
4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Tơi chọn nghiên cứu giải pháp: “Một số giải pháp giáo dục đạo đức học
sinh lớp chủ nhiệm cấp THCS” để giảm thiểu tối đa số lượng học sinh chưa
ngoan của lớp chủ nhiệm. Qua đó, tối mong sẽ góp phần hạn chế tỷ lệ học sinh
vi phạm đạo đức trong và ngoài nhà trường.
Đồng thời, nghiên cứu giải pháp này là việc làm để tôi có thể tự trau dồi
và nâng cao nghiệp vụ sư phạm và cũng để chia sẻ một vài kinh nghiệm giáo
dục đạo đức học sinh với đồng nghiệp.
5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA GIẢI PHÁP:
Giải pháp này nhằm định hướng những hình thức, những biện pháp giáo
dục đạo đức học sinh cấp THCS, giúp các em hình thành và phát triển nhân cách
con người mới, trở thành người có ích cho xã hội.

Trang 2



Giáo viên thực hiện: Đậu Thị Chinh

PHẦN II. NGHIÊN CỨU LÍ THUYẾT HOẶC
THỰC NGHIỆM:
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Giáo dục đạo đức học sinh là một q trình tác động có mục đích, có kế
hoạch đến học sinh nhằm hình thành và bồi dưỡng đạo đức cho học sinh, hình
thành nhân cách của con người mới phù hợp mục đích giáo dục.
Giáo dục đạo đức học sinh có vị trí hàng đầu trong tồn bộ cơng tác giáo
dục ở nhà trường. Bác Hồ đã dạy: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả đức
lẫn tài. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc rất quan trọng” và “ Người có
tài mà khơng có đức là người vơ dụng; người có đức mà khơng có tài thì làm
việc gì cũng khó”. Cơng tác giáo dục đạo đức tốt sẽ là cơ sở để nâng cao giáo
dục toàn diện cho học sinh.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
- Về tình hình xã hội: Trong xu thế toàn cầu, nền kinh tế nước ta đang
từng bước chuyển mình trong thời kì mở cửa. Cơ chế thị trường đã len lỏi vào
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, làm cho nhiều giá trị đạo đức truyền thống bị
xói mịn. Vì vậy, cùng với thành quả đạt được về kinh tế chúng ta không thể phủ
nhận mặt trái của cơ chế thị trường. Nó đã làm xuất hiện ngày càng nhiều tệ nạn
xã hội, trước những cám dỗ của đồng tiền đã làm không ít học sinh sa ngã.
Trong đó, các ngành kinh doanh dịch vụ phát triển ồ ạt đã làm xuất hiện ngày
càng nhiều các tụ điểm văn hóa khơng lành mạnh trên địa bàn, dễ lôi kéo học
sinh. Đây là những nguyên nhân dẫn đến học sinh trốn học đi chơi, đánh nhau,
vi phạm pháp luật….
- Về phía gia đình: Có gia đình có hồn cảnh khó khăn, suốt ngày chỉ
chăm chăm làm ăn kiếm sống; có gia đình cha mẹ ly hôn, bỏ đi làm ăn xa, con
gửi ông bà, không quan tâm đến việc học hành của con em mình, dẫn đến khốn

trắng trách nhiệm giáo dục con em mình cho nhà trường, và coi đó là điều
đương nhiên. Chưa kể, một bộ phận khơng nhỏ các gia đình do kinh tế khá giả,
Trang 3


