Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

TIỂU LUẬN sự RA đi tìm ĐƯỜNG cứu nước và QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG của NGUYỄN ái QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (922.41 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SEN

TIỂU LUẬN

SỰ RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC VÀ QUÁ
TRÌNH HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG CỦA
NGUYỄN ÁI QUỐC

LỚP- MƠN HỌC: 1802_2131–TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 08 năm 2021



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ___________________________________________________________ 4
I) Đôi nét về bộ phim tài liệu “Nguyễn Ái Quốc - Ẩn số từ nước Pháp” _________ 4
II) Kết cấu của bài tiểu luận: ___________________________________________ 4
NỘI DUNG _________________________________________________________ 5
I) Hành trình ra đi tìm đường cứu nướ c và quá trình hoạt động cách mạng
của Nguyễn Ái Quốc: ________________________________________________ 5
1. Sự ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc: _____________________ 5
2.Quá trình hoạt động cách mạng sôi nổi của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp
từ năm 1919 đến năm 1923: __________________________________________ 7
3. Ý nghĩa lịch sử của việc Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước: ______ 17
II) Cảm nghĩ của bản thân: ___________________________________________ 20
III) Bài học cho thế hệ trẻ ngày nay: ____________________________________ 22
KẾT LUẬN ________________________________________________________ 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO ____________________________________________ 26

3




MỞ ĐẦU

I) Đôi nét về bộ phim tài liệu “Nguyễn Ái Quốc - Ẩn số từ nước Pháp”
Bộ phim tài liệu “Nguyễn Ái Quốc - Ẩn số từ nước Pháp” được phát sóng
trong khung giờ VTV đặc biệt đã hé lộ nhiều thơng tin tuyệt mật về q trình
hoạt động cách mạng của Người tại Pháp từ năm 1919 đến năm 1923 qua
hơn 9000 trang tư liệu được ghi chép tỉ mỉ và lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ
quốc gia về các nước thuộc địa và Trung tâm lưu trữ Cảnh sát Paris. Có thể
nói đây là giai đoạn hoạt động cách mạng vô cùng sôi nổi của Nguyễn Ái
Quốc trong suốt 30 năm bôn ba bên xứ người và cũng là giai đoạn vô cùng
gian khổ, khắc nghiệt.
Quá trình hoạt động Cách mạng của Nguyễn Ái Quốc đã được tái hiện một
cách sống động thông qua bộ phim, bên cạnh đó nhiều thước phim tài liệu
quý giá cũng được lồng ghép, đan xen vào những cảnh diễn xuất giúp người
xem dễ dàng hình dung và hiểu rõ hơn về hành trình bơn ba, hoạt động cách
mạng của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp. Ngồi ra, bộ phim cịn ghi lại cuộc gặp
gỡ và trao đổi với các nhà nghiên cứu, các chuyên gia về lịch sử tại Pháp như
nhà sử học Daniel Hémery, nhà sử học Alain Ruscio, giáo sư Pierre
Journoud,... tất cả đều bày tỏ sự ngưỡng mộ với người thanh niên u nước
Nguyễn Ái Quốc.
Với lịng kính yêu và biết ơn sâu sắc đến vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt
Nam, sau khi xem xong bộ phim tài liệu “Nguyễn Ái Quốc - Ẩn số từ nước
Pháp”, chúng tơi sẽ phân tích và đưa ra cảm nghĩ cá nhân dưới góc nhìn của
một người trẻ về hành trình ra đi tìm đường cứu nước và quá trình hoạt động
cách mạng của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp qua bài tiểu luận sau đây.
II) Kết cấu của bài tiểu luận:
-Mở đầu, nội dung, kết luận và tài liệu tham khảo.


4


NỘI DUNG
I) Hành trình ra đi tìm đường cứu nước và quá trình hoạt động cách
mạng của Nguyễn Ái Quốc:
1. Sự ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc:
Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp sang xâm lược Việt Nam. Dưới ách thống
trị tàn bạo của thực dân Pháp, đời sống của các tầng lớp nhân dân trong nước
ngày càng bị bần cùng hoá, nhiều phong trào yêu nước ở Việt Nam đã nổ ra
khắp nơi với nhiều khuynh hướng khác nhau. Đó là các cuộc nổi dậy chống
Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương, các cuộc nổi dậy của nơng dân do Hồng
Hoa Thám đứng đầu kéo dài hơn 30 năm, các phong trào khác như Đông Du,
Đông Kinh Nghĩa Thục,... của các sĩ phu yêu nước chịu ảnh hưởng của tư
tưởng dân chủ tư sản như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và các phong trào
hàng đầu khác. Tuy diễn ra mạnh mẽ ở khắp mọi nơi, nhưng tất cả các phong
trào này đều thất bại do chưa có phương thức hay phương pháp đấu tranh
đúng đắn, phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế lúc bấy giờ.
Lúc đó, có một thanh niên ưu tú tên Nguyễn Ái Quốc đã rời mảnh đất Việt
Nam để ra đi tìm đường cứu nước, mang trong mình với ước vọng giải phóng
dân tộc, đem tự do về cho dân tộc thân yêu của mình. Sinh ra và lớn lên trong
một gia đình nhà Nho nghèo yêu nước, phải chứng kiến bao cảnh đau thương,
cảnh nước mất, nhà tan, Nguyễn Ái Quốc đã quyết chí ra đi, mang trong mình
khát vọng giải phóng dân tộc. Trong tác phẩm “Những mẩu chuyện về đời
hoạt động của Hồ Chủ tịch”, Trần Dân Tiên đã viết: “Người thiếu niên
ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc
bấy giờ, Anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh tham
gia cơng tác bí mật, nhận cơng việc liên lạc." (1)
Tuy nhiên, đi đâu và làm gì để tìm ra con đường cứu nước thành cơng ln
là vấn đề hết sức khó khăn. Nguyễn Ái Quốc đã tiếp xúc với những tư tưởng

lớn của phương Đơng, tiếp thu văn hóa truyền thống và tư bản của Trung
Quốc, từng bước đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Bản thân vốn là một
người thơng minh, ham học hỏi, tư duy độc lập và nhạy bén với những điều
mới lạ, Người đã bị hấp dẫn bởi câu khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”
nên đã quyết tâm tìm hiểu rõ ngọn ngành, sâu xa nhất của những lời hoa mỹ
trong đất nước Pháp - nơi sinh ra khẩu hiệu này. Mục đích của chuyến đi này,
hơn 10 năm sau, năm 1923, Người đã trả lời nhà thơ, nhà báo người Nga
Ôxip Manđenxtam rằng: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe
ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào
cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế… nhưng trong những trường học

5


cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người như dạy con vẹt. Chúng giấu
không cho người nước tôi xem sách báo. Không phải chỉ sách của các
nhà văn mới, mà cả Rútxơ và Mơngtexkiơ cũng bị cấm. Vậy thì phải
làm thế nào bây giờ? Tơi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài.”(2) Tư
tưởng tiến bộ của cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 cũng như những
thành tựu của nền văn minh tiến bộ của Pháp và các nước châu Âu khác
khiến Người muốn đặt chân tới vùng đất mới để học tập và tiếp thu
những tư tưởng hiện đại. Và cuối cùng, đất nước mà Người chọn để tìm
ra tư tưởng đó chính là nước Pháp, đây là điểm đến đầu tiên trên con
đường ra đi để cứu đất nước của mình thốt khỏi cảnh lầm than. Hành
trang lúc bấy giờ của Người chỉ là những kiến thức về văn hóa phương
Đơng và phương Tây, một lịng u nước mãnh liệt và lòng quyết tâm,
mong muốn dân tộc Việt Nam được giải phóng khỏi ách đơ hộ.
Để thực hiện được nguyện vọng tới Pháp thì ngày 02/06/1911, Người
đã tới bến Nhà Rồng để xin việc làm tại đó nhằm mục đích là sẽ lên
được tàu và di chuyển tới Pháp. Tới ngày hôm sau, Nguyễn Ái Quốc đã

được nhận công việc phụ bếp trên con tàu buôn Amiral Latouche
Tréville. Đến ngày 05/06/1911, Người đã đổi tên thành Văn Ba, theo
con tàu Amiral Latouche Tréville rời khỏi đất nước Việt Nam thân yêu,
xuất phát tại bến Nhà Rồng để bắt đầu cuộc hành trình đến Pháp với tư
cách là một người lao động chân tay. Vào thời điểm đó, khơng ai biết
rằng vận mệnh của dân tộc Việt Nam đã gắn liền với quyết định ra đi
của một con người mà lịch sử đã chứng tỏ là sáng suốt phi thường.

