Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Pháp luật về điều kiện kinh doanh khí dầu mỏ hóa lỏng (LPG) ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.01 KB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN HỒNG KHIÊM

PH¸P LT Về ĐIềU KIệN KINH DOANH
KHí DầU Mỏ HóA LỏNG (lpg) ë VIÖT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số

: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. DƯƠNG ĐĂNG HUỆ

HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA


8

NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH
LPG Ở VIỆT NAM
1.1.

Tổng quan về hoạt động kinh doanh LPG

8

1.1.1.

Một số khái niệm liên quan đến hoạt động kinh doanh LPG

8

1.1.2.

Thực trạng hoạt động kinh doanh LPG ở Việt Nam

15

1.2.

Sự cần thiết của việc quy định các điều kiện kinh doanh

33

LPG
1.2.1.


Xuất phát từ vai trò quan trọng của mặt hàng LPG trong

33

việc bảo đảm an ninh năng lượng, duy trì sự ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội
1.2.2.

Xuất phát từ tính chất rủi ro cao trong hoạt động kinh doanh

34

LPG
1.2.3.

Xuất phát từ tính chất đặc thù của LPG với hệ thống quy

35

chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật nghiêm ngặt
1.2.4.

Xuất phát từ vai trò điều tiết của Nhà nước đối với thị

36

trường LPG
1.2.5.


Thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, đặc biệt
là phát triển ngành cơng nghiệp dầu khí

37


1.2.6.

Những biến động bất thường của thị trường LPG trong thời

38

gian qua
1.3.

Tổng quan pháp luật các nước về quản lý trong hoạt động

39

kinh doanh khí đốt
1.3.1.

Kinh nghiệm của một số nước về phát triển thị trường khí

39

đốt
1.3.2.

Một vài nhận định rút ra từ việc nghiên cứu pháp luật của


49

các nước ta về quản lý hoạt động kinh doanh khí đốt
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN

51

KINH DOANH LPG Ở VIỆT NAM
2.1.

Tổng quan pháp luật về điều kiện kinh doanh LPG

51

2.1.1.

Các điều kiện kinh doanh LPG

51

2.1.2.

Thủ tục đăng ký cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh

66

doanh LPG
2.2.


Đánh giá thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh LPG

72

2.2.1.

Điều kiện kinh doanh LPG bằng giấy phép có nhiều tên gọi

73

khác nhau
2.2.2.

Về tính hợp pháp của điều kiện kinh doanh LPG

75

2.2.3.

Về tính cần thiết của điều kiện kinh doanh LPG

78

2.2.4.

Tính đầy đủ của các quy định về điều kiện kinh doanh LPG

79

2.2.5.


Tính cụ thể và hợp lý của điều kiện kinh doanh LPG

79

2.2.6.

Những hạn chế, tồn tại của pháp luật về điều kiện kinh

83

doanh LPG
Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN
KINH DOANH LPG

94


3.1.

Định hướng hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh

94

LPG
3.1.1.

Không hạn chế quyền tự do kinh doanh, phát huy tiềm năng


94

dầu khí quốc gia, thu hút đầu tư nước ngồi, nhất là vốn, kỹ
thuật, cơng nghệ... để phát triển thị trường LPG
3.1.2.

Đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của doanh

94

nghiệp, người tiêu dùng
3.1.3.

Xây dựng hệ thống các điều kiện kinh doanh đồng bộ, minh

94

bạch, đảm bảo tính khả thi và thống nhất trong hệ thống
pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh
LPG phát triển phù hợp thông lệ quốc tế
3.2.

Kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi phatps

94

luật về điều kiện kinh doanh LPG
3.2.1.

Các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về điều


94

kiện kinh doanh LPG
3.2.2.

Nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về điều kiện kinh

98

doanh LPG
KẾT LUẬN

102

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

104


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
AUTOGAS: Nạp LPG vào ô tô
GAS: Khí đốt
GCN: Giấy chứng nhận
KH&CN: Khoa học và Cơng nghệ
LPG: Khí dầu mỏ hóa lỏng
PCCC: Phịng cháy chữa cháy


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, tự do kinh doanh là quyền cơ bản của con
người và là động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế- xã hội. Ở Việt
Nam, ngun tắc "mọi cơng dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của
pháp luật" được ghi nhận tại Điều 57 của Hiến pháp. Kể từ khi ban hành Luật
Doanh nghiệp 1999, các quy định về điều kiện kinh doanh nói chung và giấy
phép kinh doanh nói riêng đã được cải thiện đáng kể. Theo đó, pháp luật về
điều kiện kinh doanh đã và đang được cải thiện theo hướng minh bạch, đơn
giản và hợp lý, trong đó, nhiều loại giấy phép kinh doanh đã được bãi bỏ hoặc
chuyển thành điều kiện kinh doanh không cần giấy phép, tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động kinh doanh. Giấy phép kinh doanh là một trong những công
cụ thường được các cơ quan quản lý nhà nước lựa chọn để thực hiện quản lý
đối với hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, nếu công cụ giấy phép kinh doanh
được sử dụng khơng hợp lý, q mức cần thiết thì sẽ trở thành rào cản đối với
sự phát triển hoạt động kinh doanh, gây ra những chi phí tốn kém khơng cần
thiết cho xã hội. Trong khi đó, pháp luật hiện hành chưa có quy định về cơ sở
đánh giá tính hợp lý, tính khả thi và hiệu quả của giấy phép kinh doanh được
ban hành cũng như giám sát việc tuân thủ pháp luật về điều kiện kinh doanh.
Khí dầu mỏ hóa lỏng (LPG) là mặt hàng chiếm tỷ trọng trên 98% thị
phần khí đốt (năm 2008 sản lượng LPG tiêu thụ tại Việt Nam khoảng 920.000
tấn, năm 2009 là 1.000.000 tấn, dự kiến năm 2010 khoảng 1,1 triệu tấn). LPG
là mặt hàng thiết yếu có vai trị quan trọng trong việc bảo đảm an ninh năng
lượng. Đây là hàng hố thuộc diện kinh doanh có điều kiện, ảnh hưởng đến
nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, nên hoạt động kinh doanh và sử
dụng LPG phải được đảm bảo an toàn, hiệu quả và tiết kiệm. Tuy nhiên, trong