Giáo viên thực hiện: Đậu Thị Chinh

nuông chiều con quá mức, đáp ứng mọi nhu cầu vật chất mà ít quan tâm đến đời
sống tinh thần của con cái dẫn đến con sa ngã mà không hay, không biết. Nhưng
phần lớn vì các bậc phụ huynh thiếu hiểu biết về tâm sinh lý lứa tuổi, thiếu kiến
thức về giáo dục, chăm sóc con cái… trong giai đoạn hiện nay nên khó đối thoại
với con em mình. Vì thế mà khơng kịp thời nhận ra những bất ổn về tâm lí để có
thể tư vấn tháo gỡ cho con em mình.
- Về phía nhà trường: Bộ phận giám thị là bộ phận chủ chốt trong việc
giáo dục đạo đức học sinh, đôi lúc chưa nắm bắt kịp thời các hiện tượng vi phạm
đạo đức học sinh để răn đe, ngăn chặn. Một số giáo viên cịn trẻ chưa có kinh
nghiệm trong công tác chủ nhiệm, chưa đi sâu, đi sát trong quản lí học sinh,
chưa nắm rõ hồn cảnh riêng, chưa tìm hiểu kĩ tâm tư nguyện vọng của từng em
để có thể kịp thời tháo gỡ những khúc mắc giúp các em. Còn GVBM chỉ chú
tâm “dạy chữ” chưa chú trọng nhiều đến “dạy người”, thậm chí một bộ phận
khá lớn coi việc giáo dục đạo đức học sinh là cơng việc của GVCN, nên học
sinh có vi phạm thì chỉ nhắc nhở qua loa, phê vào sổ đầu bài, việc trao đổi, phân
tích, chỉ ra cái sai, định hướng cái đúng cho học sinh giao lại cho GVCN xử lí;
đáng buồn hơn có GVBM cịn chẳng thèm quan tâm đến học sinh lớp mình dạy
như thế nào, đến giờ vào lớp, hết giờ ra, cả năm học chỉ nhớ được vài tên học
sinh trong lớp. Rồi thì uy tín người thầy bị giảm sút do một bộ phận giáo viên vi
phạm dạy thêm, học thêm; lời nói, hành vi sai trái; thậm chí có những việc làm
trái ln thường, đạo lí, đi ngược chuẩn mực đạo đức xã hội.
- Về phía bản thân học sinh: Học sinh ngày nay được tiếp cận với nhiều
nguồn thông tin như: sách, báo, đặc biệt là internet và với nhiều luồng tư tưởng,

văn hóa phẩm độc hại…. Điều đó, ít nhiều đã tác động xấu đến tư tưởng, văn
hóa, suy nghĩ và hành động của học sinh, từ đó dẫn đến những suy thối về đạo
đức, mờ nhạt về lí tưởng, tha hóa về nhân cách, sống thực dụng, vi phạm pháp
luật…trong lứa tuổi học sinh. Số học sinh này có chiều hướng gia tăng và đã gây
nên nỗi lo lắng cho gia đình, xã hội và gây ảnh hưởng khơng ít đến công tác giáo
dục đạo đức cho học sinh của người giáo viên hiện nay đặc biệt là giáo viên chủ

Trang 4


Giáo viên thực hiện: Đậu Thị Chinh

nhiệm lớp.
Từ những điều trên, thêm vào đó là do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi dậy
thì, các em chỉ muốn chứng tỏ mình có đủ khả năng và bản lĩnh giải quyết mọi
vấn đề nên từ đó rất dễ đến việc các em sa ngã, nghe theo lời xúi giục của bạn bè
xấu ngoài trường rủ rê, trốn học đi chơi, sa vào các tệ nạn và suy đồi về đạo đức
và cũng từ đó đã hình thành nên những học sinh cá biệt, khi đến trường không
muốn học, chỉ muốn quậy phá, đánh nhau,.…
Trong tình hình đó, trường THCS Lương Thế Vinh cũng khơng là ngoại
lệ. Trong trường vẫn cịn một số học sinh vi phạm đạo đức như: trốn học, bỏ tiết,
uống rượu bia, hút thuốc lá, nghiện game, đánh nhau, sống đua đòi, thiếu ý thức
trách nhiệm, sống ỷ lại, vô lễ với cha mẹ, thầy cô và người lớn tuổi .... Vì vậy, là
một GVCN nhiều năm liền, bản thân tơi nhận thấy cần phải có những giải pháp
giáo dục đạo đức cho học sinh để giúp các em có nhận thức và hành động đúng
đắn hơn. Đây là vấn đề cấp thiết cần được giải quyết trong giai đoạn hiện nay
trong mỗi nhà trường, cũng là vấn đề có ý nghĩa lâu dài đối với uy tín của
nghành giáo dục.