Ảnh 1: Bến nhà Rồng- VNTrip.vn
Trong cuộc triệu tập để lấy lời khai do tình báo Pháp, khi người tình
báo hỏi Nguyễn Ái Quốc rằng: “Lý do ông tới Pháp để làm gì?”, Người
đã trả lời rất ngắn gọn, giọng đanh thép: “Tơi tới Pháp là địi những
6


quyền tự do mà chúng tôi phải được hưởng”. Khi được hỏi thêm: “Vậy
chương trình của ơng sẽ ra sao?”, Người đã thẳng thắn trả lời: “Cứ tiến về
phía trước tùy theo sức mạnh của chúng tôi”.
Nguyễn Ái Quốc đã một mình bơn ba nơi đất khách, nhưng vẫn mang theo
trong mình dịng máu con cháu Việt Nam, ln nhớ về cội nguồn và lấy sức
mạnh chung của cả dân tộc.
Cuối năm 1917, nhân lúc Cách mạng tháng Mười ở Nga vừa bùng nổ thành
công, Nguyễn Ái Quốc từ Anh trở về Pháp, mở ra một hướng đi mới trong
lịch sử nhân loại. Sự việc này đã ảnh hưởng rất nhiều đến mạch cảm xúc và
nhận thức của Người. Vào đầu năm 1919, Người gia nhập Đảng Cộng sản
Pháp, đây là đảng chính trị duy nhất ở Pháp bày tỏ mối quan tâm về số phận
của người dân các nước thuộc địa.
2. Q trình hoạt động cách mạng sơi nổi của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp
từ năm 1919 đến năm 1923:
Giai đoạn 1919

Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia các hoạt động chính trị - xã hội ở châu
Âu, đặc biệt là ở Paris - Pháp. Đây là một sự khác biệt rất lớn, rất căn bản
giữa Người và đại đa số những người Việt Nam ở Pháp khi đó. Ngay khi vừa
đến Paris, Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến và tham gia sinh hoạt tại các câu lạc
bộ - đang xuất hiện ngày càng nhiều ở Paris. Một trong những câu lạc bộ
chính trị mà người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc tham gia lần đầu
tiên, ngay khi vừa đặt chân đến Paris là Club du Faubourg, một câu lạc bộ
của Đảng Xã hội Pháp do Léo Poldes thành lập, ở ngay gần đồi Montmartre
- nơi Người đã tìm được chỗ tạm trú trong một khách sạn nhỏ rất đỗi bình dị.
(3)
Năm 1918, chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc. Đến năm 1919, Hội
nghị Hòa Bình được tổ chức tại Versaille, ngoại ơ của Paris; 27 quốc gia
thắng trận và trong đó có nước Pháp đã tập hợp bàn thảo về việc chia lợi
nhuận và sắp đặt trật tự quan hệ quốc tế. Lúc đó, Tổng thống Mỹ, Wilson đã
đưa ra tuyên bố về việc “thành lập liên minh các dân tộc để đảm bảo độc lập
cho các dân tộc trên thế giới dù lớn hay nhỏ”. Điều này cũng đã thu hút sự
quan tâm của rất nhiều người dân ở các nước thuộc địa và bao gồm cả Việt
Nam.
Tháng 02 năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Trong
bối cảnh này, vào ngày 18/06/1919, một bài viết xuất hiện công khai trên báo
Nhân Đạo với bút danh là Nguyễn Ái Quốc cùng sự xuất hiện của cái tên An

7


Nam, cái tên ấy đã gây xôn xao dư luận lúc bấy giờ vì nó q xa lạ với
hệ thống chính trị của Pháp.Khi đó, nhiều người và nhiều dân tộc khác
nhau đã bị mê hoặc bởi những lời tuyên bố rộng rãi của Tổng thống Hoa
Kỳ về quyền tự quyết của các dân tộc, nhưng Nguyễn Ái Quốc đã thay
mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp, cùng với Phan Châu

Trinh, Phan Văn Trường đã soạn thảo Bản Yêu sách của nhân dân An
Nam (Bản Yêu sách tám điểm) gửi đến Hội nghị Versaille. Bản Yêu
sách gồm tám điểm, trong có điểm nổi bật nhất là “địi Chính phủ các
trong Hội nghị phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình
đẳng của dân tộc Việt Nam”. Bằng chính sự kiên định, cơng khai và
hợp pháp, Người đã mang vấn đề chính trị ở Việt Nam lần đầu tiên ra
quốc tế đòi những quyền cơ bản, chính đáng cho dân tộc Việt Nam.

Ảnh 2: Bảng Yêu sách- Baotanglichsu.vn
Bản Yêu sách không được chấp nhận nhưng nó được xem là điểm khởi
đầu của một hành trình đấu tranh cách mạng. Điểm khởi đầu đó đã gây
chấn động cả nước Pháp và trên thế giới. Ngay sau khi Bản u sách
được cơng bố, chính quyền Pháp và cả dư luận bắt đầu tự hỏi rằng
Nguyễn Ái Quốc là ai? Bộ thuộc địa đã tiến hành điều tra thông tin về
người thanh niên trẻ này, họ yêu cầu phía Bộ Cơng an Pháp phối hợp
tiến hành một cuộc điều tra bí mật lựa chọn những mật thám xuất sắc
nhất nhằm tìm ra thơng tin cũng như lý do mà Người đến Pháp. Mặc
dù, đã thu thập được những thơng tin cơ bản về thân thế của Người
nhưng phía Chính quyền vẫn nhiều lần triệu tập Người đến để trực tiếp
phỏng vấn. Dựa trên những tài liệu về các báo cáo mà mật thám đã cung
cấp về Nguyễn Ái Quốc, ngày 08/09/1919, Người đã tới Bộ thuộc địa
để tham gia một cuộc đối thoại, thẩm vấn trực tiếp với Bộ trưởng bộ
thuộc địa, Albert Sarraut là người đứng đầu bộ máy cai trị Đơng Dương
để xem rằng mình có thể đàm phán được với ông ta hay không. Người
8


hy vọng Chính quyền Pháp sẽ chấp nhận những đề nghị của mình về vấn đề
thuộc địa. Sarraut đã sử dụng chiến thuật một mặt đàn áp những người theo
chủ nghĩa cộng sản, mặt khác lại tìm cách lơi kéo họ về phía mình nhằm lơi

kéo Nguyễn Ái Quốc nhưng bất thành. Trong q trình đối thoại người đã
nói “Nếu nước Pháp trả lời đất nước cho chúng tôi, ông sẽ thấy là chúng tôi
sẽ biết tự cầm quyền”. Chiến thuật của Sarraut có thể thành cơng với các nhà
cách mạng khác, nhưng đối với một người con yêu nước như Nguyễn Ái
Quốc “thà được sống trong một căn phòng nhỏ trong ngõ, chứ không cần một
căn biệt thự do thực dân Pháp mua chuộc”. Nguyễn Ái Quốc đã rất tự tin khi
đối mặt với các quan chức Pháp ở mỗi buổi thẩm vấn vì Người đã nắm vững
được những quy định về luật pháp và những bằng chứng rõ ràng cho mỗi lời
nói cũng như bài viết của mình lên án chính sách khai thác thuộc địa thực
dân Pháp.
Ngồi việc theo dõi tư tưởng và kiểm soát mọi hoạt động chính trị của
Nguyễn Ái Quốc, những cơng chức Pháp còn ghi lại đời sống thường nhật
của người thanh niên trẻ này. Cuộc sống của Người tại Pháp vô cùng khốn
khó, sống trong một điều kiện vơ cùng khó khăn, chỉ ở tại một căn phòng nhỏ
chật hẹp ở trong một khu phố tại Paris, Người phải dùng chung nhà vệ sinh
cơng cộng, khơng lị sưởi và vào mùa đơng rất lạnh. Cuộc sống kham khổ
liên tiếp trong nhiều ngày đã khiến Nguyễn Ái Quốc đổ bệnh và phải nhập
viện, dù vậy Người vẫn thốt khỏi sự kiểm sốt, dị hỏi của các mật thám.
Cuối năm 1919, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu khởi thảo cuốn sách đầu tiên của
mình bằng tiếng Pháp với tiêu đề “Les Opprimés” (Những người bị áp bức).
Đến khoảng giữa tháng 3-1920, Nguyễn Ái Quốc cơ bản đã hồn thành về
cơng trình đầu tay của mình. Người cũng lao động quên mình để dành dụm
được khoảng 300 francs cho việc xuất bản cuốn sách. Nhưng một đêm, Người
trở về nhà sau một ngày dài lao động cực nhọc, bản thảo cơng trình đã biến
mất. Kẻ đã đánh cắp tập bản thảo không thể là ai khác ngoài những viên mật
thám đang bám sát từng ngày. (3)
Giai đoạn1920-1921
Từ ngày 19/07 đến ngày 07/08/1920 tại Pêtơrôgrát và Mátxcơva, Đại hội II
Quốc tế Cộng sản diễn ra với 217 đại biểu của 67 tổ chức ở 37 nước tham dự.
Đại hội được tổ chức trong bối cảnh ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười

Nga đã thúc đẩy cao trào cách mạng thế giới đã đạt tới đỉnh cao, một loạt
Đảng Cộng sản ra đời. Đại hội đã thông qua các văn kiện quan trọng như Đề
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa; Điều kiện kết nạp vào Quốc tế
Cộng sản; Vấn đề thành lập và củng cố các Đảng Cộng sản kiểu mới... Đề
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa xác định lập trường giai cấp vô
sản với nông dân và nhân dân bị áp bức ở các thuộc địa, xác định ''cương lĩnh
ruộng đất của chun chính vơ sản''. Đề cương kêu gọi Đảng Cộng sản các
nước giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc và với sự giúp đỡ của các nước

9


vơ sản tiên tiến, các nước lạc hậu có thể đi lên Chủ nghĩa xã hội và bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Sau Đại hội II của Quốc tế
Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ là Đảng viên của Đảng Xã hội
Pháp. Báo L’Humanité (Nhân đạo) số ra ngày 16 và 17/07/1920 đã đăng
toàn văn Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa của V.I.Lênin. Bản Luận cương đã ngay lập tức thu hút được
sự chú ý đặc biệt của Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc đã đọc đi đọc
lại văn kiện này qua lăng kính chủ nghĩa yêu nước chân chính, và thấy
rằng Quốc tế Cộng sản đã thừa nhận việc đấu tranh giành độc lập dân
tộc là nguyện vọng tha thiết của nhân dân Việt Nam và các dân tộc
thuộc địa khác. Nói về khoảnh khắc bắt gặp chân lý của cuộc đời,
Nguyễn Ái Quốc viết: “Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị
khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tơi cũng hiểu
được phần chính. Luận cương của V.I Lênin làm cho tôi rất cảm động,
phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tơi vui mừng đến phát khóc lên.
Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước quần
chúng đơng đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết
cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó, tơi hồn

tồn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III”. Người tìm thấy ở đó con
đường đi đúng đắn để giải phóng dân tộc và đất nước khỏi ách thực dân.
Kể từ đó, Người hồn tồn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba.
Đại hội lần thứ Nhất các dân tộc phương Đông diễn ra nhằm phổ cập
các nghị quyết của Đại hội II Quốc tế Cộng sản và tư tưởng đồn kết
phương Tây vơ sản và phương Đông bị áp bức vào tháng 8 và tháng
9/1920. Tư tưởng đó được thể hiện rõ trong khẩu hiệu lần đầu tiên trong
Đại hội: Vô sản của tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết
lại. Biên bản của Đại hội đã thu hút sự chú ý của tất cả những ai quan
tâm đến phương Đơng, trong đó có Nguyễn Ái Quốc. Có thể nói, sau
Luận Cương thì những sự kiện chính trị trên đã góp phần củng cố thêm
niềm tin vững chắc vào Lênin, vào Quốc tế Cộng sản, và củng cố thêm
lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc.
Từ đó, Lênin và Quốc tế III là nguồn động lực tinh thần cho Nguyễn Ái
Quốc tiếp bước vững chắc trên con đường đã được định hướng rõ ràng.
Với tinh thần ấy, Nguyễn Ái Quốc vững tin đến Đại hội lần thứ XVIII
của Đảng Xã hội Pháp, khai mạc ngày 25/12/1920 tại thành phố Tua Đại hội quyết định bước chuyển biến căn bản theo đường lối của Quốc
tế Cộng sản. Nguyễn Ái Quốc là người dân thuộc địa và người Đông
Dương duy nhất trong đoàn đại biểu các Đảng bộ thuộc địa gồm 8
người, trong đó 7 đại biểu khác của các thuộc địa đều là người Pháp.
Việc Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và bỏ
10


phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản là sự kiện có ý nghĩa vơ cùng to lớn, đánh
dấu bước ngoặt trong cuộc đời và sự nghiệp của Người. Lần đầu tiên trong
lịch sử thế giới hiện đại, một đại diện của giai cấp công nhân và dân tộc thuộc
địa tham gia sáng lập Đảng tiên phong của giai cấp công nhân ở một đế quốc
lớn đang áp bức dân tộc mình. Thơng qua Nguyễn Ái Quốc, giai cấp cơng
nhân, nhân dân lao động Việt Nam và giai cấp công nhân Pháp hợp thành

một mặt trận chống chủ nghĩa thực dân Pháp. Điều này còn mang ý nghĩa
tượng trưng cho xu hướng cách mạng thế giới - tinh thần đoàn kết chiến đấu
giữa giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới theo khẩu hiệu
chiến lược của Quốc tế Cộng sản.

Ảnh 3: Đại hội lần XVIII- baotanglichsuqg.vn
Lịch sử là minh chứng cho thấy có rất nhiều con đường đến với Chủ nghĩa
Cộng sản và trở thành người Cộng sản. Nguyễn Ái Quốc đã trở thành người
Cộng sản theo con đường riêng của mình. Người đã vượt qua mn vàn khó
khăn, trở ngại để tìm hiểu, khảo nghiệm chính cuộc sống của các dân tộc
trên thế giới và trực tiếp tham gia các phong trào công nhân của chính quốc
là một nước có cơng nghiệp rất phát triển. Người từ một người dân thuộc
địa trong hoàn cảnh phong trào công nhân chưa đủ khả năng phát triển, ảnh
hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin chưa rọi tới, nhưng cùng với một lý tưởng
chân chính trở thành người người Cộng sản với lòng yêu nước nồng nàn.
Tiêu chuẩn cao nhất cho sự lựa chọn và định hướng của Người là kiên
quyết đứng về phía học thuyết và tổ chức cách mạng nào thực sự quan tâm
đến cuộc sống và quyền lợi của các dân tộc bị áp bức, để bênh vực, ủng hộ
và chỉ ra con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc. Tiêu chuẩn hết sức
thiết thực đó của một thanh niên yêu nước ở một nước thuộc địa lại phù hợp
với chân lý của thời đại khi mà cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành
một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Đây chính là điểm gặp gỡ có ý
nghĩa then chốt giữa con người Nguyễn Ái Quốc, dân tộc Việt Nam
với Chủ nghĩa Cộng sản, với thời đại Lênin.Việc bỏ phiếu tán thành
11


Quốc tế Cộng sản đã đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong cuộc
đời và sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc - từ Chủ nghĩa yêu nước đến
Chủ nghĩa Cộng sản. Đây cũng là sự khởi đầu một bước ngoặt căn bản

trong lịch sử và sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Thực
hiện bước ngoặt đó, Người đã hồn tất chặng đường đầu của hành
trình cứu nước, đã tìm ra chân lý của thời đại và bắt đầu cuộc đấu
tranh đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta vào quỹ đạo
cách mạng vô sản thế giới bằng việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin
về nước, chuẩn bị từng bước dần dần về chính trị, tư tưởng và tổ chức
cho sự ra đời một Đảng Mác-xít ở Việt Nam - nhân tố cơ bản, đầu tiên
đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng nước ta.
Giai đoạn 1922-1923
Năm 1922: năm mang nhiều dấu ấn bởi những hoạt động cách mạng
của Nguyễn Ái Quốc ở Pháp. Đánh dấu bước trưởng thành và nâng
cao về chính trị của Người ở trong nước và quốc tế.
Cùng với những người yêu nước thành lập
Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa, dưới
sự trợ giúp của Đảng cộng sản Pháp,
Nguyễn Ái Quốc và những người thành
lập nhận thấy cần phải đưa ra một tờ báo
làm cơ quan ngôn luận của Hội. Việc tự do
ngơn luận, hoạt động chính trị ở Pháp đã
tạo điều kiện để Nguyễn Ái Quốc cùng với
những người bạn của mình thực hiện vấn
đề này. Để bàn về vấn đề này, Nguyễn Ái
Quốc và những người đứng đầu trong Hội
liên hiệp tổ chức các buổi họp bàn. Ngày
19/02/1922, Hội họp bàn ở số nhà 28 Đại
lộ Arago. Ngày 26/02/1922, tổ chức họp tại 172 đường Legendre. Vì
những điều kiện khó khăn Nguyễn Ái Quốc, Người đã phải làm rất
nhiều nghề như thợ rửa ảnh hoặc viết báo,… nhưng nguồn thu nhập vẫn
rất eo hẹp.
Người đã luôn tiết kiệm hết sức có thể khi sống giữa lịng thủ đơ Paris

đắt đỏ. Ngay cả khi đi tham dự Hội nghị của Đảng cộng sản Pháp cuối
năm 1921 tại Mácxây, Người cũng phải nhờ vào tiền giúp đỡ của những
người bạn thân thiết. Việc khó khăn cần giải quyết đầu tiên chính là vốn
làm báo. Để giải quyết vấn đề này Nguyễn Ái Quốc cùng với những
người trong Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa thành lập Hợp tác xã ra và
Điều lệ để gây vốn làm báo. Cuộc họp đã thông qua Điều lệ của Hợp tác xã
do Nguyễn Ái Quốc trình bày.
12


·

Điều lệ gồm 25 khoản xác định.

