Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận cao cấp lý luận chính trị, cải tổ liên hợp quốc nhu cầu khách quan của đời sống quan hệ quốc tế thời kỳ sau chiến tranh lạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.32 KB, 22 trang )

1
1. MỞ ĐẦU
Ra đời từ năm 1945 sau khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, hơn
60 năm qua, Liên Hợp quốc (LHQ) đã có nhiều cống hiến trong việc thực thi
sứ mệnh gìn giữ hồ bình, an ninh, xây dựng một trật tự thế giới công bằng,
tốt đẹp, thúc đẩy sự phát triển bền vững cho nhân loại. Nhưng trước những
biến đổi khơng ngừng của tình hình thế giới, để thực thi hiệu quả hơn mục
đích, tơn chỉ của mình, LHQ cũng cần phải được cải tổ một cách tồn diện.
Đây là địi hỏi bức thiết của bản thân LHQ cũng như của cộng đồng quốc tế.
Vấn đề cải tổ LHQ được đặt ra từ lâu với những sáng kiến và thực tiễn
đã bắt đầu kể từ sau "chiến tranh lạnh" (thập kỷ 90 của thế kỷ trước). Tuy
nhiên, công cuộc cải tổ diễn ra một cách chậm chạp với những bước rất thận
trọng. Cựu Tổng thư ký LHQ Cô-phi An-nan trong chuyến thăm Việt Nam
tháng 5-2006, nói rằng, thời gian qua, những nỗ lực cải tổ LHQ đã đem lại
những thành cơng nhất định, trong đó có việc thành lập Uỷ ban Xây dựng hồ
bình và Hội đồng Nhân quyền. Tuy nhiên, quá trình cải tổ Ban Thư ký và
phương thức làm việc của LHQ đang gặp một số khó khăn do các nước thành
viên chưa đạt được nhất trí chung. Tại khố họp Đại hội đồng LHQ khố 60
(4-2005), Tổng thư ký Cơ-phi An-nan đã đọc báo cáo về cải tổ LHQ mang tựa
đề “Vì một nền tự do rộng lớn hơn: hướng tới sự Phát triển, An ninh và Nhân
quyền”. Tiếp sau đó, trong Thông điệp ngày 26-5-2005, nhân kỷ niệm 60 năm
thành lập LHQ, ông lại kêu gọi các nhà lãnh đạo của 191 thành viên LHQ có
những quyết định nghiêm túc, mạnh mẽ để cải cách tổ chức quốc tế lớn nhất
này. Tân Tổng thư ký LHQ, ông Ban Ki Mun (nhậm chức từ ngày 1-1-2007)
cũng xác định việc cải tổ LHQ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và
thách thức lớn nhất trong nhiệm kỳ của mình.
Cùng với những thành quả đã đạt được, LHQ còn tồn tại nhiều điều yếu
kém, lỗi thời, khơng cịn phù hợp cả về cơ cấu tổ chức, bộ máy nhân sự,


2


phương thức làm việc, ngân sách tài chính, những biến động phức tạp gần đây
của tình hình thế giới, tổ chức này đang phải đối mặt với hàng loạt các vấn đề
thuộc về lòng tin của các quốc gia về vai trị duy trì hồ bình và khả năng đối
phó với những thách thức mới và cũ về an ninh, phát triển như khủng bố, đói
nghèo, dịch bệnh và mơi trường... làm cho sức mạnh và hiệu quả hoạt động
của LHQ bị hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu mới của tình hình thế giới
ln biến đổi. Từ thực trạng đó đã và đang khiến cho Liên hợp quốc phải nỗ
lực tìm kiếm các biện pháp cải tổ hệ thống Liên Hợp quốc cho phù hợp với
tình hình mới. Vì vậy, “Cải tổ Liên Hợp quốc - nhu cầu khách quan của đời
sống quan hệ quốc tế thời kỳ sau chiến tranh lạnh”.
2. NỘI DUNG
2.1. Khái quát về Liên hợp quốc
2.1.1. Khái quát lịch sử hình thành
Ý tưởng thành lập Liên hợp quốc được hình thành trong thời kỳ Chiến
tranh thế giới thứ hai. Danh từ “Liên hợp quốc” (United Nations) lần đầu tiên
xuất hiện trong bản Tuyên bố các quốc gia liên hợp, được 26 nước trong Mặt
trận Đồng minh chống phát xít trong đó có Liên Xơ, Mỹ, Anh, Trung Quốc ký
ngày 1-1-1942 tại Oasinhtơn.
Ngày 30-10-1943, Hội nghị Ngoại trưởng ba nước Liên Xô, Mỹ, Anh
họp tại Mátxcơva ra tuyên bố thành lập tổ chức quốc tế thay thế Hội quốc liên
để duy trì hịa bình và phát triển quốc tế sau khi chiến tranh kết thúc. Từ tháng
8 đến tháng 10-1944, các hội nghị giữa đại diện Liên Xô, Mỹ, Anh và Trung
Quốc diễn ra ở Đumbatơn (ngoại ô Oasinhtơn), quyết định thành lập một tổ
chức quốc tế sau chiến tranh với tên gọi Liên hợp quốc. Các đại biểu cũng
thảo luận về tôn chỉ, nguyên tắc và bộ máy của Liên hợp quốc. Tháng 2-1945,
nguyên thủ ba nước Liên Xô, Mỹ, Anh tại Hội nghị Ianta (Crưm, Liên Xô)
quyết định cùng với Trung Quốc thành lập Liên hợp quốc.