PHẦN III: TRÌNH BÀY, PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ

CÁC KẾT QUẢ
1. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU:
Chắc hẳn trong chúng ta có từng nghe câu nói: “Trong giáo dục khơng có
những học sinh hư hỏng hồn tồn, khơng có những học sinh bỏ đi, mà chỉ có
những giáo viên, những bậc cha, mẹ chưa làm hết trách nhiệm và chưa u
thương các em hết lịng…”. Qua đó, ta thấy để giáo dục một học sinh cá biệt,
học sinh có hạnh kiểm yếu kém… không phải là vấn đề nan giải, mà cần có sự
phối hợp chặt chẽ của tất cả các bộ phận, đặc biệt là mối quan hệ giữa GVCN,
nhà trường và xã hội. Cần có những giải pháp hữu hiệu để giáo dục các em.
Xuất phát từ việc nghiên cứu kỹ về chức năng và nhiệm vụ của người
Trang 5


Giáo viên thực hiện: Đậu Thị Chinh

giáo viên chủ nhiệm, kết hợp với những kinh nghiệm đã tích lũy cùng với những
hiểu biết về học sinh, đặc biệt là học sinh chưa ngoan, đồng thời kết hợp việc
khảo sát học sinh khối 9, tôi đã đúc kết được một số giải pháp giáo dục đạo đức
học sinh lớp chủ nhiệm. Áp dụng từng bước cácgiải pháp vào thực tiễn, tôi đã
thu được những kết quả khá khả quan.
1.1. Tìm hiểu đối tượng học sinh lớp chủ nhiệm:
- “Muốn giáo dục con người về mọi mặt thì phải hiểu con người về mọi
mặt”. Hay nói cách khác, là GVCN muốn giáo dục được một học sinh chưa tốt
về mặc đạo đức cần phải hiểu rõ học sinh về mọi, nắm vững đối tượng giáo dục
thuộc nhóm đối tượng nào thì lúc đó GVCN mới thực hiện chức năng quản lý,
giáo dục được toàn diện học sinh và mới chọn được những biện pháp phù hợp
trong giáo dục đạo đức cho hoc sinh.
- Các biện pháp để GVCN nắm bắt tình hình của lớp:
+ Ngay khi nhận lớp, giáo viên cho học sinh ghi sơ yếu lý lịch, đặc biệt chú ý
đến hồn cảnh giả đình, sở thích, sở trường và sở đoản của từng học sinh.

+ Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí, tình hình rèn luyện đạo đức, những mặt nổi trội
cũng như hạn chế của học sinh, của lớp thông qua việc trao đổi với giáo viên
chủ nhiệm và giáo viên bộ môn giảng dạy của lớp trong các năm học trước.
+ Tạo bầu khơng khí nhẹ nhàng trong buổi đầu gặp gỡ với học sinh để các em dễ
dàng bộc bạch “những điều các em muốn”, từ đó mà giáo viên có thể bước đầu
nắm bắt được tâm tư, tình cảm của các em.
- GVCN cần tìm hiểu nắm bắt các đặc điểm sau của lớp chủ nhiệm: thuận
lợi và khó khăn của lớp; tỉ lệ học lực, hạnh kiểm năm trước, đặc biệt phải lưu ý
học sinh cá biệt, học sinh có học lực yếu, kém; hồn cảnh gia đình, đặc điểm
tâm lí, tính cách, năng lực, mối quan hệ xã hội, ứng xử của học sinh trong gia
đình, nhà trường và ngồi xã hội, …
1.2. Lập nội dung, kế hoạch giáo dục lớp chủ nhiệm dựa trên mục tiêu, kế
hoạch, nội quy của nhà trường và các nội dung thi đua của Đoàn Đội:
Trang 6