1


thời gian qua, hoạt động kinh doanh LPG trên thị trường đang phát sinh nhiều

bất cập: gian lận thương mại, san, chiết, nạp lậu, chiếm dụng trái phép chai
chứa LPG, nhái nhãn hiệu, giả thương hiệu để bán cho người tiêu dùng kiếm
lợi bất chính; một số vụ cháy nổ đã xảy ra gây thiệt hại về người và tài sản do
các trạm nạp không bảo đảm quy định về an toàn, gây bức xúc cho người tiêu
dùng và mất an toàn cho xã hội.
Hiện nay, sản lượng LPG của nước ta tương đối dồi dào, nhu cầu sử
dụng LPG ngày càng gia tăng vào những năm gần đây trên thế giới. LPG là
khí đồng hành thu được từ quá trình trưng cất dầu thơ hay tinh luyện khí thiên
nhiên. LPG có thành phần chính là Propane C3H8 và Butane C4H10. Chính
vì nhiên liệu LPG có nhiều ưu điểm: nhiệt trị cao, chỉ số octan lớn và có thể
hố lỏng ở áp suất thấp, nên nhiên liệu LPG dễ dàng được chấp nhận như một
nhiên liệu thay thế. Từ năm 1999, Việt Nam đã xây dựng nhà máy chế biến
LPG từ khí đồng hành lấy từ mỏ dầu khí Bạch Hổ đạt sản lượng 300.000
tấn/năm và trong năm 2007 sẽ có thêm nhà máy sản xuất LPG từ Khu lọc dầu
Dung Quất- Quảng Ngãi với sản lượng 250.000 tấn/năm, nâng tổng sản lượng
550.000 tấn/năm đủ sức cung ứng cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Vì
vậy, việc chọn LPG thay thế cho các loại nhiên liệu truyền thống trong phát
triển kinh tế là hướng giải quyết ưu tiên ở Việt Nam.
Mặt khác, nền cơng nghiệp dầu khí ở nước ta đang bước vào giai đoạn
phát triển. Nhiều mỏ khí thiên nhiên đã được phát hiện và đã đưa khí vào bờ
để cung cấp cho các ngành năng lượng và công nghiệp. Trong tương lai gần,
sản lượng LPG khai thác được trong q trình lọc dầu và tinh luyện khí thiên
nhiên sẽ rất lớn, ước tính năm 2009 khoảng 550.000 tấn. Do đó, việc phát
triển hoạt động kinh doanh LPG không chỉ thúc đẩy sự phát triển ngành công
nghiệp dầu khí mà cịn làm giảm ơ nhiễm mơi trường. Ở nhiều quốc gia trên
thế giới việc quy hoạch, đầu tư xây dựng hệ thống cung cấp LPG trung tâm đã

2



trở nên thông dụng và là một yếu tố hạ tầng kỹ thuật không thể thiếu trong các
khu đô thị, chung cư cao tầng. Song, ở Việt Nam vẫn còn là một lĩnh vực rất
mới mẻ.
Về mặt thể chế, thị trường LPG thiếu hành lang pháp lý thống nhất,
minh bạch, các văn bản pháp quy điều chỉnh các hoạt động kinh doanh LPG ở
Việt Nam trong thời gian qua thường thiếu và không kịp thời, làm cho công
tác kiểm tra, xử phạt đối với những vụ vi phạm trong kinh doanh LPG của các
cơ quan chức năng của nhà nước rất khó xử lý, mặt khác các gian lận thương
mại trên thị trường LPG ngày càng gia tăng.
Trong hoàn cảnh như vậy, việc nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện
pháp luật về điều kiện kinh doanh và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong
hoạt động kinh doanh LPG là vấn đề hết sức cần thiết, có tính thực tiễn. Chính vì
vậy, tơi quyết định chọn đề tài “Pháp luật về điều kiện kinh doanh khí dầu mỏ
hóa lỏng (LPG) ở Việt Nam” làm Luận văn Thạc sỹ của mình.
Tiến trình xây dựng nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhất là khi có Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp 2005 đến nay, ở
nước ta có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về điều kiện kinh doanh. Xung
quanh vấn đề này, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu do các nhà khoa học
pháp lý, người làm công tác thực tiễn của Việt Nam thực hiện. Các cơng trình
nghiên cứu pháp luật về điều kiện kinh doanh được thực hiện dưới nhiều hình
thức với nhiều cấp độ khác nhau. Trong đó, có cơng trình nghiên cứu toàn
diện về các vấn đề liên quan đến pháp luật về điều kiện kinh doanh nhưng
cũng có cơng trình chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhất định liên quan đến
pháp luật về điều kiện kinh doanh. Trong số rất ít các cơng trình nghiên cứu
về vấn đề này, có thể kể đến cơng trình nghiên cứu ở tầm thạc sĩ của tác giả
Lê Trần Luật, bảo vệ năm 2001, đó là "Chế độ pháp lý về giấy phép kinh
doanh ở Việt Nam". Tuy nhiên, cơng trình này cũng chỉ dừng lại ở một khía

