Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Tiểu luận Hình thái KTXH P.5 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.33 MB, 37 trang )










Tiểu luận

Hình thái KTXH P.5


Lời nói đầu
Trong gần 10 năm trở lại đây, nền kinh tế nước ta có sự thay
đổi và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Để đạt được những thành
tựu ấy chúng ta không thể quên được bước ngoặt lịch sử trong cơ
chế chuyển đổi nền kinh tế đất nước, mà cột mốc của nó là Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986 đã làm thay đổi bộ mặt kinh
tế Nhà nước).
Đối với nước ta, từ một nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát
khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của nước
phát triển thì tất yêú phải đổi mới.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng
định: Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến
bộ, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững
chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Mục tiêu
đó là sự cụ thể hoá học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội và


hoàn cảnh cụ thể của xã hội Việt Nam. Nó cũng là mục tiêu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
Đề tài: Học thuyết hình thái kinh tế xã hội với việc nhận
thức tính tất yếu của con đường lựa chọn xã hội chủ nghĩa vào
Việt Nam là một nội dung phức tạp và rộng. Do trình độ hạn hẹp
và có hạn trong một bài tiểu luận nên em không tránh khỏi những
khiếm khuyết trong việc nghiên cứu. Em rất mong được sự góp ý

của thầy giáo, cô giáo để bài viết này của em được hoàn thiện
hơn.

Em xin chân thành cảm ơn !



I.
Mọi người đều biết trong lịch sử tư tưởng nhân loại trước
Mác đã có không ít cách tiếp cận, khi nghiên cứu lịch sử phát
triển của xã hội. Xuất phát từ những nhận thức khác nhau, với
những ý tưởng khác nhau mà có sự phan chia lịch sử tiến hoá của
xã hội theo những cách khác nhau. Chẳng hạn như nhà triết học
duy tâm Hê - ghen (1770 - 1831) phân chia lịch sử xã hội loài
người thành ba thời kỳ chủ yếu: thời kỳ phương Đông, thời kỳ cổ
đại, thời kỳ Gree - ma - ni. Nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp
Phu- ri-ê (1772-1837) chia lịch sử xã hội thành bốn giai đoạn: giai
đoạn mông muội, giai đoạn dã man, giai đoạn gia trưởng, giai
đoạn văn minh.
Mọi người cũng đã quen với những khái niệm thời đại đồ
đá, thời đại đồ đồng, thời đại cối xay gió, thời đại máy hơi nước. .
. và gần đây là các nền văn minh: văn minh nông nghiệp, văn

minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp.
Hình thái kinh tế xã hội Mác- Lê nin.

Mỗi cách tiếp cận trên có những điểm hợp lý nhất định và
do đó đều có ý nghĩa nhất định, nhưng chưa nói lên bản chất sự
phát triển của xã hội theo một cách toàn diện tổng thể mà do đó
có những hạn chế.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng thể quá
trình lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã vận dụng phép
biện chứng duy vật để nghiên cứu lịch sử xã hội, đưa ra quan
điểm duy vật về lịch sử và đã hình thành nên học thuyết về “hình
thái kinh tế xã hội”.
Hình thái kinh tế xã hội là một khái niệm chủ nghĩa duy vật
lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn nhất định. Với một
quan hệ sản xuất c trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ
nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng
tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Lý luận về hình thái kinh tế xã hội nghiên cứu lịch sử xã hội
trên cơ sở xem xét cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Tức toàn bộ các yếu tố
cấu thành bộ mặt của thời đại: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội,
khoa học, kỹ thuật. . . Do đó, nó cắt nghĩa xã hội được sáng tỏ
hơn, toàn diện hơn, chỉ ra cả bản chất và quá trình phát triển của
xã hội. Học thuyết hình thái kinh tế xã hội mới với tư cách là
“Hòn đá tảng” của xã hội học Mác xít nói chung cho phép chúng
ta hình dung quá trình phát triển của lịch sử là một quá trình tự
nhiên. Loài người đã trải qua năm hình thái kinh tế: xã hội cộng

sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa
và ngày nay đang quá độ lên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản

chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế xã hội có tính lịch sử, có sự ra đời phát
triển và diệt vong. Chế độ xã hội lạc hậu sẽ mất đi, chế độ xã hội
mới cao hơn sẽ thay thế. Đó là khi phương thức sản xuất cũ đã trở
nên lỗi thời, hoặc khủng hoảng do mâu thuẫn của quan hệ sản
xuất với lực lượng sản xuất quá hơn không thể phù hợp thì
phương thức sản xuất này sẽ bị diệt vong và xuất hiện một
phương thức sản xuất mới toàn diện hơn, có quan hệ sản xuất phù
hợp với lực lượng sản xuất.
Như vậy, bản chất của sự thay thế trên là phụ thuộc vào mối
quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Để hiểu rõ về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất chúng ta phải nắm bắt được thế nào là quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất.
1)
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên, là biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người
trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Lịch sử sản xuất là một thể
thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất (quan hệ nhất là công cụ
lao động) với người lao động với kinh nghiệm và kỹ năng lao
động nghề nghiệp. Lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định
phương thức sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản
xuất vật chất thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất,
quan hệ tổ chức quản lý trao đổi hoạt động với nhau và quan hệ
phân phối sản phẩm. Trong quan hệ sản xuất quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất giữ vị trí quyết định các quan hệ khác.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra song nó được hình