3

Hội nghị Xan Phranxítxcơ khai mạc ngày 25-4-1945, với sự tham gia
của đại diện 51 nước, có nhiệm vụ chính là dự thảo và thông qua Hiến chương
Liên hợp quốc. Sau hơn 2 tháng tranh luận và thỏa hiệp, ngày 26-6-1945 Hiến
chương Liên hợp quốc được thông qua. Ngày 24-10-1945, sau khi được chính
phủ của 51 nước tham gia Hội nghị Xan Phranxítxcơ phê chuẩn, Hiến chương
bắt đầu có hiệu lực, đánh dấu sự ra đời của Liên hợp quốc (ngày 24-10 hằng
năm được gọi là Ngày Liên hợp quốc).
Trải qua quá trình phát triển hơn 60 năm, Liên hợp quốc đã không ngừng
lớn mạnh, mở rộng quy mô hoạt động. Đến nay, Liên hợp quốc có 193 nước
thành viên, là tổ chức lớn nhất và có ảnh hưởng nhất trên thế giới.
2.1.2. Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động
Hiến chương Liên hợp quốc xác định rõ mục tiêu và những nguyên tắc
hoạt động cơ bản của tổ chức này. Theo đó, Liên hợp quốc hướng tới bốn mục
tiêu sau:
- Duy trì hịa bình và an ninh quốc tế.
- Phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tơn trọng
ngun tắc bình đẳng về quyền lợi giữa các dân tộc và nguyên tắc dân tộc tự
quyết, đồng thời áp dụng những biện pháp phù hợp khác để củng cố hịa bình
thế giới.
- Thực hiện sự hợp tác quốc tế giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, văn
hóa, nhân đạo; tơn trọng các quyền của con người và các quyền tự do cơ bản cho
tất cả mọi người không phân biệt dân tộc, giới tính, ngơn ngữ hoặc tơn giáo.
- Xây dựng Liên hợp quốc thành trung tâm điều hòa các nỗ lực quốc tế
vì mục tiêu chung.
Hiến chương Liên hợp quốc nêu ra các nguyên tắc chủ đạo, bao gồm:
- Bình đẳng và tôn trọng chủ quyền của tất cả các nước thành viên.
- Tất cả các nước thành viên phải làm tròn nghĩa vụ mà họ đảm nhận


4

theo Hiến chương và qua đó được hưởng tồn bộ các quyền và ưu đãi do tư
cách thành viên mà có.
- Tất cả các nước thành viên giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện
pháp hịa bình.
- Tất cả các nước thành viên thực hiện chung sống hịa bình, từ bỏ sử
dụng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
- Tất cả các nước thành viên giúp đỡ đầy đủ cho Liên hợp quốc một khi tổ
chức này trừng phạt, cưỡng chế đối với các thành viên vi phạm Hiến chương.
- Liên hợp quốc không được can thiệp vào công việc nội bộ của bất kỳ
quốc gia nào.
- Liên hợp quốc cố gắng để các quốc gia chưa phải là thành viên Liên
hợp quốc cũng hành động theo các nguyên tắc trên.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức
Liên hợp quốc có một số cơ quan chính sau:
Đại hội đồng (General Assembly - GA): Đây là cơ quan cao nhất của
Liên Hợp quốc, bao gồm tất cả các nước thành viên, có quyền bình đẳng như
nhau. Chức năng chủ yếu của Đại hội đồng là: thảo luận và xét duyệt bất cứ
sự việc nào do Hiến chương quy định; phê chuẩn ngân sách; phân phối đóng
góp kinh phí cho các nước hội viên; theo đề nghị của Hội đồng Bảo an, thông
qua quyết định kết nạp hội viên mới, bầu Tổng thư ký. Tuy nhiên, các nghị
quyết của Đại Hội đồng khơng mang tính bắt buộc.
Hội đồng Bảo an (Security Council - SC): Đây là cơ quan thường trực
quan trọng nhất và hoạt động thường xuyên của Liên hợp quốc, có nhiệm vụ
duy trì hịa bình và an ninh quốc tế. Hội đồng Bảo an có 5 thành viên thường
trực gồm Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc (mỗi thành viên này có quyền phủ
quyết mọi nghị quyết của Hội đồng Bảo an) và 10 ủy viên không thường trực
được bầu với nhiệm kỳ 2 năm (châu Á có 2 ủy viên, châu Phi: 3, Đơng Âu: 1,


5

Mỹ Latinh: 2, Tây Âu và các nước khác: 2). Mọi nghị quyết của Hội đồng
Bảo an phải được thông qua với sự nhất trí tất cả 5 thành viên thường trực.
Những nghị quyết của Hội đồng Bảo an được thơng qua phù hợp với Hiến
chương, thì bắt buộc mọi thành viên Liên hợp quốc phải thi hành.
Hội đồng kinh tế - xã hội (Economic and Social Council- ECOSOC) có
nhiệm vụ theo dõi, giúp đỡ giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội ở các khu
vực hoặc ở từng nước thành viên. Hội đồng kinh tế - xã hội có 54 nước thành
viên do Đại hội đồng cử ra, nhiệm kỳ 3 năm.
Hội đồng quản thác (ủy trị): Đây là cơ quan giám sát các vùng lãnh thổ
quản thác được đặt trong hệ thống theo các thỏa thuận riêng với quốc gia
quản lý các vùng lãnh thổ này, hướng các vùng này tới thành lập chính phủ tự
quản và độc lập. Hội đồng quản thác bao gồm: các ủy viên thường trực Hội
đồng Bảo an, các thành viên đang quản lý các vùng quản thác và một số thành
viên khác do Đại hội đồng bầu, nhiệm kỳ 3 năm.
Toàn án quốc tế: Đây là cơ quan tư pháp xét xử theo luật và pháp điển hóa
luật pháp quốc tế; giải quyết các vụ án do các quốc gia trình lên về lãnh thổ, luật
biển, bảo vệ ngoại giao, môi trường, xung đột khu vực, thực hiện các công ước
quốc tế... Tịa án có 15 thẩm phán, nhiệm kỳ 9 năm, cứ 3 năm bầu lại 1/3.
Ban thư ký: Đây là cơ quan sự vụ hành chính có nhiệm vụ chấp hành kế
hoạch, chính sách do các cơ quan khác của Liên hợp quốc đặt ra phục vụ cho
những cơ quan này. Ban thư ký do Tổng thư ký đứng đầu, nhiệm kỳ 5 năm, có
thể được bầu 2 nhiệm kỳ. Tổng thư ký là người điều hành và viên chức cao
cấp nhất của Liên hợp quốc. Giúp việc cho Tổng thư ký có Phó Tổng thư ký,
Văn phịng Tổng thư ký, các phịng pháp lý, tài chính, nhân sự; các cục, vụ;
các đặc phái viên, đại diện theo các nước, các khu vực... Hiện nay, biên chế
của Liên hợp quốc có hơn 20 nghìn nhân viên, làm việc trên tồn thế giới.
Ngồi 6 cơ quan chính nêu trên, Liên hợp quốc cịn có nhiều cơ quan