·

Mỗi cổ phần đóng 100 francs làm vốn.

·

15.000 francs để ra tờ báo Le Paria.
Nguyễn Ái Quốc góp viết Lời kêu gọi cổ động: “...Các bạn ở chính quốc! Các
đồng chí ở thuộc địa! Vì lợi ích của cơng lý, sự thật và tiến bộ…Hãy gia nhập
Hội Hợp tác người cùng khổ của chúng tôi hoặc ngay từ hôm nay hãy gửi
mua dài hạn báo
Người cùng khổ của chúng tôi, hoặc tốt hơn, nếu có thể, đồng chí làm cả hai
việc một lúc... Cố gắng lên một chút để giúp đỡ chúng tôi, các bạn và các
đồng chí sẽ đi theo sự nghiệp của hịa bình và nhân loại” (1). Nguyễn Ái
Quốc cùng với những người sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa ra sức kêu gọi
sự giúp đỡ, ủng hộ từ mọi người.

Bên cạnh đó, Nguyễn Ái Quốc cùng với những người sáng lập quyết định lấy
tên tờ báo là “Người cùng khổ”- Le Paria để phản ánh chính xác hồn cảnh
sống của các dân tộc bị áp bức bóc lột và miệt thị. Với kinh nghiệm làm báo
trong thời gian hoạt động trong Đảng xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc được cử
làm chủ bút tờ báo phụ trách biên tập, viết bài và xuất bản tờ báo. Ngày
01/04/1922, số đầu tiên của Người cùng khổ ra mắt độc giả. Tờ báo chỉ có
một trang, khổ vừa phải.
Nguyễn Ái Quốc là người viết nhiều bài nhất. Trong một năm Người đã viết
20 bài. Nội dung chủ yếu tố cáo quyết liệt những hành động vơ cùng tàn bạo
của chính quyền thực dân tại thuộc địa nhất là ở Đơng Dương. Bằng ngịi bút
sắc bén, Nguyễn Ái Quốc vẽ lên một bức tranh toàn cảnh về chế độ thuộc địa
của thực dân Pháp ở Đông Dương: “Chủ nghĩa tư bản Pháp đã vào Đông
Dương...chúng tơi khơng những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã, mà
còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm... Nhà tù nhiều hơn trường học,
lúc nào cũng mở cửa và chật ních người...Ở Đơng Dương, bọn thực dân tìm
mọi cách để đầu độc chúng tơi bằng thuốc phiện và làm cho chúng tôi đần
độn bằng rượu”(2). Người vạch mặt chỉ tên những kẻ đại diện cho nước Pháp,
cho nền “công lý” cai trị xứ Đông Dương là Bộ trưởng như A.Xaro, các quan
Toàn quyền như M.Méclanh, M.Lông, P.Bôđoanh, những quan Thống đốc
như Utơrây, những viên Công sứ như ĐácLơ đến những viên quan và viên
chức hạng bét như Puốc Xi Nhông, Béc, Brét, Dep Phi, Angti, Têa,
Budino,v.v… Để minh chứng sinh động hơn cho bài viết, Người cịn minh
họa bằng những hình ảnh qn lính thực dân đang xử bắn đồng bào một
cách dã man.

13


Nguyễn Ái Quốc có vai trị vơ cùng to lớn đối với tờ báo Le Paria. Trong
hồi ức của mình, luật sư Mác Clanhvin Blôngcua, người Goađơlúp - Uỷ

viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp thuộc địa đã xác nhận: “Nguyễn Ái
Quốc đã đóng góp rất nhiều cho tờ báo… Tất cả những bài và tranh ký
tên Nguyễn Ái Quốc trên báo Le Paria mang một màu sắc đặc biệt: đó
là tinh thần đấu tranh cách mạng triệt để và quyết tâm chống chủ nghĩa
thực dân. Xem, đọc bài và tranh đó người ta sẽ thấy rõ tác giả có một
tinh thần tiến công rất chủ động và rất thông minh'' (3).
Lúc đầu, Nguyễn Ái Quốc cùng với những người sáng lập đã đưa các
tờ báo về qua đường bưu phẩm. Đây là con đường cơng khai đưa báo
chí từ Pháp về Việt Nam. Số lượng báo đưa về nước ngày càng nhiều
đã chứng tỏ sự ảnh hưởng tờ Le Paria ngày lớn mạnh. Nội dung của nó
đả kích mạnh mẽ chế độ thực dân Pháp, tuyên truyền chủ nghĩa Mác –
Lênin, nên tờ báo được đón nhận rất tích cực. Sự xuất hiện Người cùng
khổ ở các đất nước thuộc địa ngày càng khiến thực dân Pháp lo sợ. nên
ngay lập tức có lệnh cấm khơng cho tờ báo vào các thuộc địa. Ở Việt
Nam, dù thực dân Pháp ra sức cấm đoán, bắt bớ những ai đọc báo,
nhưng ''…anh em cơng nhân Nam Bộ đã đón tờ báo ấy một cách tha
thiết và chuyền tay nhau đọc đến nỗi mòn cả giấy, cả chữ''. (4) Nhưng
Nguyễn Ái Quốc tìm mọi cách bí mật để chuyển báo về nước và vào
các thuộc địa khác mà các thủy thủ bản địa u nước là lực lượng đơng
đảo và nhiệt tình trong việc chuyển tài liệu, thư từ, báo chí về nước. Rõ
ràng là nội dung chủ yếu nhất trong bài viết của Nguyễn Ái Quốc ở thời
kỳ này nhằm chuẩn bị bước đầu về mặt ý thức cho sự vùng dậy của dân
tộc thuộc địa nói chung và dân tộc ta nói riêng trong tương lai, hướng
cuộc đấu tranh của dân tộc đúng vào kẻ thù chính là thực dân đế quốc.
Như vậy sức lan tỏa của báo Le Paria và tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc
càng lớn và mạnh mẽ.
Ngay trong khoảng thời gian đầu năm 1922, Nguyễn Ái Quốc tích cực
hoạt động, tham gia các câu lạc bộ, dự các buổi nói chuyện chính trị.
Nguyễn Ái Quốc ghi tên tham gia vào nhóm Club de Faubourg (Câu
lạc bộ ngoại ơ), một tổ chức văn hóa chính trị, du lịch. Tại đây Người

có dịp gặp gỡ nhiều văn nghệ sĩ tên tuổi thời ấy; đồng thời được tham
gia những sinh hoạt văn hóa như đi xem triển lãm, xem kịch, xem hát…
Bên cạnh đó, Nguyễn Ái Quốc cịn tham gia tổ chức La Muse Rouge
(Nhóm Thơ đỏ) của phe cánh tả tại Pari. Những hoạt động này giúp
Nguyễn Ái Quốc có thêm nguồn kiến sâu rộng, hiểu biết hơn nữa về
lịch sử, văn hóa nước Pháp cùng như châu Âu. Những hiểu biết này, giúp
người có cái nhìn đúng đắn, tồn diện và bao qt hơn về văn hóa Pháp. Từ
đó, Người chắt lọc những tinh hoa phù hợp với văn hóa dân tộc.
14