3



cạnh pháp luật về điều kiện kinh doanh, đó là giấy phép kinh doanh mà chưa
nghiên cứu một cách toàn diện các hình thức tồn tại của điều kiện kinh doanh
ở nước ta.
Năm 2007, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương phối hợp với
Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam cũng đã hình thành một đề tài
nghiên cứu về giấy phép kinh doanh. Tuy nhiên, do đây là cơng trình nghiên
cứu của các nhà kinh tế nên nội dung của cơng trình này chỉ đề cập đến giải
pháp dưới góc độ là cơng cụ quản lý kinh tế mà không đi sâu nghiên cứu dưới
học độ khoa học pháp lý. Ngồi ra, cơng trình này cũng nghiên cứu điều kiện
kinh doanh dưới hình thức giấy phép một cách chung nhất, bao quát mọi lĩnh
vực của hoạt động kinh tế mà không đi sâu nghiên cứu về điều kiện kinh
doanh của một số lĩnh vực hoạt động cụ thể nào, trong đó có hoạt động kinh
doanh LPG. Tuy nhiên, thực tế hiện nay đã có nhiều thay đổi với một số văn
bản mới được ban hành cùng với việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới. Đồng thời, sự vận động không ngừng của thực tiễn
đòi hỏi cần phải sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật về điều kiện kinh
doanh LPG cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay.
Nhìn chung, vấn đề nghiên cứu pháp luật về điều kiện kinh doanh nói
chung và trong hoạt động kinh doanh đặc thù đối với mặt hàng LPG vẫn chưa
được nhiều nhà khoa học và những người làm công tác thực tiễn quan tâm
nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc. Nhiều vấn đề xung quanh điều kiện
kinh doanh LPG cịn chưa được làm rõ, và có phương án xử lý cho phù hợp.
Việc nghiên cứu đề tài này lại càng có ý nghĩa thực tiễn trong bối cảnh Chính
phủ đang đẩy mạnh cải cách hành chính trong đó có việc rà sốt, bãi bỏ các
điều kiện kinh doanh bằng giấy phép không cần thiết, không phù hợp; tăng
cường kiểm sốt thủ tục hành chính trong đó có cấp giấy chứng nhận đủ điều
kiện kinh doanh LPG.

4



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thơng qua việc phân tích thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh
LPG ở nước ta hiện nay, trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm về nền kinh tế
thị trường dưới sự điều tiết của nhà nước và việc bảo đảm quyền tự do kinh
doanh, trong đó có hoạt động kinh doanh LPG, luận văn đưa ra những kiến
nghị nhằm cải thiện các quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh LPG và
đề xuất các cơ chế đảm bảo cho việc thực thi pháp luật hiệu quả hơn, đảm bảo
sự quản lý của nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh LPG.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của các quy định về điều
kiện kinh doanh LPG.
- Đánh giá các quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh LPG ở
Việt Nam và thực trạng áp dụng các quy định đó.
- Đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện các quy định pháp luật về điều
kiện kinh doanh và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong hoạt động kinh
doanh LPG.
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
Ngành cơng nghiệp khí có 3 lĩnh vực hoạt động chính là: tìm kiếm,
thăm dị, khai thác (khâu thượng nguồn); vận chuyển, tàng trữ (khâu trung
nguồn); chế biến, kinh doanh (khâu hạ nguồn). Với mong muốn góp phần cải
thiện điều kiện kinh doanh LPG (khâu hạ nguồn), đảm bảo thi hành tốt chính
sách pháp luật về điều kiện kinh doanh ở Việt Nam, tác giả đã chọn đề tài:
"Pháp luật về điều kiện kinh doanh khí dầu mỏ hóa lỏng (LPG) ở Việt
Nam" làm đề tài luận văn của mình. Trong phạm vi đề tài này, tác giả sẽ tập
trung chủ yếu nghiên cứu về các điều kiện kinh doanh LPG trong khâu hạ
nguồn, đặc biệt là các điều kiện kinh doanh dưới hình thức giấy chứng nhận


5


đủ điều kiện kinh doanh LPG trong chuỗi hoạt động kinh doanh LPG đối với
các cơ sở kinh doanh LPG sau đây: trạm nạp LPG vào chai, cửa hàng bán
LPG chai, trạm nạp LPG vào ô tô và trạm cấp LPG.
Giấy phép kinh doanh là công cụ thường được các cơ quan nhà nước lựa
chọn trong việc thực hiện các quy định về điều kiện kinh doanh. Đó chính là nơi
phát sinh nhiều vướng mắc, khó khăn đối với cả cơ quan nhà nước và doanh
nghiệp trong thực thi các quy định về điều kiện kinh doanh. Cải cách thủ tục
hành chính với việc bãi bỏ các loại giấy phép khơng cịn phù hợp cũng đang là
nhiệm vụ ưu tiên của cải cách hành chính hiện nay. Cịn đối với các yêu cầu
khác mà doanh nghiệp phải thực hiện hoặc phải có mới được quyền kinh doanh
LPG mà khơng cần xác nhận, chấp thuận dưới bất kỳ hình thức nào của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thì thương nhân được chủ động hơn trong việc thực
hiện nên ít gây phiền hà cho doanh nghiệp. Vì vậy, trong thời điểm hiện nay, cần
tập trung vào mục tiêu cải thiện điều kiện kinh doanh dưới các hình thức giấy
phép, đặc biệt là Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh LPG là phù hợp.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin và đường lối quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thể chế kinh tế thị trường, vai trò điều
tiết của nhà nước trong quản lý kinh tế và việc bảo đảm quyền tự do kinh
doanh trong lĩnh vực kinh doanh LPG. Ngồi ra, luận văn cũng cịn được sử
dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh,
thống kê, lịch sử... Các phương pháp được sử dụng một cách linh hoạt nhằm
đảm bảo hiệu quả của việc nghiên cứu.
6. Điểm mới của luận văn
- Luận văn là cơng trình khoa học đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về
pháp luật điều kiện kinh doanh LPG trong tiến trình cải cách thể chế kinh tế

thị trường của Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển.