6

trực thuộc hoặc liên quan:
Chương trình và quỹ trực thuộc: Chương tình phát triển (UNDP), Quỹ
dân số (UNFPA), Cao ủy về người tỵ nạn (UNHCR), Chương trình kiểm sốt
ma túy (UNDCP)...
Các tổ chức chun mơn và liên chính phủ: Tổ chức Lao động thế giới
(ILO), Tổ chức Nông- Lương thực (FAO), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và
Văn hóa (UNESCO), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF),
Cơ quan Nguyên tử, năng lượng quốc tế (IAEA)...
Các viện nghiên cứu và đào tạo: Viện Nghiên cứu và Đào tạo quốc tế vì
sự tiến bộ của phụ nữ, Viện Đào tạo và nghiên cứu (UNITAR)...
Các cơ quan nhân quyền: Ủy ban Nhân quyền, Ủy ban Chống phân biệt
chủng tộc trong thể thao, Ủy ban Chống tra tấn, Ủy ban về quyền trẻ em...
Các cơ quan hiệp ước luật biển: Cơ quan Đáy biển quốc tế, Tòa án quốc
tế về luật biển...
Các tổ chức về môi trường: Ban Thư ký của Cơng ước Liên hợp quốc về
thay đổi khí hậu, Ban Liên chính phủ về thay đổi khí hậu...
2.1.4. Vai trò của Liên hợp quốc
Là tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh, Liên hợp quốc tập hợp hầu hết các
nước trên thế giới, đã góp phần gìn gữ hịa bình và an ninh quốc tế, giải quyết
các tranh chấp quốc tế, làm giảm căng thẳng và hòa giải xung đột khu vực và
trên thế giới; góp phần giải trừ quân bị và hạn chế sản xuất, phổ biến vũ khí
hạt nhân… Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, mặc dù sự đối đầu giữa hai siêu
cường Liên Xô - Mỹ đã hạn chế đáng kể sứ mệnh gìn giữ hịa bình của Liên
hợp quốc, song với nỗ lực chung của các nước thành viên, nguy cơ của một
cuộc đại chiến thế giới mới với thảm họa hạt nhân hủy diệt trong thế kỷ XX
đã bị đẩy lùi. Liên hợp quốc đã đóng góp quan trọng vào việc làm tan rã hoàn
toàn hệ thống thuộc địa kiểu cũ của chủ nghĩa thực dân, góp phần đưa độc lập


7

dân tộc trở thành giá trị phổ biến mang tính thời đại.
Sau chiến tranh lạnh, Liên hợp quốc tiếp tục đóng góp vào việc kiến tạo
hịa bình thế giới, tổ chức thành cơng nhiều cuộc đàm phán hịa bình đối với
các cuộc nội chiến và xung đột ở Namibia, Cônggô, Ăngơla, En Xanvađo,
Mơdămbích, Campuchia, Đơng Timo, góp phần xóa bỏ chế độ Apacthai ở
Nam Phi... Lực lượng gìn giữ hịa bình của Liên hợp quốc thường xuyên được
cử đến bảo vệ hịa bình và duy trì an ninh tại nhiều khu vực xảy ra chiến
tranh, xung đột.
Liên hợp quốc có nhiều nỗ lực thúc đẩy quan hệ hợp tác về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội giữa các nước thành viên; thực hiện cứu trợ nhân
đạo cho các nước thành viên khi gặp khó khăn. Các cơ quan, tổ chức trực
thuộc Liên hợp quốc đã thực hiện nhiều hoạt động viện trợ phát triển, thúc
đẩy tiến bộ xã hội, xóa bỏ đói nghèo, đối phó với thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ
mơi trường… Liên hợp quốc cịn đóng vai trò là diễn đàn quốc tế quan trọng
để các lực lượng xã hội tiến bộ, dân chủ và hịa bình đấu tranh chống chủ
nghĩa thực dân kiểu mới, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực quốc tế cực đoan
khác. Trong những năm gần đây, Liên hợp quốc đã ra nhiều nghị quyết, đồng
thời triển khai sự phối hợp hành động chống khủng bố quốc tế và tội phạm
xuyên quốc gia, ngăn chặn tình trạng bn bán trẻ em và phụ nữ, v.v..
2.2. Những yếu tố pháp lý và thực tiễn cản trở quá trình cải tổ Liên
Hợp quốc
2.2.1. Những yếu tố pháp lý cản trở quá trình cải tổ của Liên Hợp
quốc
Hiến chương Liên Hợp quốc- hiến pháp của Liên Hợp quốc, là văn bản
pháp lý quan trọng quy định cơ cấu tổ chức của Liên Hợp quốc, chức năng và
nhiệm vụ của các cơ quan trong Liên Hợp quốc, quy tắc xử sự giữa các quốc
gia trong quan hệ quốc tế và được coi là nền tảng cho luật pháp quốc tế hiện
đại. Tuy nhiên, bối cảnh lịch sử giữa thế kỷ XX và hiện nay đã thay đổi, chính



8
vì vậy, những quy định của Hiến chương dần tỏ ra không phù hợp và không
đáp ứng được các yêu cầu của quan hệ quốc tế, những hạn chế là một trong
những yếu tố cản trở quá trình cải tổ của Liên Hợp quốc.
Xuất phát từ quy chế ủy viên thường trực và quyền biểu quyết ghi nhận
trong Hiến chương LHQ: hai vấn đề này đã tác động không nhỏ ảnh hưởng
tới quá trình cải tổ LHQ, đây là một quy định bắt buộc khi thông qua bất cứ
một vấn đề lớn nào thuộc về LHQ, cụ thể là các vấn đề được đưa ra thảo luận
và thông qua đều phải có sự đồng thuận của những ủy viên thường trực, vấn
đề cải tổ bộ máy LHQ cũng vậy.
Những vấn đề được đưa ra thảo luận nhằm mục đích cải tổ bộ máy
LHQ từ trước đến nay đều tập trung vào hai vấn đề cơ bản và được thảo luận
sôi nổi nhất là có nên tăng thêm số nước được hưởng quy chế ủy viên thường
trực hay không và nếu có thì đó là những nước nào và vấn đề quyền phủ
quyết có cịn được duy trì hay khơng và nếu có thì những quốc gia nào sẽ
được hưởng những quyền đó ngồi những quốc gia hiện nay. Như vậy, hầu
hết các quốc gia đều đồng thuận rằng đã đến lúc cần phải cải tổ LHQ nhưng
điều này lại không thể làm được trong khuôn khổ các quy tắc hiện nay, bởi vì
bất kỳ sự sửa đổi nào trong Hiến chương LHQ hoặc các vấn đề có tính chất
quan trọng khác đều phải được sự đồng thuận của 5 nước ủy viên thường trực
HĐBA và của hai phần ba các nước thành viên LHQ, sau đó cịn phải được
Quốc hội các nước phê chuẩn. Và bởi vì 5 nước ủy viên thường trực hoàn
toàn thỏa mãn với quy chế hiện nay của họ nên họ khơng mặn mà gì với
những biện pháp cải tổ được đề xuất. Điều tối đa có thể đạt được trong hồn
cảnh hiện nay là tăng thêm số lượng thành viên Hội đồng Bảo an bằng cách
thỏa mãn yêu cầu của Đức, Nhật, Brazil và Ấn Độ, 4 nước này sẵn sàng từ bỏ
quyền phủ quyết và chỉ yêu cầu được làm ủy viên thường trực, đồng thời thỏa
mãn yêu cầu mở rộng quyền đại diện của các nước châu Á, châu Phi và Mỹ