Bên cạnh những bài viết đăng trên Le Paria, Nguyễn Ái Quốc đã viết những
bài đăng trên một số báo khác: Phong tục thực dân (Moeurs coloniales) và
Thư ngỏ gửi ông Sarraut, Bộ trưởng Bộ thuộc địa (Lettre ouverte à M.Alber
Sarraut, Ministre des Colonies) được đăng trên báo Journal du Peuple số 16
ra ngày 25/07. Thư ngỏ gửi Khải Định đăng trên tờ Le Journal de Peuple số
9 tháng 08/1922. Bài viết Đời sống đắt đỏ ở thuộc địa (La vie chere coloniale)
ra ngày 20/8. Nội dung của những bài báo này nhằm vạch bộ mặt thật của tên
vua bù nhìn Khải Định, những trị lố bịch mà bọn thực dân sử dụng để che
mắt người dân Pháp.
Những việc làm của Nguyễn Ái Quốc không qua mắt được bọn mật thám
Pháp, chúng liên tục gửi các báo cáo mật sang Tồn quyền Đơng Dương.
Trong vài tháng đầu năm 1922, chúng đã gửi tới 300 báo cáo. Đây là
một,minh chứng cho thấy sự lo lắng của chính quyền thực dân đối với những
hoạt động của Nguyễn Ái Quốc và các nhà yêu nước khác. Từ đầu năm 1922
đến thời điểm này, chưa bao giờ trên mặt trận tuyên truyền, trên báo chí,
Nguyễn Ái Quốc ta lại tấn cơng bọn thực dân Pháp một cách công khai dữ
dội như vậy. Bên cạnh đó, Nguyễn Ái Quốc cịn gặp gỡ liên lạc mật thiết với
một số người bạn Pháp như: Mácxen Casanh, Vayăng Cutuyariê, Sáclơ Lui,
Môngmutxô… là những người cùng thế hệ và cùng chung lý tưởng cộng sản

đều ra nhập Quốc tế III. Những người này đã giúp đỡ Nguyễn Ái Quốc trong
việc tuyên truyền, viết báo đấu tranh đả kích chế độ thực dân Pháp. Chính
Charles Lussy đề xuất thêm mục L'Humanité aux colonies (Nhân đạo ở thuộc
địa) trên tờ báo L'Humanité để tạo điều kiện cho Nguyễn Ái Quốc và một số
đồng chí ở các nước thuộc địa khác đăng bài nhằm đả phá chính sách của bọn
thực dân Pháp thi hành tại các nước thuộc địa, vạch mặt những thủ đoạn bẩn
thỉu của chính quyền thực dân mà chúng gọi là đi “khai hóa văn minh”.
Tháng 06/1922 Nguyễn Ái Quốc đã viết hai truyện ngắn rất xuất sắc là Lời
than vãn của bà Trưng Trắc và Vi hành nhằm vào phê phán chuyến đi sang
Pháp của Khải Định, đồng thời vạch trần bản chất hèn hạ, ô nhục của tên vua
bù nhìn Khải Định. Ngồi báo chí, Nguyễn Ái Quốc cịn sử dụng những hình
thức khác như: diễn thuyết, viết kịch,… để truyền bá tư tưởng cách mạng của
mình. Những hoạt động thường tập trung ở Câu lạc bộ ngoại ô Phôbua. Cũng
tại Câu lạc bộ này vào chiều chủ nhật ngày 11/06/1922 vở kịch Con rồng tre,
hài kịch ba màn của Nguyễn Ái Quốc, được công diễn lần đầu tiên.
Suốt trong tháng 07/1922, Nguyễn Ái Quốc liên tiếp dự các cuộc họp ở câu
lạc bộ Ngoại ô Pari, các cuộc mít tinh do Chi bộ cộng sản vùng Seine tổ chức.
Nguyễn Ái Quốc còn liên lạc với những người Việt Nam yêu nước ở
Pháp và cả những người từ Đông Dương sang như: Nguyễn Thế Truyền,
Léon Thuyết, Nguyễn Văn Liêm, Trần Thế Hộ…để cùng nhau bàn bạc
và tìm cách đưa các sách báo tuyên truyền về nước. Theo báo cáo của
15


bọn mật thám Pháp thì “ngày 08 tháng 10 Nguyễn Ái Quốc dự họp Chi
bộ cộng sản ở vùng Seine tại Issy les Moulineaux... Nguyễn Ái Quốc
đã dự một buổi họp của câu lạc bộ Faubourg tổ chức tại rạp Mouri, số
10 đại lộ Barbès yêu cầu những người nhóm Le Paria và liên hiệp thuộc
địa cần tuyên bố rõ lập trường cộng sản, tố cáo những hành động xấu
xa của bọn thực dân ở bản xứ...”(5). Đồng thời Nguyễn Ái Quốc đã

khẳng định và tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, kêu gọi tinh
thần yêu nước đối với nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân dân các
dân tộc áp bức trên thế giới nói chung đồn kết nhau lại trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù chung. Cuộc sống của Nguyễn Ái Quốc lúc này vơ
cùng khó khăn. Vì bị mất việc nên Người phải làm việc tại nhà như
nhận vẽ tranh trên chao đèn lồng,… lương mỗi tuần chỉ được 20 francs.
Cuộc sống hết sức khốn khó lại thêm bọn mật thám suốt ngày “kèm
cặp”, nhưng Nguyễn Ái Quốc khơng hề nhụt ý chí. Người tích cực làm
việc đồng thời tranh thủ tham gia các buổi hội họp, nắm bắt tình hình ở
Pháp cũng như trong nước.
Tháng 10 năm 1922, Nguyễn Ái Quốc và một số đồng chí châu Phi
trong Hội liên hiệp thuộc địa tham dự Đại hội Đảng cộng sản lần thứ II
tổ chức từ ngày 15 đến ngày 19 /10/1922 tại Paris. Cũng trong tháng
này, Nguyễn Ái Quốc viết bốn bài báo: Chế độ nô lệ kiểu mới đăng trên
tờ La vie Ouvrière số 26 tháng 10/1922; bài “Sự lễ phép thực dân” đăng
trên tạp chí Le Journal du Peuple số 4 tháng 10, “Chính sách ngu dân ở
thuộc địa” đăng 10 tháng 10/1922; “Cảnh sát thuộc địa” ra số 31/10.
Những bài báo của Nguyễn Ái Quốc được bí mật đưa về các dân tộc
thuộc địa.
Đến cuối năm 1922, Nguyễn Ái Quốc tiếp đả phá chính quyền thực dân
mạnh mẽ hơn nữa trên mặt báo: “Sự chăm sóc cảm động” đăng trên La
vie ouvrière số 02/11; bài “Thiên chúa giáo ở thuộc địa” đăng trên Le
Journal du Peuple số 19 tháng 11. Những hoạt động tích cực trên cùng
với sự kiện tham dự Đại hội II của Đảng cộng sản đã chứng tỏ tên tuổi
và uy tín của Nguyễn Ái Quốc ngày càng lớn mạnh, được nhiều người
biết đến: “tên tuổi người thanh niên An Nam yêu nước, người đảng viên
cộng sản Pháp ấy không những đã được nhiều người Pháp biết đến mà
còn được cả quần chúng các nước thuộc địa, đặc biệt các nước thuộc
địa của Pháp biết đến”(6). Nguyễn Ái Quốc trở thành người
đóng vai trị chủ động trong phong trào đấu tranh của nhân dân các dân tộc

thuộc địa chống thực dân đế quốc.
Những hoạt động tích cực và xuất sắc của Nguyễn Ái Quốc trong suốt năm
1922 cho thấy những bước phát triển vượt bậc về tư tưởng, đường lối chính
trị của Người. Những hoạt động đó khẳng định Nguyễn Ái Quốc tin theo Chủ
16


nghĩa Mác – Lênin, tin theo cách mạng tháng Mười Nga. Những thành quả
mà Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa cùng cơ quan ngôn luận Le Paria mà
Nguyễn Ái Quốc đóng vai trị chủ đạo có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Bằng
những hoạt động đó, Nguyễn Ái Quốc đã tạo được uy tín và nâng cao vị thế
chính trị của mình trong Đảng cộng sản Pháp. Chính những hoạt động này
mà đến tháng 06/1923, Trung ương Đảng cộng sản Pháp tin tưởng giao trọng
trách cho Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội V Quốc tế cộng sản được tổ chức
ở Mátxcơva. Đồng nghĩa việc đưa Nguyễn Ái Quốc đến với quê hương cách
mạng tháng Mười Nga, trung tâm cách mạng thế giới là một mong ước bấy
lâu của Người.
3. Ý nghĩa lịch sử của việc Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước:
Sự kiện ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc vào ngày 05/06/1911
mang giá trị to lớn về thời đại và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với vận
mệnh của đất nước. Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta và thời đại
đã sinh ra Người và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non
sông đất nước ta và thời đại của chúng ta.
Trước tiên là thể hiện được sự nhạy bén về thực tiễn tình hình, sự lựa chọn
hành trình xuất phát từ thành phố Sài Gòn. Đây là bước ngoặt lớn, việc
Nguyễn Ái Quốc chọn Sài Gòn sau này được lý giải là do lúc bấy giờ Sài
Gòn là cửa ngõ của xứ Nam Kỳ có những cơng ty tàu biển lớn chạy đường
Pháp - Đông Dương rất thuận lợi cho việc sang Pháp. Đây cũng là nơi tự do
hơn các xứ khác ở Việt Nam trong việc đi lại, tìm kiếm cơng ăn việc làm, dễ
kiếm cơ hội xuất ngoại. Sài Gòn, nơi Người dừng chân trong thời gian ngắn