Giáo viên thực hiện: Đậu Thị Chinh

- Giáo viên chủ nhiệm lập nội dung, kế hoạch hoạt động chi tiết của lớp
và hướng dẫn Ban cán sự lớp cách thức thực hiện. Trong quá trình hướng dẫn,
GVCN phải nêu rõ nhiệm vụ của từng thành viên trong Ban cán sự. Và những
nội dung, kế hoạch đề ra cần phải được phổ biến cơng khai trước lớp để học sinh
có sự trao đổi, thống nhất. Việc làm này sẽ đảm bảo được tinh thần dân chủ, để
các em mạnh dạn đóng góp ý kiến xây dựng tập thể. Mặt khác, nó cũng sẽ giúp
các học sinh chưa ngoan phần nào nhận thức được vai trị, nhiệm vụ của mình
trong tập thể lớp, để có những hành vi phù hợp. Sau đó, thông qua các tiết sinh
hoạt lớp, GVCN giáo dục học sinh thực hiện.
- Nội dung, kế hoạch hoạt động của lớp bao gồm: nội quy của lớp, quyền
và nhiệm vụ của mỗi cá nhân, các phong trào thi đua tổ nhóm và cá nhân (có sơ
kết, đánh giá sau mỗi đợt thực hiện).

- GVCN theo dõi sát sao việc thực hiện của học sinh, để có những điều
chỉnh kịp thời và hiệu quả.
1.3. Phối hợp chặt chẽ các lực lượng giáo dục trong và ngồi nhà trường:
Gia đình - Nhà trường - Xã hội là ba lực lượng giáo dục, trong đó nhà
trường là cơ quan giáo dục chuyên trách, GVCN là người giữ vai trò chủ động
phối hợp trong mối liên hệ giữa “Gia đình, nhà trường và xã hội”, liên kết chặt
chẽ với GVBM, các đoàn thể trong nhà trường, là người trực tiếp thay mặt nhà
trường giáo dục đạo đức học sinh. Trong đó, năng lực chuyên mơn, đạo đức
nghề nghiệp, uy tín và kinh nghiệm cơng tác của GVCN lớp là điều kiện quan
trọng nhất cho việc tổ chức, phối hợp thành công giữa các lực lượng giáo dục.
1.4. Chú ý giáo dục tình cảm học sinh:
Theo xu hướng hiện nay, do ảnh hưởng phim ảnh, mạng internet… nên
các em xuất hiện tình cảm đầu đời rất sớm, một số vượt quá giới hạn trong tình
yêu, thiếu hiểu biết dẫn đến có thai,…ảnh hưởng đến sức khỏe và việc học,
thậm chí thơi học về làm cha, làm mẹ quá sớm. Đây là một vấn đề nhức nhối đối
với gia đình, nhà trường và xã hội. Trước tình hình đó GVCN cần giáo dục học

Trang 7


Giáo viên thực hiện: Đậu Thị Chinh

sinh nhận thức đúng đắn về tình yêu, tình cảm bạn bè lành mạnh, để khơng bị
ảnh hưởng đến việc học tập. Bởi vì giáo dục tình cảm cũng là một trong những
nội dung quan trọng của việc giáo dục nhân cách đạo đức chuẩn bị cho học sinh
bước vào cuộc sống lao động, xã hội.
1.5. Chú trọng vào giáo dục đạo đức học sinh chưa ngoan:
1.5.1. Lập kế hoạch giáo dục học sinh chưa ngoan:
Chú ý tập trung vào những việc sau:
- Nắm rõ số lượng học sinh chưa ngoan của lớp.