9
Latinh. Tuy nhiên ngay cả trong trường hợp này thì 5 nước ủy viên thường
trực hiện nay vẫn sẽ có ảnh hưởng vơ cùng lớn so với khả năng có hạn của
các nước ủy viên thường trực khác bởi một lẽ đơn giản: họ có quyền phủ
quyết, tức là có thể phong tỏa bất kỳ nghị quyết nào.
Như vậy, rõ ràng là có sự bế tắc về pháp lý: để cải tổ LHQ thì cần thay
đổi Điều lệ và Hiến chương của tổ chức quốc tế này. Trong thực tế hiện nay,
cải tổ LHQ sẽ là nhiệm vụ bất khả thi nếu không sửa đổi sơ bộ những văn bản
nền tảng đó.
Các quy định tại Chương VII về các hành động của Liên hợp quốc nhằm
duy trì hịa bình và an ninh quốc tế và trên thực tế có sự khác nhau trong việc
giải thích và vận dụng một số khái niệm ví dụ như khái niệm “Quyền tự vệ”.
Hiện nay, quan điểm của các quốc gia khi giải thích khái niệm nay đi theo hai
hướng, một số quốc gia cho rằng quyền tự vệ chỉ được thực hiện nếu quyền tự
vệ chính đáng được sử dụng để chống lại một cuộc tấn cơng vũ trang và
quyền tự vệ chính đáng chỉ được thực hiện sau khi đã bị tấn cơng vũ trang;
một số quốc gia khác thì cho rằng quyền tự vệ được thực hiện không cần chờ
đến khi bị tấn công bởi lẽ ngày nay nguy cơ khủng bố có thể xảy ra bất cứ lúc
nào, mặt khác cũng có nhiều quốc g ia đang tàng trữ vũ khí hủy diệt hàng loạt
và tiềm tàng nguy cơ đe dọa tới hịa bình và an ninh. Nếu với quan niệm này
thì liệu rằng hịa bình và an ninh quốc tế có được đảm bảo hay khơng? Ngồi
ra, các điều từ 43 đến 47 của Hiến chương quy định về thiết lập hệ thống an
ninh tập thể cũng phải được điều chỉnh sao cho sát với thực tiễn bởi trên thực
tế hệ thống an ninh tập thể bị chi phối bởi tiếm lực quân sự và quân đội của
một số quốc gia điển hình là Mỹ và Anh.
Những hoạt động của LHQ vẫn chưa được minh bạch và có tính trách
nhiệm cao, cho nên đây là những vấn đề cần phải cải tổ, nhưng để tiến hành
cải tổ LHQ về các mặt này thì vẫn cịn nhiều vấn đề cần phải suy xét bởi lẽ,



10
chính LHQ nhiều khi cũng cố né tránh những câu hỏi lập pháp đúng đắn của
các quốc gia, những nước đã đóng góp tiền để chi trả cho những hoạt động
của LHQ và hy vọng là sẽ truyền bá được tư tưởng dân chủ bằng cách nói
chuyện với các đại sứ. Căn bệnh thiếu dân chủ đã ảnh hưởng đến Liên minh
châu Âu và cũng không loại trừ cả LHQ. Đây chính là một khó khăn để LHQ
tiến tới cải tổ bộ máy hoạt động của mình cho phù hợp với thực tế hơn.
Những khoản tiền đóng góp cho Liên Hợp quốc - theo những khoản
ngân sánh thường xuyên được đặt ra trong Đại Hội Đồng, hay trong các
khoản đóng góp tự nguyện của những cơ quan chịu trách nhiệm cứu trợ người
tị nạn, phát triển hay sức khoẻ trẻ em cũng phải được công khai cho mọi
người biết. Liên Hợp quốc cần phải học cách hoạt động cho phù hợp với
những cơ quan lập pháp hiện đại, bằng cách làm cho những hoạt động của
mình càng minh bạch và có tính trách nhiệm cao càng tốt. Tổng ngân sách của
Liên Hợp quốc được xác lập tại Đại Hội đồng, nhưng việc phân bổ cụ thể
những khoản chi tiêu thì lại được quyết định kín bởi Ủy ban thứ năm và “Uỷ
ban Cố vấn về những Vấn đề Ngân sách và Hành chính” khơng mấy ai biết
đến. Một nhà lập pháp muốn tìm hiểu về tính hiệu quả của hoạt động gìn giữ
hịa bình sẽ nhận thấy rằng cả Tổng thư ký lẫn người đứng đầu phái đồn đều
khơng có đủ thông tin để đưa ra những quyết định tái phân bổ nguồn lực cần
thiết. Và nhiều khi Liên Hợp quốc cũng cố né tránh những câu hỏi lập pháp
đúng đắn của các quốc gia, những nước đã đóng góp tiền để chi trả cho những
hoạt động của Liên Hợp quốc, và hi vọng là sẽ truyền bá được tư tưởng dân
chủ bằng cách nói chuyện với các đại sứ. Căn bệnh “thiếu dân chủ” đã ảnh
hưởng đến Liên minh châu Âu và cũng không loại trừ cả Liên Hợp quốc.