6


- Luận văn phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp
dụng cơ chế riêng đối với hoạt động kinh doanh LPG thông qua các quy định
về điều kiện kinh doanh để trên cơ sở đó đưa ra những ý kiến đóng góp cho
việc cải thiện điều kiện kinh doanh đặc biệt là các điều kiện kinh doanh dưới
hình thức Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh LPG.
- Luận văn đưa ra giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về điều kiện kinh doanh LPG ở Việt Nam và bảo đảm quyền tự do
kinh doanh và vai trò điều tiết nền kinh tế của nhà nước.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu và học tập môn học Luật kinh tế tại các cơ sở đào tạo luật. Những kiến
nghị từ kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần trực tiếp vào việc hồn
thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật trong hoạt động kinh doanh LPG ở Việt Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy định về điều kiện
kinh doanh LPG
Chương 2. Thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh LPG ở Việt
Nam
Chương 3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh và
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong hoạt động kinh doanh LPG

7



Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ
ĐIỀU KIỆN KINH DOANH LPG Ở VIỆT NAM
1.1. Tổng quan về hoạt động kinh doanh LPG
1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến hoạt động kinh doanh LPG
1.1.1.1. Khái niệm và những đặc tính ưu việt của LPG
Khí dầu mỏ hố lỏng có tên tiếng Anh: Liquefied Petroleum Gas,
được gọi với nhiều tên khác nhau: khí đốt hố lỏng, khí hố lỏng, gas, LPG
(sau đây gọi tắt là LPG). LPG là khí đồng hành thu được từ quá trình chưng
cất dầu thơ hay tinh luyện khí thiên nhiên. LPG là hỗn hợp chủ yếu của
Propane (cơng thức hóa học: C3H8) và Butane (cơng thức hóa học: C4H10)
có nguồn gốc từ dầu mỏ, tại nhiệt độ, áp suất bình thường LPG ở thể khí và
khi được nén tại một áp suất hoặc nhiệt độ nhất định thì LPG chuyển sang
thể lỏng; dùng làm chất đốt, nhiên liệu động cơ, nguyên liệu phục vụ sản
xuất, dân sinh. Trong luận văn này, tác giả khơng đề cập đến khí tự nhiên
hố lỏng (LNG) vì đây là loại khí có tính chất hoá lý rất khác với LPG về
bản chất cũng như thành phần, khơng thể hố lỏng tại nhiệt độ thường, mà
tại nhiệt độ - (âm) 1600C. Do vậy, nó địi hỏi một hệ thống trang thiết bị làm
lạnh và cách nhiệt cực kỳ phức tạp. Thực tế, việc sử dụng khí tự nhiên
thường thơng qua hệ thống đường ống hoặc sử dụng ở dạng khí nén (CNGCopressed Natural Gas).
Là sản phẩm có nguồn gốc từ dầu mỏ, LPG có đặc tính ưu việt là một
loại nhiên liệu sạch, tồn chứa dưới dạng lỏng, sử dụng dưới dạng hơi, vận
chuyển dễ dàng, nhiệt trị cao [hệ số toả nhiệt 12,86 kwh/kg -Propane]. Ứng
dụng của LPG là nguồn nguyên liệu cho các ngành cơng nghiệp (hố chất, mỹ
phẩm, thực phẩm) và nơng nghiệp; sử dụng cho quá trình đốt sinh nhiệt và

8



làm nhiên liệu. Nhu cầu sử dụng LPG làm nhiên liệu, nguyên liệu trong công
nghiệp và dân dụng ngày càng trở nên phổ biến trên khắp thế giới.
LPG không chỉ là mặt hàng thiết yếu đối với đời sống dân sinh, phát
triển cơng nghiệp mà cịn có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm an
ninh năng lượng đối với các nước trên thế giới.
1.1.1.2. Khái niệm và phân loại điều kiện kinh doanh
Điều kiện kinh doanh theo nghĩa rộng có thể hiểu là mọi sự can thiệp
của cơ quan hành chính nhà nước vào quyền tự do kinh doanh của người dân,
thường được cụ thể hoá bằng những hành vi của nhân viên hành chính có
quyền chấp nhận, hạn chế hoặc khước từ việc đăng ký hoặc tổ chức những
hoạt động kinh doanh cụ thể [17].
Theo quy định của pháp luật hiện hành, điều kiện kinh doanh là yêu
cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh ngành,
nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ
điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác [18]. Đối
với ngành, nghề mà pháp luật về đầu tư và pháp luật có liên quan quy định
phải có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ được kinh doanh ngành, nghề đó khi
có đủ điều kiện theo quy định. Đối với hàng hố hạn chế kinh doanh, hàng
hóa kinh doanh có điều kiện, việc mua bán chỉ được thực hiện khi hàng hoá
và các bên mua bán hàng hoá đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định
của pháp luật [19].
Căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội của từng thời kỳ và điều ước
quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Chính phủ
quy định cụ thể danh mục hàng hoá cấm kinh doanh, hàng hoá hạn chế kinh
doanh, hàng hố kinh doanh có điều kiện và điều kiện để được kinh doanh
hàng hố đó.

9



Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của
Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp
quy định điều kiện kinh doanh được thể hiện dưới các hình thức:
(i) Giấy phép kinh doanh;
(ii) Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh;
(iii) Chứng chỉ hành nghề;
(iv) Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp;
(v) Xác nhận vốn pháp định;
(vi) Chấp thuận khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
(vii) Các yêu cầu khác mà doanh nghiệp phải thực hiện hoặc phải có
mới được quyền kinh doanh ngành nghề đó mà khơng cần xác nhận, chấp
thuận dưới bất kỳ hình thức nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Các điều kiện kinh doanh cũng có thể được chia làm hai loại: (i) điều
kiện phải có trước khi đăng ký kinh doanh và (ii) điều kiện có sau khi đăng ký
kinh doanh. Điều kiện có trước khi đăng ký kinh doanh thể hiện dưới hình
thức chứng chỉ hành nghề và yêu cầu về vốn tối thiểu. Tất cả các điều kiện
khác thì doanh nghiệp phải đáp ứng đủ trước khi bắt đầu kinh doanh.
Ngành, nghề kinh doanh có điều kiện được quy định tại các luật, pháp
lệnh, nghị định chuyên ngành hoặc quyết định có liên quan của Thủ tướng
Chính phủ (sau đây gọi chung là pháp luật chuyên ngành). Nghiêm cấm việc
ban hành và quy định không đúng thẩm quyền về các ngành, nghề kinh doanh
có điều kiện. Doanh nghiệp được quyền kinh doanh ngành, nghề kinh doanh
có điều kiện kể từ khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Việc quản
lý nhà nước đối với ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và kiểm tra việc
chấp hành điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp thuộc thẩm quyền của cơ
quan chuyên ngành theo quy định của pháp luật chuyên ngành [9].