- Tìm hiểu kỹ và phân loại học sinh chưa ngoan đầy đủ và chính xác về:
+ Hồn cảnh sống từng học sinh, điều kiện kinh tế gia đình của học sinh, sự
quan tâm của cha mẹ, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình,…
+ Những đặc điểm thể chất, sinh lý từng học sinh. Chú ý đến vấn đề thể trạng:
có bình thường hay khơng.
+ Những đặc điểm về tâm lý: khả năng nhận thức, nhu cầu giao tiếp, tình cảm….
Chú ý điều chỉnh những học sinh có biểu hiện tâm lí bất thường như: lầm lì, ưu
tư, nóng nảy, ln nghĩ mình bị mọi người “cơ lập”, “bỏ rơi”,…
+ Nắm được tính cách và hành vi đạo đức của từng học sinh: lười học, ba hoa,
không trung thực, cách ứng xử với mọi người xung quanh…
+ Nắm được sở trường và sở thích của học sinh: khả năng ca hát, bóng đá, bơi
lội, u thích thơ văn,…
+ Đặc biệt cần chú trọng đến mối quan hệ của học sinh với những thanh thiếu
niên bên ngoài và học sinh chưa ngoan khác trong nhà trường.
- Thực hiện thường xuyên công tác phối hợp giáo dục giữa các lực lượng
giáo dục trong và ngoài nhà trường:
+ Với phụ huynh: Thường xuyên gặp gỡ và trao đổi cùng phụ huynh bằng nhiều
hình thức như: đến thăm nhà học sinh, mời phụ huynh đến trường dự họp, gửi sổ
liên lạc giữa nhà trường với gia đình, liên lạc qua điện thoại để thơng báo mức
Trang 8


Giáo viên thực hiện: Đậu Thị Chinh

độ vi phạm, những biểu hiện sai lệch cần được uốn nắn, khắc phục. Nhưng cần
lưu ý rằng phải giao tiếp ở một góc độ cởi mở, tâm lý, tế nhị nhưng chân tình,
tránh sự dồn dập, gay gắt. Có như vậy GVCN mới tạo được sự tin tưởng với phụ
huynh để họ hợp tác tốt với mình.
+ Với Ban giám hiệu: Nhờ sự “trợ giúp” khi cần thiết nhằm có những giải pháp
thiết thực, phù hợp từng thời điểm hoặc nhờ Ban giám hiệu trao đổi riêng với

các học sinh chưa ngoan, xem như là “đưa lên cấp cao hơn” đối với những
trường hợp thường xuyên tái phạm lại lỗi cũ sau nhiều lần đã được xử lý ở lớp.
+ Với tổ chức Đoàn, Đội: Trong các hoạt động ngoài giờ, nhiều em học sinh
chưa ngoan lại tỏ ra xơng xáo, thích thể hiện bản thân. Qua đó, có thể tùy theo
khả năng của từng đối tượng mà giao nhiệm vụ, mà phân công để các em cùng
tham gia với tập thể. Đây là cơ hội để giáo viên khích lệ các em rèn luyện bản
thân tốt hơn. Và đặc biệt, với những em có cảm giác bị “cơ lập”, bị bỏ rơi thì
cảm giác này sẽ được xóa dần.
+ Với giáo viên phụ trách phổ cập: Liên hệ thường xuyên, cùng đi đến thăm nhà
học sinh, đặc biệt là các học sinh có nguy cơ bỏ học vì thơng thường các học
sinh chưa ngoan đều rất dễ dẫn đến kết cục này.
+ Với giáo viên bộ môn: Thường xuyên trao đổi với GVBM tình hình của lớp, vì
GVBM có một phần trách nhiệm đối với việc giáo dục học sinh chưa ngoan.
- Phân công, giao nhiệm vụ cho Ban cán sự lớp:
Ban cán sự lớp là những người có thời gian gần gũi, tiếp xúc nhiều với
các học sinh chưa ngoan trong lớp. Do vậy, giao nhiệm vụ cho Ban cán sự lớp
quan tâm, giúp đỡ các học sinh chưa ngoan dưới sự hướng dẫn, giám sát của
giáo viên chủ nhiệm là việc làm hợp tình hợp lý. Bằng hình thức “Đơi bạn cùng
tiến”, học sinh giỏi sẽ nhận trách nhiệm kèm cặp, giúp đỡ học sinh yếu, cả trong
học tập và rèn luyện đạo đức. Ở đây đòi hỏi người giáo viên chủ nhiệm phải thật
tinh ý, sáng suốt.
1.5.2. Thực hiện kế hoạch giáo dục học sinh chưa ngoan:
Trang 9