nhất nhưng lại có vai trị quyết định đối với sự lựa chọn con đường cứu nước
do được tiếp xúc với nhiều luồng thông tin đa dạng làm cho chủ nghĩa yêu
nước của con người Việt Nam phát triển, mà sau này đã trở thành biểu tượng
trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, và trong
cuộc tái thiết và phát triển đất nước lên xã hội chủ nghĩa. Nhưng ở độ tuổi 21
- người thanh niên của vùng xứ Nghệ cách Sài Gịn hàng nghìn km của thời
cát cứ phong kiến, đi lại khó khăn của những năm đầu thế kỷ 20 ở nước ta,mà
đã nhìn ra và chọn thành điểm xuất phát để đi nước ngồi đó quả là một sự
thấu suốt kinh ngạc.
Từ chủ nghĩa yêu nước chân chính, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tin theo
V.I.Lênin và Quốc tế III, tìm được con đường cứu nước đúng đắn: Giải
phóng dân tộc theo con đường cách mạng vơ sản. Với việc tìm ra được
con đường cứu nước đúng đắn, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập ra
Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam. Đảng cùng với trí tuệ, bản lĩnh và phương pháp Nguyễn Ái Quốc
đã đưa dân tộc Việt Nam từng bước sánh vai cùng thời đại.
17


Việc lựa chọn đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Lênin đã mở ra ở
Cách Mạng tháng 10 năm 1917 đã đem lại những thành tựu vĩ đại trong
thực tế cho nước ta như: hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, với
thắng lợi của Cách mạng tháng 08/1945, Chiến thắng Điện Biên Phủ
năm 1954 giải phóng Miền Bắc, chiến thắng 30/04/1975 giải phóng đất
nước. Tiến hành cách mạng Xã hội Chủ nghĩa với sự nghiệp đổi mới 33
năm qua thành công, đem lại những thành tựu trên nhiều lĩnh vực đời
sống xã hội, tính đến cuối năm 2018 tăng trưởng kinh tế nước ta đạt
6,98%, thu nhập bình quân của người Việt 2640 USD, tuổi thọ người
Việt đạt 73 tuổi, 63/63 tỉnh, thành phố đã đạt phổ cập trung học cơ
sở....Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Marx – Lenin, Người đã thành công

trong việc truyền tải tư tưởng cách mạng, khoa học cho những người
dân đất nước Việt Nam. Với cách làm khoa học, chu đáo, học thuyết
giải phóng dân tộc mang nhiều dấu ấn, tư duy của Người được thâm
nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, dẫn
tới sự xuất hiện của 3 tổ chức cộng sản ở 3 kỳ trong vòng 6 tháng, từ
giữa năm 1929 đến đầu năm 1930. Sự ra đời của các tổ chức cộng sản
là một đòi hỏi của tất yếu lịch sử. Vấn đề đặt ra là phải thống nhất các
tổ chức cộng sản đó lại thành một Đảng duy nhất để tạo sức mạnh về tư
tưởng và tổ chức, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ động thực hiện và
hồn thành nhiệm vụ đó một cách xuất sắc, hợp nhất các tổ chức cộng
sản thành một tổ chức duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam vào
đầu năm 1930. Sự kiện này chứng tỏ giai cấp vô sản Việt Nam đã trưởng
thành và đủ sức lãnh đạo Cách mạng. Phong trào giải phóng dân tộc từ
đây chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam chuyển sang một bước ngoặt
mới, “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản”.
Nguyễn Ái Quốc đã dẫn dắt dân tộc Việt Nam ta tạo nên những bước
ngoặc lớn trong Cách mạng Việt Nam, làm thay đổi hướng phát triển
của lịch sử và thay đổi số phận của người dân Việt Nam vào những thế
kỉ XX thời đó. đỉnh cao nhất là cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945,
đánh dấu lần đầu được tự do – độc lập dân tộc và bước vào con đường xây
dựng Chủ nghĩa Xã hội.

18


Ảnh 4: Chiến thắng CMT8- tapchitaichinh.vn
Với những biến cố lịch sử hơn một thế kỷ qua, ngày 5-6-1911 không chỉ là
sự kiện đặc biệt đánh dấu sự khởi đầu của quá trình đi ra thế giới để tìm con

đường cứu nước, cứu dân của Nguyễn Ái Quốc, mà còn là sự kiện mở ra quá
trình Việt Nam từng bước hội nhập vào dịng tiến hóa theo xu thế mới của
nhân loại dưới sự dẫn dắt của Người. Trong quá trình đó, trên cơ sở tiếp nhận
những giá trị văn hóa - văn minh nhân loại và nắm bắt được xu thế phát triển
của lồi người trong thời đại mới, thơng qua con đường cách mạng mà Người
đã lựa chọn, Việt Nam đã kết hợp thành công sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp đưa tới những thắng lợi lịch sử cho
cách mạng Việt Nam. Mặt khác, trong q trình đó, dân tộc ta đã góp phần
vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại, làm cho thế kỷ XX trở thành thế kỷ
phi thực dân hóa, thúc đẩy lịch sử lồi người tiến lên theo hướng tiến bộ. Dù
đã đi xa, nhưng người chiến sĩ cộng sản kiên trung và dũng cảm Nguyễn Ái
Quốc, đã để lại cho chúng ta một mẫu mực trong việc nhanh nhạy với tình
hình thời cuộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào
điều kiện nước ta, từ đó định hướng cho sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước
ta, hướng vào mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh
mà Đảng ta đang phấn đấu. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN, với đường lối đổi mới của Đảng, trên thực tế, sự
hội nhập quốc tế của Việt Nam cũng là tiếp tục quá trình dân tộc ta đi ra thế
giới trong điều kiện lịch sử mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh để thâu nhận các
giá trị văn hóa - văn minh nhân loại và nắm bắt xu thế phát triển của loài
người nhằm vận dụng phù hợp với thực tiễn của đất nước.Trong bối cảnh đất
nước và thế giới ta đang có những sự kiện, diễn biến phức tạp cùng với những
thử thách khó khăn và những nghịch lý của cuộc đời. Ý nghĩa lịch sử
và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và sự kiện ra đi
tìm đường cứu nước nói riêng càng được tỏa sáng hơn bao giờ hết. Và
trong hành trình hội nhập cùng nhân loại đi đến tương lai sánh vai cùng
các cường quốc 5 châu, chúng ta càng tin tưởng và kiên trì phấn đấu
19



trên con đường của vị lãnh tụ vĩ đại đã chỉ ra, quyết tâm đưa ngọn cờ
của Người đến đích thắng lợi.
II) Cảm nghĩ của bản thân:
Sau những thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam đã nổ ra từ
cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX đã làm cho cách mạng Việt Nam khủng
hoảng về con đường giải phóng dân tộc. Chứng kiến cảnh nước mất nhà
tan và nỗi thống khổ của nhân dân, người thanh niên yêu nước Nguyễn
Tất Thành khi đó chỉ mới 21 tuổi với ý chí mãnh liệt và lịng u thương
dân tộc sâu sắc đã đặt quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, để thực hiện
khát vọng giải phóng Tổ quốc khỏi ách nô lệ của bọn thực dân đế quốc.
Cuộc hành trình tìm đường cứu nước của Người trải qua 3 đại dương,
4 châu lục và gần 30 quốc gia với bao gian khổ và vất vả, đó là sứ mệnh
lịch sử lớn lao, mang tầm vóc thời đại.
Đất nước đầu tiên Người đến là Pháp, đây không phải là hành động
ngẫu nhiên, tự phát mà đó là sự lựa chọn, trăn trở, một quyết tâm lớn,
nhằm đáp ứng đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam. Người nói:
“Tơi muốn đi ra nước ngồi xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi
xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta” Người
đã khơng đi sang nước Nhật, khơng tìm về các nước châu Á mà Người
đã đến Pháp, đến tận đất nước đang cai trị mình, đến tận châu Âu, nơi
đang có sự phát triển vượt bậc lẫn về kinh tế và văn hóa, chính trị để
học tập, nghiên cứu kinh nghiệm đấu tranh và tìm ra con đường cách
mạng đúng đắn để giải phóng cho dân tộc thân yêu. Với những chuyến
đi, những cuộc khảo nghiệm trong 10 năm ròng, từ năm 1911 đến năm
1920, Người đã tận dụng mọi cơ hội để được đến nhiều nơi trên thế giới.
Bàn chân của Người đã từng in dấu trên nhiều đất nước thuộc các đại
lục Âu, Á, Phi, Mỹ. Người đã hịa mình vào cuộc sống của những người
lao động, làm bất cứ việc gì để sống và hoạt động, như: phụ bếp, cào
tuyết, đốt lò, chụp ảnh, làm vườn, vẽ thuê... Trên cơ sở đó Người rút ra
một kết lun có tính chất nền tảng đầu tiên: ở đâu đế quốc, thực dân cũng

tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức và
“dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống
người bóc lột và giống người bị bóc lột”. Những nhận biết căn bản đó
càng giục Nguyễn Ái Quốc quyết tâm tìm con đường giải phóng mà Người
đã từng nung nấu, ấp ủ từ ngày rời Tổ quốc.
Ra đi tìm đường cứu nước là một nhiệm vụ vơ cùng khó khăn, thế nhưng khi
tìm ra con đường ấy và bổ sung, hồn thiện nó để phù hợp với thực tiễn đất
nước lại càng khó khăn gấp bội. Ấy vậy mà Nguyễn Ái Quốc là người Việt
Nam đầu tiên kết hợp thành công sức mạnh trong nước và quốc tế - dân tộc
20


và thời đại, yếu tố khách quan và chủ quan để tìm ra lời giải cho "Bài tốn
thế kỷ" đã đặt ra trước dân tộc từ đầu thế kỷ XX. Để làm được điều đó Người
đã khơng ngừng học tập, khảo sát thực tế, nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh
nghiệm của nhiều thế hệ đi trước để tìm thấy con đường đúng đắn cứu Việt
Nam ta khỏi ách thống trị bởi thực dân phong kiến. Hành động lớn nhất
Người mang theo lòng yêu nước, thương dân sâu sắc và đơi bàn tay lao động
với quyết tâm tìm kiếm chân lý để trở về cứu dân, cứu nước khỏi kiếp nô lệ.
Với vốn tri thức phong phú và những kinh nghiệm q báu có được hịa mình
vào cuộc sống của các tầng lớp nhân dân lao động, Người đã bắt gặp Chủ
nghĩa Mác-Lênin, Chủ nghĩa Cộng sản và trở thành người Cộng sản Việt
Nam ban đầu. Đây được cho là bước ngoặt chính trị vơ cùng vĩ đại đánh dấu
sự chuyển biến cơ bản trong nhận thức Nguyễn Ái Quốc về con đường cứu
nước, vạch ra hướng đi đúng hướng cho cách mạng Việt Nam - đó là cách
mạng giải phóng dân tộc kết hợp với cách mạng vơ sản, độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên cần thấy rõ, đây không phải đơn giản là
việc lựa chọn một mơ hình con đường có sẵn để áp dụng vào Việt Nam mà
là sự vận dụng sáng tạo luận cương của Lênin, những nguyên tắc, quan điểm
của Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Pháp vào hồn cảnh cụ thể của cách

mạng Việt Nam.
Q trình hoạt động tại Pháp của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp cũng vô cùng
gian lao, nhất cử nhất động của Người ln nằm trong tầm theo dõi của tình
báo Pháp và nhiều lần bị mật vụ Pháp triệu tập để trực tiếp thẩm vấn, điều tra
thân thế. Cuộc sống ở Pháp của Nguyễn Ái Quốc cũng rất khốn khó, bữa tối
của Người chỉ có một mẩu bánh mì và vài miếng xúc xích, cùng chút sữa, vì
lúc này gạo rất đắt. Căn phịng Người ở tại quận 17, Paris có khơng gian vô
cùng chật hẹp, phải dùng chung nhà vệ sinh cơng cộng, khơng lị sưởi, nước
dột mỗi khi trời mưa, rất lạnh vào mùa đông. Song gian khổ vất vả là thế,
ngọn lửa giải phóng dân tộc trong Nguyễn Ái Quốc vẫn cháy rực giữa đất
Pháp.Nhắc đến hành trình của Nguyễn Ái Quốc trên đất Pháp, không thể
không nhắc tới tờ báo Người cùng khổ Le Paria. Bất chấp các cuộc điều tra,
theo dõi căng thẳng của cảnh sát Pháp, ngày 01/04/1922, công chúng Pháp
đã bất ngờ nhận được trên tay ấn phẩm đặc biệt, tờ báo có tên gọi “Người
cùng khổ” với mục tiêu trở thành diễn đàn của các dân tộc thuộc địa. Điều
này như một đòn giáng mạnh mẽ vào mạng lưới an ninh Pháp, họ đánh giá
tờ báo có tác động vơ cùng to lớn tới sự thức tỉnh, đứng lên giành lại
độc lập của các nước ở Đơng Dương và Bắc Phi. Tuy cịn nhiều khó
khăn, đã có những lúc tờ báo có nguy cơ không thể tiếp tục, nhưng
Người đã nhấn mạnh bằng mọi giá phải duy trì tờ báo. Câu nhấn mạnh
này càng khẳng định tờ báo là bước đệm quan trọng, là một vũ khí làm
cho cả thế giới biết được bộ mặt tàn bạo của chủ nghĩa tư bản.

21


Nguyễn Ái Quốc luôn tận dụng mọi cơ hội và vận dụng mọi khả năng,
mọi hình thức để dìu dắt phong trào cách mạng trong nước, để động
viên và cổ vũ các tầng lớp nhân dân, nhất là công nhân, nông dân và
thanh niên, đứng lên đấu tranh. Mặt khác Người tích cực tố cáo, lên án

bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân thuộc địa và
kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng.
Hành trình của Nguyễn Ái Quốc là hành trình sáng tạo, vĩ đại trong tìm
đường, mở đường và dẫn đường cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng đất nước. Mỗi bước đi của Người trong hành trình ấy đều gắn
liền với những quyết định trọng đại, những mốc son lịch sử trong các
chặng đường của cách mạng Việt Nam. Dù thời gian đã lùi xa hơn một
thế kỷ nhưng sự kiện Người ra đi tìm đường cứu .nước vẫn mãi là tấm
gương sáng ngời về tinh thần yêu nước, ý chí cách mạng, sẵn sàng hiến
dâng cuộc đời mình cho dân tộc và đất nước.
III) Bài học cho thế hệ trẻ ngày nay:
Cuộc hành trình tìm con đường giải phóng dân tộc của vị lãnh tụ vĩ đại
đã để lại nhiều bài học quý giá cho mỗi công dân Việt Nam, đặc biệt là
thế hệ trẻ của chúng ta ngày nay. Những bài học tốt đẹp của Người
không chỉ tạo ra được những bài học về ý chí, cảm hứng đặc biệt, khát
vọng mãnh liệt cho thế hệ trẻ mà cịn có một ý nghĩa thiết thực đối với
thanh niên trong cuộc sống, học tập, công tác, lao động sản xuất, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ 1: Bài học về tình yêu quê hương Tổ quốc, u đồng bào dân
tộc.
Khơng có gì có thể phủ nhận được tấm lòng yêu nước thương dân, đem
lại độc lập tự do cho dân tộc là khát vọng cháy bỏng của Nguyễn Ái
Quốc. Thanh niên thế hệ trẻ ngày nay cần học tập tinh thần của Người,
quyết tâm chiến đấu, cống hiến và hy sinh cho Tổ quốc, sẵn sàng đi đến
bất cứ nơi đâu để bảo vệ độc lập dân tộc. Tình cảm yêu thương quê
hương tổ quốc của thanh niên ngày nay cũng được thể hiện qua những
hành động cụ thể: đó là sự kiên định lý tưởng của Đảng, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cố gắng trau dồi đạo đức
bản thân, nâng cao khả năng học hỏi, lao động, công tác, chiến đấu…
Thứ 2: Bài học về rèn luyện nghị lực kiên cường vượt qua khó khăn thử

thách, tinh thần học tập không ngừng.
Từ một thanh niên với hai bàn tay trắng, năm 1911 tại bến cảng Sài Gòn,
Người đã ra đi với hành trang là một trái tim đong đầy tình yêu quê hương
22