10



1.1.1.3. Khái niệm kinh doanh LPG
Kinh doanh nói chung là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả
các cơng đoạn của q trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc
cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi [18]. Luật Doanh
nghiệp 2005 đã phân chia ngành, nghề kinh doanh thành ba loại: (i) ngành,
nghề cấm kinh doanh; (ii) ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và (iii) ngành,
nghề tự do kinh doanh. Sự phân định nói trên là bước tiến lớn trong việc xác
định vai trò của nhà nước và của thị trường trong nền kinh tế. Đây được coi là
điều kiện cơ bản đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện được quyền tự chủ kinh
doanh trong các ngành, nghề mà pháp luật khơng cấm hoặc khơng địi hỏi
phải có điều kiện.
Theo quy định tại khoản 12 Điều 3 Nghị định số 107/2009/NĐ-CP
ngày 26/11/2009 của Chính phủ về kinh doanh khí dầu mỏ hố lỏng: kinh
doanh LPG là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các hoạt động
trong chuỗi kinh doanh LPG: xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập - tái xuất, sản
xuất, chế biến, tồn trữ, nạp LPG vào chai hoặc xe bồn, phân phối, cho thuê
kho, cảng, giao nhận LPG và vận chuyển LPG.
Đối với doanh nghiệp kinh doanh các ngành, nghề mà luật, pháp lệnh
và nghị định địi hỏi phải có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ được kinh doanh
các ngành, nghề đó khi có đủ các điều kiện theo quy định. Đối với các doanh
nghiệp kinh doanh các ngành, nghề mà luật, pháp lệnh và nghị định địi hỏi
phải có vốn pháp định hoặc chứng chỉ hành nghề, thì doanh nghiệp chỉ được
đăng ký kinh doanh các ngành, nghề đó khi có đủ vốn hoặc chứng chỉ hành
nghề theo quy định của pháp luật [18].
1.1.1.4. Khái niệm và phân loại điều kiện kinh doanh LPG
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005, ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện là ngành, nghề mà doanh nghiệp chỉ được tiến hành kinh
doanh khi đáp ứng đủ một số điều kiện nhất định, gọi là điều kiện kinh doanh.


11


Quy định về điều kiện kinh doanh được xác định là văn bản quy phạm
pháp luật hoặc tập hợp các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật có
liên quan về tất cả nội dung cụ thể của quy định về điều kiện kinh doanh, bao
gồm: mục đích quy định về điều kiện kinh doanh, tên giấy phép, tên ngành
nghề kinh doanh có điều kiện, đối tượng được cấp phép, thủ tục cấp, gia hạn,
thu hồi...Việc xác định khái niệm "pháp luật về điều kiện kinh doanh" như
trên sẽ góp phần chuẩn mực hố nội dung các quy định về điều kiện kinh
doanh, là bước khởi đầu quan trọng để nâng cao chất lượng các quy định về
điều kiện kinh doanh.
Ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh áp dụng
theo các quy định của luật, pháp lệnh, nghị định chuyên ngành hoặc quyết
định có liên quan của Thủ tướng Chính phủ. Các quy định về loại ngành, nghề
kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh đối với ngành, nghề đó tại
các văn bản quy phạm pháp luật khác ngoài các loại văn bản quy phạm pháp
luật nêu trên đều khơng có hiệu lực thi hành.
Điều kiện kinh doanh được thể hiện dưới các hình thức [10]:
(i) Giấy phép kinh doanh;
(ii) Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh;
(iii) Chứng chỉ hành nghề;
(iv) Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp;
(v) Xác nhận vốn pháp định;
(vi) Chấp thuận khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
(vii) Các yêu cầu khác mà doanh nghiệp phải thực hiện hoặc phải có
mới được quyền kinh doanh ngành, nghề đó mà khơng cần xác nhận, chấp
thuận dưới bất kỳ hình thức nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Theo quy định tại Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của

Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh

12


doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện thì LPG thuộc danh mục
hàng hố, dịch vụ kinh doanh có điều kiện. Theo quy định của Nghị định số
107/2009/NĐ-CP, điều kiện kinh doanh LPG bao gồm các hình thức sau:
(i) Điều kiện kinh doanh LPG dưới hình thức giấy phép kinh doanh:
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cấp cho thương nhân kinh doanh
LPG (xuất khẩu, nhập khẩu LPG; sản xuất, chế biến LPG; phân phối LPG cấp
I; trạm nạp LPG vào chai; tổng đại lý kinh doanh LPG; đại lý kinh doanh
LPG; cửa hàng bán LPG chai; trạm nạp LPG vào ô tô; trạm cấp LPG; kinh
doanh dịch vụ cho thuê kho cảng xuất nhập LPG; kinh doanh dịch vụ vận
chuyển LPG).
(ii) Điều kiện kinh doanh LPG dưới hình thức giấy chứng nhận đủ điều
kiện kinh doanh:
- Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh LPG do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp cho các cơ sở kinh doanh LPG sau đây: Trạm nạp LPG vào
chai; Cửa hàng bán LPG chai; Trạm nạp LPG vào ô tô và Trạm cấp LPG.
- Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xăng dầu (đối với trạm nạp
LPG vào ô tô tại cửa hàng xăng dầu).
- Giấy chứng nhận đủ điều kiện kỹ thuật sản xuất, chế biến LPG cấp
cho thương nhân đáp ứng đủ điều kiện sản xuất, chế biến LPG.
- Giấy chứng nhận đủ điều kiện về phòng cháy, chữa cháy.
- Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hàng hoá, thương hiệu cấp cho thương
nhân thuê nạp LPG vào chai.
- Giấy chứng nhận kiểm định thiết bị đo kiểm và an toàn.
(iii) Điều kiện kinh doanh LPG dưới hình thức chứng chỉ hành nghề:
- Giấy chứng nhận đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ về phòng cháy và

chữa cháy; nghiệp vụ bảo vệ mơi trường; nghiệp vụ an tồn lao động, vệ sinh
lao động; nghiệp vụ bảo quản, đo lường, chất lượng cấp cho cán bộ, nhân viên