Giáo viên thực hiện: Đậu Thị Chinh

Để kế hoạch giáo dục học sinh chưa ngoan đạt hiệu quả, người giáo viên
chủ nhiệm cần:
- Biết lắng nghe: Giáo viên chủ nhiệm luôn giữ mối quan hệ gần gũi, thân

thiết với học sinh, đặc biệt là với học sinh chưa ngoan, hãy khuyến khích các em
nói ra những điều mình nghĩ bằng nhiều cách khác nhau. “Lắng nghe và thấu
hiểu” là điều mà các học sinh chưa ngoan thật sự rất cần ở người giáo viên chủ
nhiệm.
- Biết quan tâm: GVCN quan tâm bằng cách trị chuyện, hỏi thăm hồn
cảnh gia đình học sinh, về bạn bè thân của các em, biết được sở thích, cá tính
cũng như thái độ, sự lễ phép của học sinh đối với người lớn. Kêu gọi và khuyến
khích các học sinh khác trong lớp quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ bạn mình, khơng
nên xem thường hay cơ lập các bạn chưa ngoan đó. Dưới sự hỗ trợ của Ban cán
sự lớp, GVCN luôn theo dõi được những biểu hiện hàng ngày của học sinh chưa
ngoan, tránh được sự kết luận về vấn đề nào đó thiếu chính xác làm tổn thương
đến tâm lý và tình cảm của các em.
- Có uy tín với học sinh và đồng nghiệp về chuyên môn và tư cách đạo
đức, tác phong sinh hoạt: Người giáo viên dạy tốt bộ môn của mình, lại ln có
thể giải đáp được những vấn đề học sinh quan tâm thì ảnh hưởng và uy tín của
giáo viên sẽ tác động mạnh đến việc giáo dục đạo đức học sinh. Mặt khác, uy tín
về tư cách đạo đức của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành ý thức
và hành vi của học sinh.
- Động viên và định hướng: Thông thường các học sinh chưa ngoan khơng
định hướng được mình cần rèn luyện thế nào để giúp ích bản thân và hồn thành
nhiệm vụ học tập. Mặt khác, một trong những nguyên nhân chủ yếu làm học
sinh chưa ngoan đều bắt nguồn từ sự yếu kém trong học tập. Chính vì vậy giáo
viên chủ nhiệm phải là người giúp học sinh biết định hướng và động viên, khích
lệ các em trên tinh thần “Kiến tha lâu cũng đầy tổ”, “Có cơng mài sắt có ngày
nên kim”. Hãy tìm và tun dương những mặt tốt ở các em dù nhỏ thay vì cứ
phê bình khi các em sai phạm.
Trang 10