11

2.2.2. Những yếu tố thực tiễn cản trở quá trình cải tổ Liên Hợp quốc

Quá trình cải tổ Liên Hợp quốc chịu sự tác động không những bởi những
yếu tố pháp lý, làm cho quá trình cải tổ Liên Hợp quốc mặc dù được đưa ra
nhiều lần bởi một số quốc gia thành viên nhưng vẫn chưa đạt được một sự
đồng thuận mang tính đột phá nào để góp phần cải tạo bộ máy tổ chức và khả
năng hoạt động của Liên Hợp quốc bây giờ.
Một trong những yếu tố thuộc tính chất là các yếu tố thực tiễn cản trở
quá trình cải tổ Liên hợp quốc là sự ganh đua giữa các khu vực, thể hiện các
cuộc tranh cãi nảy lửa giữa các nhóm lợi ích khác nhau về một mơ hình
được coi là tâm điểm của cuộc tranh cãi chính là mơ hình HĐBA cải tổ, tiến
bộ chưa thấy song một thực tế nhãn tiền là sự chia rẽ sâu sắc giữa các nước
thành viên LHQ và giữa các khối nước. Vì thế vấn đề đặt ra là cải tổ HĐBA
địi hỏi phải tìm được một gói giải pháp có thể vừa đáp ứng được mọi lợi ích
chung và riêng, vừa là lời giải cho những quan ngại của tất cả các khu vực
và các nước.
Khơng ít nhà quan sát quan ngại rằng, gói giải pháp này có thể chỉ là
một viễn cảnh vì lập trường giữa các nhóm lợi ích cịn q xa nhau và cịn
một quy định là dự án mở rộng HĐBA phải được sự nhất trí của hai phần ba
số thành viên và sự tán thành của tất cả 5 nước ủy viên thường trực HĐBA.
Việc mở rộng Hội đồng Bảo an có những vấn đề hết sức hiển nhiên. Một Hội
đồng Bảo an có nhiều thành viên hơn sẽ khiến chúng ta phải mất nhiều thời
gian hơn để đi đến quyết định, khi các thành viên phải tranh luận đến tận đêm
khuya. Những cuộc cãi vã giữa các khu vực về việc trao chiếc ghế ủy viên
thường trực cho những nước nào có thể dễ dàng biến thành một đặc tính gây
cản trở đến khía cạnh chính trị của Liên Hợp quốc, khiến người ta có thể
chuyển hướng khơng chú ý đến những khủng hoảng thực sự nữa. Ngoài ra,
việc mở rộng Hội đồng bảo an có thể làm thay đổi phạm vi đưa ra quyết định


12
của Hội đồng này. Một vài quốc gia đang cố gắng vận động để được là thành

viên của Hội đồng Bảo an đã tỏ ra miễn cưỡng trong việc dùng sức mạnh
quân sự cho bất kỳ mục đích nào, và những nước khác thì lại phản đối việc
Liên Hợp quốc can thiệp vào các xung đột nội chiến vì lý do chủ quyền quốc
gia. Nếu khơng có quyền hạn thì Liên Hợp quốc sẽ chẳng thể triển khai những
lực lượng gìn giữ hịa bình, và các nước sẽ bỏ phiếu theo những tính tốn
phục vụ cho lợi ích quốc gia cục bộ của họ.
Do đó, việc loay hoay với cơ cấu của Hội đồng Bảo an sẽ trở thành
miếng mồi ngon cho qui luật “những hậu quả không lường trước” và cuối
cùng sẽ chỉ làm suy yếu khả năng hành động của Liên Hợp quốc mà thôi. Các
quốc gia dân chủ có thể tự họ hành động một cách hiệu quả trong những tình
huống khẩn cấp về đạo đức hay trên thực tế sẽ ít thiên về hướng đem vấn đề
của mình ra giải quyết trước Hội đồng Bảo an, vốn luôn bị cản trở bởi những
quan điểm không thống nhất hoặc thiếu quyết đoán. Điều trớ trêu là việc mở
rộng Hội đồng Bảo an có thể làm suy yếu khả năng hành động đa phương một
cách có hiệu quả, và do đó cần được cân nhắc thật kỹ lưỡng.
Liên Hợp quốc cần phải tìm được sự cân bằng giữa những giá trị của
việc có đơng đảo thành viên và lịng trung thành với những giá trị cơ bản của
mình. Sự thực đó là một tổ chức tồn cầu như Liên Hợp quốc đang có xu
hướng thu hẹp thành một tập hợp của những chủ nghĩa khu vực. Thông
thường, những quyết định được đưa ra và những cuộc bầu cử tại Vịnh Con
Rùa có thể được lý giải bằng thơng lệ đưa ra những nhượng bộ chính trị trong
những cuộc họp kín của khu vực. Liên Hợp quốc lại khuyến khích điều này
bằng cách hứa hẹn về những cuộc gặp gỡ và những địa điểm gặp gỡ khu vực.
Đó là một sự thối hóa khó hiểu. Khối Thịnh vượng chung của Anh vẫn tiếp
tục vươn ra trên khắp thế giới, và các quốc gia khác vẫn có chung những ngơn
ngữ và nền văn hố, bất chấp họ ở vị trí khu vực nào trên bản đồ. Điều này


13
chứng tỏ khả năng có những cách tổ chức thế giới khác nữa. Đồng thời,

chừng nào các nhóm các nước thuộc cùng khu vực còn là tiêu điểm cho việc
ứng cử và họp kín, thì mỗi quốc gia, kể cả Israel, đều cần phải được phép gia
nhập vào một nhóm khu vực. Tây Âu và Nhóm các nước khác (gọi tắt là
WEOG) có trách nhiệm đặc biệt trong vấn đề này, và các thành viên của Liên
minh châu Âu thường lại lấy cớ mở rộng EU hay mối quan ngại về hỗ trợ cơ
cấu để gây cản trở cho bước tiến bình đẳng này.
Xuất phát từ hệ thống nhân lực, theo đó hệ thống nhân lực của LHQ
đang bị khủng hoảng nặng nề và điều này cũng có thể làm cản trở việc thực
hiện chương trình và khiến cho LHQ thiếu đi tính thích ứng cần thiết. Những
người quản lý có đầu óc cải cách đến rồi lại đi, chịu bó tay trước những khó
khăn của việc thay đổi những hạn chế nhân sự mà Đại Hội đồng đặt ra, nhưng
vấn đề không chỉ là công ăn việc làm mà chính là việc tìm kiếm những người
tốt nhất trong đội ngũ của LHQ, những người biết coi trọng những mục đích
của nó chứ khơng phải là những đặc quyền, bổng lộc mà nó đem lại, những
người biết thay đổi những thủ tục cho phù hợp với bản chất của sứ mạng tổ
chức. Hiện nay, LHQ hoạt động dựa trên một hệ thống biên chế chính thức
nhưng lại khơng cho phép thi tuyển đầu vào, trừ phi quốc tịch của nhân viên
mới đó là thiếu tính đại diện trong một lĩnh vực nào đó, tuổi tuyển vào tối đa
là 32 nên ngay cả một người tốt nghiệp đại học xuất sắc cũng khơng có cơ hội
được tuyển. Hệ thống biên chế chính thức bản thân nó đã có vấn đề vì nó
khơng cho tổ chức được tuyển những nhân viên mới với những kỹ năng mới.
LHQ có tuổi về hưu bắt buộc là 62, một cán bộ phụ trách nhân sự đã mỉa mai
như sau: ngoài việc chờ họ về hưu ra, chúng ta cịn có cách nào khác để thốt
khỏi họ đây.