13


làm việc tại cơ sở kinh doanh LPG, kinh doanh dịch vụ LPG, kể cả người
điều khiển phương tiện vận chuyển LPG.
- Chứng chỉ đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ về phịng cháy và chữa
cháy; nghiệp vụ bảo vệ mơi trường; nghiệp vụ an toàn lao động, vệ sinh lao
động; nghiệp vụ bảo quản, đo lường, chất lượng cấp cho cán bộ, nhân viên
làm việc tại cơ sở kinh doanh LPG, kinh doanh dịch vụ LPG, kể cả người
điều khiển phương tiện vận chuyển LPG.
(iv) Điều kiện kinh doanh LPG dưới hình thức giấy xác nhận:
- Giấy xác nhận đủ điều kiện về an ninh trật tự cấp cho các cơ sở kinh
doanh LPG: Cửa hàng bán LPG chai; Trạm nạp LPG vào chai; Trạm cấp
LPG; Trạm nạp LPG vào ô tô.
- Giấy xác nhận đủ điều kiện xuất khẩu, nhập khẩu LPG cấp cho thương
nhân xuất khẩu, nhập khẩu LPG; thương nhân sản xuất, chế biến LPG.
- Giấy xác nhận bảo đảm điều kiện quy định về an toàn, tiêu chuẩn chất
lượng cấp cho thương nhân sản xuất, chế biến LPG.
(v) Điều kiện kinh doanh LPG dưới hình thức chấp thuận khác của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền:
- Giấy phép xây dựng cấp cho thương nhân đầu tư xây dựng trạm nạp
LPG chai, trạm nạp LPG vào ô tô, trạm cấp LPG.
- Giấy đăng kiểm về tiêu chuẩn chất lượng và bảo vệ môi trường.
- Phiếu kết quả kiểm định máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an
toàn lao động.
- Phiếu kết quả kiểm định từng thiết bị, dụng cụ kiểm tra đo lường: cân
khối lượng, đo thể tích, áp kế và các thiết bị, dụng cụ khác.

- Văn bản xác nhận quyền sử dụng hợp pháp chai LPG cấp cho thương
nhân thuê nạp LPG vào chai.

14


Bên cạnh các điều kiện kinh doanh bằng “giấy phép” nêu trên, tùy từng
hoạt động kinh doanh LPG cịn có các điều kiện kinh doanh LPG dưới hình
thức các yêu cầu khác mà doanh nghiệp phải thực hiện hoặc phải có mới được
quyền kinh doanh LPG mà khơng cần xác nhận, chấp thuận dưới bất kỳ hình
thức nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền:
- Kho chứa LPG với tổng dung tích các bồn chứa tối thiểu: 5.000 m3
(sản xuất, chế biến LPG); 3.000 m3 (xuất khẩu, nhập khẩu LPG); 1.000 m3
(kinh doanh dịch vụ cho thuê kho, cảng xuất nhập LPG); 800 m3 (phân phối
LPG cấp I); kho chứa chai LPG và LPG chai có sức chứa tối thiểu 2.000 chai
LPG hoặc LPG chai các loại (tổng đại lý kinh doanh LPG).
- Số lượng chai LPG tối thiểu: 300.000 chai LPG (xuất khẩu, nhập
khẩu LPG; phân phối LPG cấp I).
- Có hệ thống phân phối tối thiểu: 40 đại lý kinh doanh LPG (xuất
khẩu, nhập khẩu LPG); 20 đại lý kinh doanh LPG (phân phối LPG cấp I); 10
đại lý kinh doanh LPG (tổng đại lý kinh doanh LPG).
1.1.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh LPG ở Việt Nam
Ở Việt Nam, LPG đã được sử dụng ở Sài Gịn từ những năm trước
1975, lúc đó chủ yếu dùng cho sinh hoạt. Sau ngày giải phóng, từ những năm
1990, LPG được quay trở lại thị trường miền Nam qua đường nhập khẩu tiểu
ngạch từng chai LPG đóng sẵn qua biên giới Campuchia. Từ những năm 1992
bắt đầu xuất hiện các công ty kinh doanh LPG, như Elf gas Saigon,
Saigonpetro, Petrolimex..., với sản lượng cung cấp cho cả nước gần 500.000
tấn/năm.
Kể từ đó, nhu cầu sử dụng LPG trong dân sinh và các khu công nghiệp

ngày càng phát triển nhanh chóng trong cả nước từ nơng thơn, vùng sâu, vùng
xa đến hải đảo. Nếu năm 1995, nhu cầu LPG của cả nước là 50.000 tấn, thì
năm 2000 là 320.000 tấn, năm 2005 là 850.000 tấn, năm 2009 đạt 1.000.000