Giáo viên thực hiện: Đậu Thị Chinh


- Là “Người bạn lớn”: Giáo viên chủ nhiệm hãy là “Người bạn lớn” của
học sinh. Chính điều này làm cho học sinh chưa ngoan thấy mình khơng hề bị
“bỏ rơi”, tình cảm thầy trị được khăng khít, tạo điều kiện cho các em được tâm
sự, sẻ chia. Khi đó những lời động viên, những định hướng của giáo viên chủ
nhiệm sẽ đạt hiệu quả cao.
- Nghiêm khắc: Giáo viên chủ nhiệm phải nghiêm khắc với tất cả học sinh
trong lớp, xử lý mọi việc công bằng cho dù là cán bộ lớp hay học sinh chưa
ngoan vi phạm. Như thế, học sinh chưa ngoan sẽ cảm thấy giáo viên chủ nhiệm
đều tôn trọng mọi học sinh, không thiên vị, không hề “ghét bỏ” mình.
- Đặt chữ “Tâm” lên hàng đầu: Ngồi những u cầu trên, điều mà GVCN
cần phải có nhất đó chính là cái “tâm” của người thầy. Vì nếu là GVCN mà
khơng có một tấm lịng thì mọi cơng việc sẽ chỉ là hình thức. Chính tâm huyết
và trách nhiệm sẽ giúp cho GVCN có được năng lực “cảm hóa” học sinh nói
chung, học sinh “chưa ngoan” nói riêng. Giáo viên chủ nhiệm phải dùng nhân
cách của mình để tác động vào học sinh, giáo dục các em nên người. Và đây
chính là dùng nhân cách để giáo dục nhân cách.
1.6. GVCN phải khơng ngừng hồn thiện bản thân, để ln đẹp trong mắt
học sinh, như vậy mới có khả năng giáo dục học sinh:
1.6.1. Về phẩm chất:
GVCN không chỉ trang bị cho mình những kiến thức cần thiết cho việc
giảng dạy, những vốn sống sâu sắc về con người, về cuộc đời… mà GVCN cịn
cần phải rèn luyện cho chính mình đạt những phẩm chất đạo đức có tính chuẩn
mực để trên cơ sở đó mới có thể nhắc nhở, uốn nắn học sinh từ hành vi, ngôn
ngữ, cách cư xử, cách suy nghĩ, đánh giá những sự việc trong cuộc sống, những
thói quen trong sinh hoạt…. Tất cả ln cần được người GVCN tự xem xét, tự
điều chỉnh để có thể khơng ngừng hồn thiện mình trong mắt học trò.
1.6.2. Về kỹ năng, bản lĩnh sư phạm:
Giáo viên cần nhận thức rõ, giáo dục một con người là một quá trình
Trang 11



Giáo viên thực hiện: Đậu Thị Chinh

khơng có điểm cuối cùng. Đó là cơng việc kéo dài cả một đời người chứ không
phải là chuyện của ngày một, ngày hai. Vì thế, người GVCN khơng bao giờ
được chủ quan, nóng vội. Một câu nói vơ tình, một trách phạt nơn nóng, một
hành xử thiếu cân nhắc đơi khi gây tổn thương và có đâu đó các em sẽ mang
theo vết thương kia thành một ám ảnh khôn nguôi... Trước mọi sai lầm, vi phạm
của học sinh, GVCN cần hết sức bình tĩnh, bao dung và độ lượng để xem xét,
giải quyết, xử lý vấn đề. Với một học sinh lười, một học sinh chưa ngoan…
chúng ta không nên ảo tưởng là các em sẽ tiến bộ ngay sau vài lần nhắc nhở hay
xử phạt của GVCN. Có khi, các em vẫn tiếp tục lười, tiếp tục phạm lỗi lầm với
mức độ liên tục hơn, nghiêm trọng hơn như một cách thách thức, một cách
khẳng định mình với bạn bè, với thầy cơ, với mọi người. Chính ở những khoảnh
khắc này, người GVCN cần thể hiện rõ bản lĩnh và năng lực sư phạm trong đó
có cả năng lực "chịu đựng" của mình. Chịu đựng những vi phạm cố tình, những
thách thức nông nổi và chịu đựng cả những nỗi bực bội, tức giận đang phải dồn
nén trong người. Cần tạo được ở các em, trước hết là sự tôn trọng và sau đó là
một sự gần gũi, cảm thơng.
Một trong những kỹ năng quan trọng của người GVCN là nắm vững tâm
lý học sinh. Các em học sinh cấp II (nhất là học sinh ở lớp 8, 9) đang ở lứa tuổi
cịn nhiều biến đổi tâm sinh lý. Khơng cịn là trẻ con để cần được vỗ về chăm
sóc, nhưng cũng chưa là người lớn để tự mình giải quyết mọi tình huống. Để
khẳng định mình, các em dễ có những hành xử bột phát, bất ngờ mà chính các
em cũng chưa ý thức một cách đầy đủ hậu quả sẽ đến là gì. Vì vậy, một sự định
hướng đúng đắn để giúp các em hình thành tính cách của mình sau này, là điều
hết sức quan trọng khi các em cịn ngồi trên ghế nhà trường. Các em khơng chỉ
cần truyền đạt kiến thức trong học tập mà các em cịn cần được trao đổi mọi
điều về chính bản thân, về những chân, dung, thiện, mỹ trong cuộc sống.