14
2.3. Cải tổ Liên Hợp quốc là tất yếu và nhu cầu khách quan trong
đời sồng quan hệ quốc tế thời kỳ sau chiến tranh lạnh
2.3.1. Cải tổ Liên Hợp quốc là một tất yếu

Cùng với những thành quả đã đạt được, LHQ còn tồn tại nhiều điều yếu
kém, lỗi thời, khơng cịn phù hợp cả về cơ cấu tổ chức, bộ máy nhân sự,
phương thức làm việc, ngân sách tài chính,…. làm cho sức mạnh và hiệu quả
hoạt động của LHQ bị hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu mới của tình hình
thế giới ln biến đổi, thể hiện ở mấy mặt chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, LHQ còn mang đậm dấu ấn của trật tự thế giới cũ thời kỳ sau
chiến tranh thế giới thứ II, thể hiện ở vị thế chi phối của các nước thắng trận.
Hiến chương LHQ đề cập đến những “quốc gia thù địch” (chống các nước
đồng minh trong chiến tranh thế giới thứ II) và ý này mới chỉ được khoá họp
năm 1994 của Đại hội đồng LHQ đề nghị xem xét “vào thời điểm thích hợp”,
mặc dù những “quốc gia thù địch” (như Đức, Ý, Nhật) từ lâu đã trở thành
đồng minh của “đồng minh hàng đầu”. Một dấu ấn khác là cơ chế đặc quyền
của các nước thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ II - năm nước uỷ viên
thường trực Hội đồng Bảo an (HĐBA) LHQ có quyền phủ quyết - đã trở
thành đối tượng của khá nhiều sự chất vấn, cơng kích, đặc biệt từ khi khơng
cịn sự kiềm chế khách quan của thế cân bằng hai cực sau "chiến tranh lạnh".
Một thí dụ khác nữa là tỷ lệ đóng góp cho ngân sách thường xuyên quy định
cho nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới vẫn là 25%, trong khi tỷ trọng của
nền kinh tế Mỹ trong tổng thể nền kinh tế thế giới tuy vẫn đứng đầu, nhưng
khơng cịn ở mức cao như vậy và bản thân nước này gặp khó khăn trong việc
đóng góp đúng hạn và đầy đủ nghĩa vụ tài chính của mình.
Hai là, trong lĩnh vực giữ gìn hồ bình, an ninh, ngăn chặn khủng hoảng,
xung đột vũ trang hoặc chiến tranh - một trong những chức năng chủ yếu, tuy
có thành cơng nhất định, nhưng LHQ cũng cịn bộc lộ nhiều yếu kém, bất lực,


15
ít tác dụng, hoặc bị chi phối, lợi dụng. Tiêu biểu như các cuộc xung đột ở Bôxni-a, Cô-xô-vô (Nam Tư cũ), ở Ru-an-đa, Xô-ma-ni, Áp-ga-ni-xtan, và đặc
biệt là các cuộc xung đột ở Trung Đông… LHQ đều can dự nhưng tỏ ra bất
lực hoặc kém hiệu quả. Vào thời kỳ "chiến tranh lạnh", phần lớn các cuộc

khủng hoảng, xung đột được dàn xếp ngồi khn khổ LHQ, tiêu biểu như
chiến tranh Đơng Dương. Có các cuộc chiến tranh mà LHQ bị chi phối, lợi
dụng trao quyền “uỷ nhiệm”, như chiến tranh Triều Tiên (1950), chiến tranh Irắc (1991) làm cho thế giới rơi vào tình trạng bị chia rẽ sâu sắc.
Ba là, LHQ còn bộc lộ thực trạng thiếu dân chủ trong hệ thống quan hệ
quốc tế. Về lý thuyết, LHQ với 193 thành viên là 193 lá phiếu có giá trị ngang
nhau, trong đó các nước đang phát triển, các nước thuộc “thế giới thứ ba”
chiếm đa số áp đảo. Mặc dù vậy, LHQ vẫn mang tiếng là “câu lạc bộ của các
nước lớn”; bởi lẽ các nước này đã và đang giữ vai trò chủ đạo, nếu như khơng
muốn nói là khống chế ở HĐBA. Chẳng hạn: nhiều nước muốn ứng cử chức
thành viên thường trực hoặc khơng thường trực của HĐBA, hay gần đây nhất,
có nhiều người muốn ứng cử chức Tổng thư ký LHQ (khi ông Cô-phi An-nan
hết nhiệm kỳ vào 31-12-2006) nhưng đã phải rút lui vì khơng được sự ủng hộ
của các nước lớn. Chỉ cần một thành viên trong thường trực HĐBA phủ quyết
thì mọi việc sẽ khơng thành. Các nước lớn, các nước phát triển cũng giữ vị trí
then chốt trong thành phần của cơ chế có ý nghĩa quyết định: Uỷ ban về các
vấn đề ngân sách và tài chính, Tổng Thanh tra LHQ, Trợ lý Tổng thư ký tại
Đại hội đồng (thường là người Mỹ), Trợ lý Tổng thư ký tại HĐBA (thường là
người Nga), Uỷ ban chung (quyết định chương trình nghị sự của mỗi khố
họp Đại hội đồng). Người của các nước phát triển còn đứng đầu phần lớn các
tổ chức trong hệ thống LHQ, riêng Mỹ giữ vị trí lãnh đạo của ba tổ chức hàng
đầu: UNDP (Chương trình phát triển LHQ), UNICEF (Quỹ Nhi đồng LHQ),
PAM (Chương trình lương thực thế giới). Thế chi phối của các nước phát triển