15


tấn, năm 2010 dự kiến 1.100.000 tấn và dự báo năm 2015 sẽ là 1.700.000 tấn.
Hiện nay, trên toàn quốc có hơn 70 cơng ty kinh doanh LPG lớn, nhỏ đang
hoạt động, với hơn 15 nhà máy sản xuất chai LPG (con số này vượt rất xa so
với các nước trong khu vực). Nhu cầu sử dụng LPG sẽ còn tăng cao hơn nếu
như nhu cầu sử dụng LPG làm ngun liệu cho cơng nghiệp hố dầu, sản xuất
nhiên liệu sạch phát triển [22].
Qua 20 năm phát triển trong lĩnh vực kinh doanh LPG, do việc phát
triển quá nóng, chưa có định hướng, quy hoạch tổng thể cấp quốc gia, nên đã
nảy sinh nhiều vấn đề bất cập trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động kinh doanh LPG. Tình trạng sang, chiết, nạp LPG trái phép, thu giữ,
chiếm dụng chai LPG của nhau, thậm chí có những đơn vị, cá nhân đã mài
chữ nổi trên chai LPG của các hãng LPG khác, thay đổi kết cấu, nhãn hiệu
để biến thành chai LPG của mình, tình trạng nhập khẩu chai LPG quá cũ đã
qua sử dụng tung ra trên thị trường… gây thiệt hại lớn cho những nhà kinh
doanh LPG chân chính và người tiêu dùng, nhà nước thất thu thuế, đặc biệt
nguy cơ cháy nổ, tai nạn, gây thiệt hại nghiêm trọng cho xã hội trong thời
gian vừa qua.
Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, năm 2008, trong số 4.441 cơ sở kinh
doanh xăng dầu, LPG trên cả nước được thanh tra thì đến 643 cơ sở xăng dầu
và 154 cơ sở kinh doanh LPG vi phạm về đo lường, chất lượng, chiếm tỷ lệ
17,9%. Mặc dù tỉ lệ này có giảm so với năm 2003 khi số vi phạm chiếm 29%,
nhưng lại cao hơn so với năm 2007. Trong năm 2007 chỉ có 336 cơ sở kinh
doanh xăng dầu bị xử lý vi phạm trong tổng số 2.299 cơ sở được thanh tra.

Các hành vi vi phạm chủ yếu là chai LPG không được kiểm định, khơng đủ
định lượng ghi trên bao bì và sang chiết trái phép. Số lượng thống kê tình
trạng vi phạm về đo lường và chất lượng lĩnh vực kinh doanh xăng dầu, LPG
vẫn cao.

16


Các hành vi vi phạm phổ biến trong hoạt động kinh doanh LPG: sang
(san), chiết, nạp LPG trái phép; sử dụng niêm chai LPG giả, tem giả của các
công ty LPG, cắt tay xách, mài nhãn hiệu trên chai LPG, đốt lớp sơn gốc ban
đầu, tẩy đục chữ, trát ma tíc, thay đổi kết cầu chai LPG của nhiều cơng ty
LPG. Theo biên bản kiểm tra ngày 30/10/2005, được lập giữa Công an huyện
Đức Trọng và đại diện một số cơng ty LPG thì hành vi vi phạm pháp luật của
Công ty TNHH Miền Đông là rất nghiêm trọng và có tính hệ thống: Tại hiện
trường đã phát hiện chai LPG của 20 thương hiệu bị sang, chiết, nạp LPG trái
phép, sử dụng niêm chai LPG giả, tem giả của các công ty kinh doanh LPG.
Các chai LPG đã bị cải tạo, thay đổi kết cấu so với kết cấu ban đầu, như: cắt
tay xách, mài nhãn hiệu trên chai LPG, tháo van chai LPG, đốt lớp sơn gốc
nguyên mẫu ban đầu, tẩy, đục chữ, trét matíc, sau đó sơn thành màu sơn và
nhãn hiệu Sun Gas của Công ty TNHH Miền Đông.
Một vấn đề bất cập đang đặt ra là các văn bản pháp quy điều chỉnh
các hoạt động kinh doanh LPG ở Việt Nam trong thời gian dài vừa qua,
vừa thiếu, vừa không kịp thời, làm cho công tác kiểm tra, xử phạt đối với
những vụ vi phạm trong kinh doanh LPG của các cơ quan chức năng làm
nhiệm vụ rất khó xử lý, mặt khác đó cũng là kẽ hở để những người làm ăn
khơng chân chính lợi dụng, gây lộn xộn, làm nản lòng các nhà đầu tư muốn
đầu tư trong lĩnh vực này.
Không như xăng dầu, thị trường LPG ở Việt Nam đã sớm được tự định
giá bán lẻ trong nhiều năm qua. Tuy vậy, giá LPG tăng hoặc giảm của các

công ty thường xảy ra đồng loạt và giống nhau.
Cho đến thời điểm hiện nay, Tập đồn dầu khí quốc gia Việt Nam đang
cung cấp cho thị trường trong nước chủ yếu là khí khô (khoảng 2,2 tỷ m3
trong 4 tháng đầu năm 2008) dùng cho sản xuất phân đạm và điện năng.
Lượng LPG do Tập đoàn cung cấp phục vụ cho nhu cầu nhiên liệu chỉ vào

17


khoảng 200.000 tấn/năm, đáp ứng khoảng 25% thị trường tiêu thụ LPG của
Việt Nam. Do phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu, nên sự biến động giá cả
bất thường trên thị trường LPG của thế giới sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động và lợi nhuận của ngành kinh doanh LPG của nước ta. Tác động ảnh
hưởng này còn bị khuếch đại liên nhiều bởi sự biến động của những yếu tố vĩ
mô của nền kinh tế như: lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất ngân hàng...
Tuy là một lĩnh vực kinh doanh mới xuất hiện trong vòng 20 năm trở
lại đây, nhưng thị trường LPG của Việt Nam cũng có sức hấp dẫn và đã thu
hút được nhiều cơng ty (cho đến nay, cả nước có khoảng 70 doanh nghiệp
kinh doanh LPG, trong đó có những hãng kinh doanh LPG nổi tiếng trên thế
giới: Shell, Total...) tham gia và cạnh tranh quyết liệt. Điều đó cho thấy bên
cạnh những thách thức cịn có những cơ hội cho các công ty kinh doanh LPG
ở Việt Nam [12].
Cùng với thời gian, phạm vi ứng dụng của LPG đã có những thay đổi
đáng kể: từ chỗ được sử dụng làm nguyên liệu đầu vào cho các sản phẩm hoá
dầu sang được sử dụng làm nhiên liệu phục vụ tiêu dùng và sản xuất. Việc
thay đổi phạm vi ứng dụng đã thúc đẩy thị trường tiêu thụ LPG phát triển
nhanh chóng. Theo số liệu thống kê của Hiệp hội Gas Việt Nam, trong vòng
hơn 10 năm qua thị trường tiêu thụ LPG ở Việt Nam tăng trưởng với tốc độ
trung bình khoảng 15%/năm.
Bảng 1.1. So sánh thị trƣờng LPG Việt Nam

với thị trƣờng LPG tại Thailand tại thời điểm năm 2007 [11]
Dân
Sản lƣợng
số
kinh doanh
(triệu)
(tấn)
Việt
Nam
Thailand