2. KẾT QUẢ:
Trong năm học 2017- 2018, tôi đã mạnh dạn áp dụng giải pháp này vào
quá trình chủ nhiệm lớp và nó đã mang lại hiệu quả đáng kể cho công tác chủ
Trang 12


Giáo viên thực hiện: Đậu Thị Chinh

nhiệm của tôi. Cụ thể: Đa số học sinh trong lớp chăm ngoan, biết lễ phép, tôn
trọng và vâng lời thầy cô, cha mẹ; các em biết yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau;
thực hiện tốt kỉ cương trường lớp.
Bảng số liệu cụ thể về kết quả giáo dục đạo đức học sinh năm 20172018:
Sĩ số

Tốt

Khá

Trung bình

Yếu

Đầu năm

31

13

8


10

0

Cuối HK I

31

10

15

6

0

Đầu HK II

33

10

16

7

0

CN


33

24

7

2

0

PHẦN IV: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
- Để thực hiện tốt công tác giáo dục đạo đức học sinh, bên cạnh việc xây
dựng nội qui kỉ luật học sinh, cần phải tạo bầu tâm lí tích cực trong nhà trường,
giữa các giáo viên phải có quan hệ đồng nghiệp thân thiết, tương trợ đồn kết,
mẫu mực và phải ln là tấm gương sáng thì mới có tác dụng giáo dục đạo đức
lối sống cho học sinh.
- Giáo dục trong giai đoạn hiện nay cần đặt ra yêu cầu nhiệm vụ cao hơn,
tích cực hơn và trong đó việc tham gia cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương tư tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh” là nguồn lực tinh thần to lớn
để thực hiện thành công việc giáo dục học sinh trong giai đoạn hiện nay.
- Giáo dục đạo đức học sinh là trách nhiệm của tồn xã hội, trong đó nhà
trường có vai trị định hướng. Nhưng đối với GVCN đó cũng là sứ mệnh lịch sử
đầy khó khăn, gian khổ nhưng cũng là sứ mệnh vinh quang trong việc giáo dục
thế hệ tương lai.
Vì thế tơi hi vọng rằng tất cả các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà

Trang 13


Giáo viên thực hiện: Đậu Thị Chinh


trường sẽ đều tay hơn trong công tác giáo dục đạo đức học sinh. Và tôi mong
nhà trường sẽ luôn tạo những điều điện thuận lợi, có những sự quan tâm đặc biệt
cho người giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp.
Phan Thiết , ngày

tháng

Người viết

Đậu Thị Chinh

Trang 14

năm 2019


Giáo viên thực hiện: Đậu Thị Chinh

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. GS Nguyễn Minh Thuyết, “Người thầy – người bạn lớn”, Báo điện tử Đại
biểu nhân dân, trang Văn hóa – Giáo dục.
2. Phạm Thị Hải Anh, Thanh Thủy, “Giáo dục đạo đức cho học sinh”, “Giáo
viên chủ nhiệm – Chiếc cầu nối đa chiều”, nguồn Giáo dục và Đào tạo online.
3. Bônđưrep, 1982, Người Giáo viên chủ nhiệm, Nhà xuất bản TP. Hồ Chí
Minh.

Trang 15



Giáo viên thực hiện: Đậu Thị Chinh

MỤC LỤC:
Phần I: Mở đầu
1. Lí do chọn giải pháp

Trang 1

2. Phương pháp nghiên cứu

Trang 1, 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Trang 2

4. Mục đích nghiên cứu

Trang 2

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.

Trang 2

Phần II: Nghiên cứu lí thuyết hoặc thực nghiệm
1. Cơ sở lí luận

Trang 3

2. Cơ sở thực tiễn


Trang 3, 4, 5

Phần III: Trình bày, phân tích, đánh giá các kết quả
1. Một số giải pháp chủ yếu

Trang 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13

2. Kết quả

Trang 13

Phần III: Kết luận và kiến nghị

Trang 13, 14

Tài liệu tham khảo

Trang 15

Mục lục

Trang 16

Trang 16



×