16
còn bộc lộ ở việc xác định ưu tiên sự quan tâm cho LHQ. Có một số nước
châu Phi đã từng than phiền rằng, LHQ dành nhiều công sức và của cải để đáp
ứng những nhu cầu nhân đạo của xung đột ở Nam Tư cũ vì đó là địa bàn châu
Âu, trong khi ít quan tâm can thiệp, giúp đỡ kịp thời hoặc đúng mức đối với
các thảm kịch nhân đạo tại châu Phi, như ở Xô-ma-ni, Ru-an-đa, và cả ở Libê-ri-a, ăng-gơ-la… làm cho người ta có ý nghĩ rằng, LHQ là công cụ của các

nước lớn, các nước giàu.
2.3.2. Cải tổ Liên Hợp quốc - nhu cầu khách quan trong đời sống
quan hệ quốc tế thời kỳ sau chiến tranh lạnh
Kể từ khi thành lập đến nay, Liên Hợp quốc đã đóng vai trị quan trọng
trong việc giữ gìn hịa bình và an ninh quốc tế, xây dựng mối quan hệ hữu
nghị giữa các quốc gia trên thế giới. Theo báo cáo được thực hiện bởi trường
Đại học Columbia, kể từ khi thành lập, Liên Hợp quốc đã góp phần làm giảm
40% những cuộc xung đột bạo lực, 80% những cuộc xung đột gây đổ máu
nhiều nhất, 80% những cuộc diệt chủng và thanh lọc chính trị. Liên Hợp quốc
đã thành công ở hai phần ba các chiến dịch giữ tìn hịa bình của mình.
Tuy nhiên trong bối cảnh thế giới mới, khi mà chiến tranh lạnh đã kết
thúc, q trình tồn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ dẫn tới sự phụ thuộc giữa các
quốc gia ngày càng tăng và cùng với nó là sự nổi lên của chủ nghĩa đơn
phương trong quan hệ quốc tế và sự mất cân bằng trong trật tự pháp lí quốc tế.
Những thay đổi trong quan niệm của các nước về chủ quyền quốc gia, về việc
sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Trong khi đó, hoạt động của các cơ quan của Liên Hợp quốc đặc biệt là
Hội đồng Bảo an (HĐBA) lại không đáp ứng được yêu cầu thay đổi của bối
cảnh quốc tế và thực tiễn cho thấy rằng các cuộc xung đột vẫn không ngừng
xảy ra, các hoạt động khủng bố, việc sử dụng dụng các loại vũ khí hóa học,
hay các cuộc thử vũ khí hạt nhân, … vẫn tiếp diễn ở các vùng miền khác nhau
trên thế giới mà chưa có một giải pháp nào giải quyết những vấn đề này.


17
Những thất bại, chậm trễ đối trong việc can thiệp vào nạn diệt chủng ở
Rwanda, Congo, tình trạng đạo đức của binh lính giữ gìn hịa bình, những bê
bối trong các chương trình viện trợ nhân đạo, tình trạng thiếu hiệu năng do cơ
chế quan liêu, …đã và đang ảnh hưởng nặng nề tới uy tín cũng như hiệu quả
hoạt động của Liên Hợp quốc. Chính vì vậy, xuất phát từ yêu cầu khách quan

của bối cảnh quan hệ quốc tế và yếu tố chủ quan trong nội tại các cơ quan của
Liên hợp quốc, vấn đề cải tổ Liên Hợp quốc là nhu cầu khách quan trong đời
sống quan hệ quốc tế thời kỳ sau chiến tranh lạnh và cần phải cải tổ Liên hợp
quốc một cách toàn diện và triệt để.
Trong lịch sử, Liên Hợp quốc đã từng biết đến ba cuộc cải cách nhỏ: lần
đầu vào năm 1956, khi các quốc gia quyết định tăng số lượng của Hội đồng
Bảo an từ 11 lên 15, lần hai và lần ba vào 1965 và 1973 với quyết định tăng
số thành viên của Hội đồng kinh tế- xã hội từ 18 lên 27 và từ 27 lên 54. Từ
đầu những năm 90, các nước thành viên Liên Hợp quốc đã tích cực thảo luận
về việc cải tổ Liên Hợp quốc nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động, tăng dân
chủ hóa, minh bạch, tiết kiệm hơn. Các nội dung cải tổ gồm: tăng cường vai
trò của Đại Hội đồng, cải tổ Hội đồng Bảo an, Ban thư ký, phương thức làm
việc, tài chính... Phiên họp tồn thể Cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc khố
60 tháng 9/2005 có tham vọng cải tổ “trọn gói” Liên hợp quốc trên 3 cụm vấn
đề chính là: (i) Vấn đề phát triển và thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ; (ii)
Cải tổ bộ máy Liên hợp quốc (Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội đồng Kinh
tế Xã hội...); (iii) Cải tổ Ban Thư ký và phương thức hoạt động.
* Về phát triển và thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs): Phiên
toàn thể cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc khoá 60 tháng 9/2005 kêu gọi
các quốc gia, cộng đồng quốc tế có cam kết mạnh mẽ và cụ thể hơn như: hoàn
thành MDGs đúng hạn vào 2015; các nước phát triển phải tăng hỗ trợ tài
chính và kỹ thuật và có kế hoạch thực hiện nghĩa vụ giành 0,7% GNP cho
ODA; phấn đấu giành 50 tỷ USD cho ODA vào năm 2010; thúc đẩy tự do


18
hố thương mại, sớm kết thúc vịng Đơ-ha; mở rộng thêm đối tượng giảm,
xoá nợ, dỡ bỏ rào cản thương mại cho các nước nghèo, kém phát triển nhất...
* Cải tổ Hội đồng Bảo an: Đây là vấn đề được các nước thảo luận nhiều
nhất. Có thể nói vấn đề cải tổ Hội đồng Bảo an là cốt lõi và phức tạp nhất