cùng khát vọng mãnh liệt giành được độc lập tự do cho Tổ quốc nhân dân.
Và tất cả những quyết tâm đó đã giúp Người vượt qua được mọi khó khăn
trên hành trình tìm đường cứu nước đầy gian nan, trắc trở. Đây cũng chính là
bài học mà thế hệ trẻ chúng ta ngày nay luôn phải nhớ đến để tự hào và noi
theo tấm gương từ Người, đã là thanh niên thì khơng được có tư tưởng ngại
khó, ngại khổ, thích hưởng thụ. Nâng cao tinh thần và khả năng tự học hỏi,
phải biết tò mò cái mới, cái chưa hiểu để trau dồi bản thân. Chúng ta - những
người trẻ phải tích cực rèn luyện, ham học hỏi để biến kiến thức thành hành
trang mang lại những cơ hội mới.
Thứ ba: Bài học về lòng nhân ái:
Một hành trình dài đi khắp các châu lục, Người đã có sự cảm thông sâu sắc
khi tận mắt thấy được những khổ đau của nhân dân lao động. Cũng từ đó,
tấm lòng nhân ái, yêu thương con người của Nguyễn Ái Quốc chính là một
bài học mà thế hệ trẻ chúng ta luôn phải khắc cốt ghi tâm. Nhân dân cùng
một nước biết đùm bọc, che chở lẫn nhau thì đất nước sẽ có ngày phồn vinh,
thịnh vượng. Đạo lý “lá lành đùm lá rách” của ông cha bao đời nay để lại là
một truyền thống lâu đời của đất nước, thanh niên cần phát huy qua những
hành động và nghĩa cử cao đẹp. Ví như thời điểm dịch bệnh Covid-19 hoành
hành hiện nay, các câu chuyện xúc động về những người trẻ xung phong
phịng dịch ln sáng mãi trong tim, họ đi khắp các nẻo đường, sẵn sàng tình
nguyện vào nơi tâm dịch giúp đỡ những hồn cảnh khó khăn để góp phần
mang lại hạnh phúc, bình n cho nhân dân. Chúng ta là công dân của một
quốc gia đang phát triển cùng với sự tiến bộ của xã hội thì ở đâu đó chắc chắn
rằng vẫn tồn tại những toan tính, vị kỷ. Nhưng bản thân chúng ta phải biết và

tin tưởng rằng lòng nhân ái vẫn sẽ mãi tiếp nối như một truyền thống tốt đẹp
ngàn đời của dân tộc, là bài học quý báu và là niềm tin vững chắc cho người
trẻ ngày nay.

Ảnh 5: Sinh viên khối sức khỏe HIU sẵn sàng xếp bút nghiên đi vào
tâm dịch- Baodantoc.vn
23


Thứ 4: Bài học về sự độc lập trong tư tưởng, sáng tạo, kiên định
với mục tiêu đề ra.
Với tư duy độc lập, sáng tạo của mình, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra được
con đường cứu nước đúng đắn cho nhân dân Việt Nam, giành được độc
lập cho dân tộc và nhiều chiến thắng vẻ vang. Suy cho cùng tất cả mọi
hành động đều xuất phát từ sự quyết định của ý nghĩ mà ra, việc của ta
là làm sao cho bản thân có một khả năng tự nghiên cứu, tự tìm tịi học
hỏi và đúc kết lại kinh nghiệm. Phải có lý lẽ vững chắc, tư tưởng sáng
tạo, tự tin vào khả năng của bản thân để giải quyết các vấn đề khó khăn
trong cuộc sống. Cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cịn gặp nhiều
khó khăn gian khổ, những công dân của đất nước đặc biệt là thế hệ thanh
niên phải ra sức, phải nỗ lực hơn nữa trên con đường học tập và rèn
luyện bản thân; luôn mang tâm thế không bao giờ thỏa mãn với những
gì đã đạt được để tích cực nâng cao, nung nấu ý chí khát vọng vươn lên
tầm cao mới để mang lại thành tựu vẻ vang cho dân tộc.
Thứ 5: Bài học về giữ vững bản sắc dân tộc và hội nhập quốc tế.
Ta sẽ dùng quan điểm “Hoà nhập chứ khơng hồ tan” làm minh chứng
cho bài học cuối cùng này của Nguyễn Ái Quốc. Với xu thế hội nhập,
hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, chúng ta muốn phát triển phải có
sự giao lưu với các dân tộc khác, với nền văn hóa khác. Trong quá trình
giao lưu đó, dân tộc ta sẽ tiếp tục tiếp thu những tinh hoa văn hóa và

những thành tựu khoa học thuật tiên tiến của nhân loại đó. Trong bối
cảnh đất nước đang trên đà hội nhập phát triển như hiện nay thế hệ thanh
niên phải ln tích cực tiếp thu những cái tiến bộ, những tinh hoa thế
giới để học hỏi từ đó mà giúp ích cho đất nước, chúng ta phải ln biết
kế thừa, giữ gìn, phát huy truyền thống dân tộc. Tuy nhiên, vẫn phải
tiếp thu một cách có chọn lọc để giữ vững được bản sắc và giá trị truyền
thống dân tộc, trên cơ sở hòa nhập đó ta vẫn giữ lại những giá trị riêng của
chính mình. Để được như vậy, thanh niên ngày nay phải cố gắng hết sức nỗ
lực vươn lên, không được mang suy nghĩ lệ thuộc, dựa dẫm vào người khác;
tích cực trau dồi ngôn ngữ quốc tế để tạo ra được bước đệm vững chắc cho
tương lai bản thân và tương lai đất nước.

24


KẾT LUẬN
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường đườ ng c ứu nước có ý nghĩa vơ cùng
to lớn. Chuyến đi khó khăn và đầy rẫy thử thách ấy đã giúp Người học
hỏi nhiều về con đường Cách mạng. Nhờ đó, chặng đường gian nan ấy
đã được đền đáp lại khi tạo nên những chiến công lớn trong cách mạng
Việt Nam, có nh ững bước đổi mới theo hướng phát triển và làm thay
đổi tình thế của Việt Nam ở thế kỷ 20. Chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Ái
Quốc đã lựa chọn đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Mác Lênin đã
mở ra ở Cách Mạng tháng Mười Nga. Điều này giúp cho nước ta gặt
hái thêm những chiến cơng vang dội tồn cầu: Cách mạng Tháng 8
(1945), chiến thắng Điện Biên Ph ủ (1945), giải phóng miền Nam
(1975). Đến nay, Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa với 35 năm đổi mới đã
thành công, đem lại những thành tựu to lớn đối v ới dân tộc trên nhiều
lĩnh vực. Trong đó, chính phủ đã xóa đượ c nạn mù chữ cho Nhân dân,
thu nhập bình quân đầu người cũng tăng lên đáng kể, tuổi thọ được kéo

dài hơn. Những điều kể trên cho thấy cuộc sống của Nhân dân đã được
cải thiện về chất lượng cuộc sống cũng như là tinh thần rất nhiều, khi
tin vào Đảng và con đường XHCN.
Hành trình cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đã kết thúc song vẫn những
giá trị quý giá mà Người mang lại vẫn trường tồn theo thời gian. Hành
trình ấy khơng chỉ thể hiện rõ lịng u nước, khát vọng độc lập của
Người mà còn đưa nước ta trở nên phát triển, giàu mạnh hơn. Trong
chặng đường này, từ khởi đầu cho đến kết thúc đặt chân về Tổ quốc của
mình, Người đã khơng ngừng sáng tạo, tìm bước đi mới cũng như là có
những quan điểm đột phá và khác biệt. Hơn thế nữa, Người đã biết kết
hợp sự tiến bộ của nhân loại và cốt lõi truyền thống của dân tộc. Bằng
sự sáng tạo của mình, Người đã phát triển những quan điểm dưới sự kế
thừa tư tưởng Mác-Lênin để phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Sự sáng tạo và vận dụng ấy đã giúp cho Nguyễn Ái Quốc có thể trả lời
được câu hỏi khó về vấn đề dân tộc ở các nước thuộc địa.
Hiện tại, đặc biệt là thế hệ trẻ vẫn ln cố gắng từng ngày, noi gương
theo Hồ Chí Minh để xây dựng và phát triển Việt Nam. Thêm vào đó,
những người trẻ đang cố gắng giữ gìn cũng như là truyền lại cho thế hệ
mai sau giúp cho những bài học quý giá đó có thể được lưu truyền mãi.

25


×