Nội địa
(tấn)

Nhập
khẩu
(tấn)

Xuất
khẩu
(tấn)

Tổng số
doanh
nghiệp

82

890.000


270.000

620.000

0

70

63

3.000.000

2.900.000

0

100.000

34

18


Hiện tại, thị trường tiêu thụ LPG ở Việt Nam có cơ cấu như sau: khu
vực dân dụng và thương mại chiếm khoảng 63%; công nghiệp chiếm khoảng
34- 35%, giao thông vận tải khoảng 1- 2%. Theo dự báo của Petrolimex, thị
trường tiêu thụ LPG ở Việt Nam sẽ tăng trưởng với tốc độ khoảng 9%- 12%
trong vòng 5 năm tới.
Hoạt động kinh doanh LPG trên thị trường đa dạng và phong phú. Phần
lớn các doanh nghiệp tham gia kinh doanh LPG trên thị trường đều là những

doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo thống kê sơ bộ của Hiệp hội Gas Việt Nam,
có khoảng 25% số doanh nghiệp kinh doanh LPG trên thị trường có vốn đầu
tư lớn (trên 300 tỷ đồng), cơ sở vật chất kinh doanh LPG tương đối hoàn
chỉnh, đồng bộ, bao gồm: cảng và cầu cảng nhập khẩu, kho tồn chứa LPG,
trạm nạp LPG, chai LPG thuộc sở hữu để nạp LPG vào chai, có các cửa hàng
bán lẻ LPG, phương tiện vận chuyển chuyên dùng, hệ thống phân phối LPG
được bố trí tại các địa phương trong toàn quốc. Nhiệm vụ chủ yếu của các
doanh nghiệp này là tổ chức nhập khẩu bảo đảm đủ nguồn LPG cung ứng cho
thị trường trong mọi điều kiện; bảo đảm định mức dự trữ lưu thông theo quy
định; tổ chức bán buôn, bán lẻ cho các nhu cầu thông qua hệ thống phân phối
trực thuộc. 75% số doanh nghiệp còn lại là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn
đầu tư thấp, cơ sở vật chất kinh doanh: nghèo nàn, chắp vá, không đồng bộ;
chủ yếu làm đại lý cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoặc nhà máy sản
xuất chế biến LPG.
Kinh doanh LPG trên thị trường tập trung chủ yếu vào một số khâu:
xuất khẩu, nhập khẩu, sản xuất, chế biến, phân phối LPG, dịch vụ LPG và đại
lý không tách rời hoạt động phân phối trên thị trường.
1.1.2.1. Xuất khẩu, nhập khẩu LPG
Hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu LPG có vai trị đặc biệt quan trọng
trong việc bảo đảm đủ nguồn LPG cung ứng cho các nhu cầu thị trường, nhất

19


là trong điều kiện sản xuất LPG trong nước mới đáp ứng được khoảng 31%
nhu cầu thị trường; còn lại phải nhập khẩu từ thị trường nước ngoài trong điều
kiện giá LPG thế giới thường xuyên biến động theo chiều hướng tăng cao.
Nhu cầu nhập khẩu LPG của Việt Nam trong tương lai vẫn chiếm 60%-70%
nhu cầu của cả nước. Như vậy, hệ thống kho cảng hiện nay phải nâng cơng
suất sức chứa, phải có các kho cảng lớn có sức chứa trên 60.000 đến 80.000

tấn/kho để có thể tiếp nhận LPG từ các tàu lớn từ thị trường Trung Đông và
các nguồn khác phục vụ cho sản xuất kinh doanh, điều đó cần phải có sự quy
hoạch hệ thống kho cảng LPG cấp quốc gia và các công ty kinh doanh LPG
cần phải có sự hợp tác, liên kết để có một thị trường LPG ổn định, đủ mạnh
cho việc đảm bảo an ninh năng lượng, đồng thời đủ tiềm lực để cạnh tranh với
các công ty khác trong khu vực và trên thế giới.
Qua thanh tra cho thấy, cả nước có khoảng 30 doanh nghiệp tham gia
nhập khẩu LPG, trong đó có hơn 20 doanh nghiệp nhập khẩu thường xuyên,
bình quân mỗi doanh nghiệp nhập khẩu vào khoảng 30.000 tấn/năm. Tuy
nhiên, do Nhà nước chưa có quy hoạch tổng thể đối với các doanh nghiệp đầu
mối kinh doanh LPG, dẫn đến có quá nhiều doanh nghiệp đầu mối nhưng có
quy mơ nhỏ, khơng đầu tư xây dựng bồn bể nên năng lực tồn chứa yếu, rất ít
cơng ty có kho chứa 1.000 tấn.
Do năng lực yếu, nên phải nhập khẩu LPG theo từng chuyến nhỏ lẻ với
chất lượng khơng được kiểm sốt, từ nhiều nhà cung cấp khác nhau; khối
lượng, giá mua hoàn toàn phụ thuộc vào giá LPG thế giới và nhà cung cấp,
hơn nữa giá LPG thế giới tăng nhanh dẫn đến giá LPG nhập khẩu của các đơn
vị tăng lên và biến động nhiều. Cũng do năng lực yếu, các doanh nghiệp hoàn
toàn thụ động trước thị trường, mỗi khi giá thế giới tăng là doanh nghiệp lập
tức tăng giá đẩy bất lợi về phía người tiêu dùng. Thậm chí, do thị trường có
nhiều doanh nghiệp nhưng năng lực hạn chế nên các biện pháp bình ổn giá

20


×