trong cải tổ Liên hợp quốc. Các nước nhìn chung tán thành cần tăng số thành
viên để nâng cao tính đại diện và dân chủ, đồng thời cần tăng hiệu quả hoạt
động và tính minh bạch của Hội đồng Bảo an, nhưng cịn có ý kiến rất khác
nhau về hai vấn đề then chốt là việc tăng số thành viên thường trực và vấn đề
quyền phủ quyết (veto).
*Làm sống động vai trị của Đại hội đồng: Phiên tồn thể cấp cao Đại
hội đồng Liên hợp quốc tháng 9/2005 tiếp tục khẳng định vai trò trung tâm và
quyền hạn của Đại hội đồng, nhưng không đề ra các biện pháp thực thi cụ thể
mà giao cho Nhóm làm việc về làm sống động Đại hội đồng (bắt đầu họp từ
16/2/2006) đề xuất các biện pháp gia tăng vai trò, quyền hạn của Đại hội
đồng, cải tiến phương pháp làm việc, chương trình nghị sự, kể cả gia tăng vai
trị của Đại hội đồng trong việc lựa chọn Tổng Thư ký Liên hợp quốc.
* Cải tổ Ban thư ký và phương thức làm việc: Tổng Thư ký Liên hợp
quốc đóng vai trị quan trọng trong lĩnh vực này. Tại Khố 52 (1997), trên cơ
sở Báo cáo của Tổng Thư ký về "Đổi mới Liên hợp quốc - Một chương trình
cải tổ", Đại Hội Đồng Liên hợp quốc thông qua một loạt biện pháp nhằm cải
tổ bộ máy Ban Thư ký và các cơ quan hữu quan của Liên hợp quốc theo
hướng để Liên hợp quốc hoạt động hiệu quả và tiết kiệm hơn.
2.4. Vai trò của Việt Nam trong việc thúc đẩy cải tổ Liên hợp quốc
Sau khi trở thành thành viên LHQ từ năm 1977 tới nay, Việt Nam luôn
xác định rõ sự cần thiết tham gia các hoạt động của LHQ một cách có trách
nhiệm, hiệu quả, chủ động phối hợp với các quốc gia thành viên khác giải
quyết các vấn đề tồn cầu, vì hồ bình, an ninh và sự phát triển của thế giới.
Việt Nam ủng hộ quá trình cải tổ LHQ, cải tổ Hội đồng Bảo an (HĐBA) trên


19
cơ sở Hiến chương LHQ, bảo đảm vai trò của các nước đang phát triển và
quyền lợi chung của cộng đồng quốc tế. LHQ coi Việt Nam là nước đi đầu
trong việc thực hiện các sáng kiến của LHQ đối với các nước đang phát triển,

là điển hình trong việc thực hiện chương trình xố đói giảm nghèo, thực hiện
các mục tiêu thiên niên kỷ của LHQ. Cuối năm 2006, Việt Nam cũng đã được
chọn làm nước đầu tiên thử nghiệm chương trình cải tổ của LHQ nhằm phối
hợp hoạt động của nhiều cơ quan khác nhau của LHQ để giảm tình trạng hoạt
động chồng chéo nhau và thiếu hiệu quả.
Cơng cuộc cải tổ LHQ, trong đó trọng điểm là cải tổ HĐBA là q trình
lâu dài, khó khăn, phức tạp, nhưng là đòi hỏi bức xúc của cộng đồng quốc tế,
là xu thế không thể đảo ngược. Với thiện chí và sự nỗ lực chung của các nước
thành viên, trong đó Việt Nam là một thành viên tích cực, chúng ta tin rằng sự
nghiệp này nhất định sẽ thành công; LHQ nhất định sẽ được cải tổ từng bước
vững chắc, đúng với những nguyên tắc, mục tiêu, phương hướng đã được xác
định để tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh này ngày càng hoạt động có hiệu
quả, góp phần đắc lực vào việc củng cố, giữ gìn hồ bình, an ninh thế giới và
thúc đẩy sự phát triển bền vững của nhân loại.
3. KẾT LUẬN
Có thể nói, LHQ hiện nay đã bước vào con đường cải cách nên chỉ có
thể tiến lên đi tiếp mà khơng thể nào quay lại. Rõ ràng là con đường này hồn
tồn khơng bằng phẳng, bởi đây là nơi hội tụ và đan xen nhiều vướng mắc về
lợi ích, tình cảm giấc mộng và đấu tranh. Liên Hợp quốc là vũ đài lớn nhất thế
giới, đằng sau sự thể hiện của mỗi quốc gia, mỗi nguyên thủ và mỗi quan
chức ngoại giao đều có hình ảnh của lợi ích. Bước đi tương lai của LHQ liên
quan đến lợi ích của hầu hết mỗi quốc gia, đồng thời liên quan đến trật tự thế
giới trong tương lai của nhân loại. Như vậy, xét cho đến cùng, những tranh cãi


20
xung quanh vần đề cải cách thực sự là tranh cãi về quan niệm lợi ích và trật
tự.
Liên Hợp quốc cần cải tổ một cách sâu rộng và cơ bản, đó là điều mà tất
cả các nhà lãnh đạo trên thế giới mong mỏi. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở sự nhất

trí thì con đường tiến tới đổi mới của LHQ sẽ dừng lại ở điểm xuất phát ban
đầu mà thôi. Không chỉ bản thân LHQ mà các nhà lãnh đạo thế giới cần phải
có hành động cụ thể, để công tác cải cách diễn ra tốt đẹp và mơ ước một trật
tự thế giới mới trong tương lai sẽ trở thành hiện thực. Điều quan trọng ở đây
là cải tổ LHQ phải được thực hiện trên cơ sở vì lợi ích chung của tồn thế gới,
và vì tính hiệu quả của tổ chức này, chứ không phải là cuộc chiến tranh giành
quyền lực của các quốc gia trên thế giới.
Trong tương lai, LHQ nên phát huy vai trò chủ đạo trong các công việc
quốc tế, trở thành trung tâm hoạt động của chủ nghĩa đa phương quốc tế.
Trong lịch sử nhân loại từ trước đến nay chưa có một cơ cấu nào lại mang tính
đại biểu rộng rãi như LHQ và cũng chưa có tổ chức nào lại có thể thông qua
hợp tác quốc tế để gây ảnh hưởng lớn và sâu rộng như vậy đối với thế giới.
Khi ứng phó với thách thức tồn cầu cũng như thách thức an ninh truyền
thống và an ninh phi truyền thống, LHQ nên trở thành nòng cốt của thể chế đa
phương quốc tế. Nếu LHQ phát huy một cách thực sự vai trị của mình trong
những vấn đề kể trên thì cộng đồng quốc tế sẽ có bước tiến dài sang trật tự
quốc tế mới công bằng và hợp lý hơn. Vậy cải tổ Liên Hợp quốc là nhu cầu
khách quan của đời sống quan hệ quốc tế thời kỳ sau chiến tranh lạnh./.

4. TÀI LIỆU THAM KHẢO


21
1. Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, Khối kiến thức thứ tư, tập 14,
“Các chuyên đề bổ trợ” (Dành cho Học viện trung tâm), Nxb. Lý luận chính
trị, Hà Nội - 2015, tr 321 - 326.
2. Hiến chương Liên Hợp quốc.
3. Luật Quốc tế, sách chuyên khảo, Ths. Ngơ Hữu Phước, Nxb.Chính trị
quốc gia, năm 2010.
4. .

5. .
6. />7. />8. />co_id=30671&cn_id=479754.
9. />10. .
11. />

22



×