thành một cách khách quan không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan
của con người. Quan hệ sản xuất mang tính ổn định tương đối với
bản chất xã hội và tính phương pháp đa dạng trong hình thức biểu
hiện.
Giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có mối quan hệ
biện chứng với nhau biểu hiện ở chỗ:
+ Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát
triển. Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và
phát triển của lực lượng sản xuất mà trước hết là công cụ.
+ Công cụ lao động phát triển dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với
quan hệ sản xuất hiện có và xuất hiện ddòi hỏi khách quan, phải
xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ thay thế bằng quan hệ sản xuất mới.
+ Quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển của lực lượng
sản xuất (phù hợp) nhưng do mâu thuẫn của lực lượng sản xuất
(đông) với quan hệ sản xuất (ổn định tương đối) quan hệ sản xuất
lạI trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất (không phù hợp ). Phù hợp và không phù hợp là biểu hiện

mâu thuẫn biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, tức là sự phù hợp trong mâu thuẫn và bao hàm mâu thuẫn.
+ Khi phù hợp cũng như không phù hợp với lực lượng sản xuất
, quan hệ sản xuất luôn có tính độc lập tương đối với lực lượng
sản xuất thể hiện trong nội dung sự tác động trở lạI đối với lực
lượng sản xuất, mục đích xã hội của lực lượng sản xuất, xu hướng
phát triển của quan hệ lợi ích. Từ đó hình thành những yếu tố thúc
đẩy và kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động
trở lại nói trên của quan hệ sản xuất bao giờ cũng thông qua các
quy luật kinh tế - xã hội đặc biệt là quy luật kinh tế cơ bản. Phù
hợp và không phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là khách quan và phổ biến của mọi phương thức sản xuất.

Sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất như sự thống nhất giữa hai mạt đối lập tạo nên
chỉnh thể của sản xuất xã hội. Trong “Hệ tư tưởng Đức” (1846)
lần đầu tiên Mác- Ănghen đã hình dung sự t hống nhất đó như là
một “quan hệ song trùng”, giữa hai “sự trao đổi chất” tất yếu và
phổ biến ở mọi nền sản xuất - xã hội. Đó là “trao đổi chất giữa
người với tự nhiên (lực lượng sản xuất) và giữa người với người
(quan hệ sản xuất)”.
Tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất được Mác - Ănghen khái quát thành quy luật về
sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ , tính chất của lực
lượng sản xuất.

Đây là một trong những quy luật cơ bản của đời sỗng xã hội.
Quy luật này chỉ rõ động lực và xu thế phát triển của lịch sử.
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu lao
động. Khi công cụ lao động sản xuất đựoc sử dụng bởi từng cá
nhân riêng biệt để sản xuất ra một sản phẩm cho xã hội không cần
đến lao động của nhiều người thì lực lượng sản xuất có tính chất
cá thể, công cụ sản xuất được nhiều người sử dụng.
Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ
tinh xảo và hiện đại của công cụ sản xuất, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ sảo của người lao động, trình độ phân
công lao động xã hội , tổ chức quản lý sản xuất và quy mô của
nền sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao
thì chuyên môn hoá và phân công lao động càng sâu. Trình độ
phân công lao động và chuyên môn hoá là thứoc đo trình độ của
phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và
biến đổi của quan hệ sản xuất. Trong tác phẩm “Sự khốn cùng của

triết học”, Mác nói: “Cái cối xay quay bằng tay cho xã hội có lãnh
chúa phong kiến, c ái cối xay chạy bằng hơi nước cho xã hội có
nhà tư bản”.
Để nâng cao hiệu quả trong sản xuất và giảm bớt lao động
nặng nhọc con người không ngừng cải tiến, hoàn thiện và chế tạo
ra những công cụ, tri thức khoa học, trình độ chuyên môn kỹ thuật
và mọi kỹ năng của người lao động cũng ngày càng phát triển.

Yếu tố năng động này của lực lượng sản xuất đòi hỏi quan
hệ sản xuất phải thích ứng với môi trường. Lực lượng sản xuất
quyết định sự hình thành và biến đổi của quan hệ sản xuất. Khi
không thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm thậm chí phá hoại sự phát
triển của lực lượng sản xuất, mâu thuẫn của chúng tất yếu sẽ nảy
sinh. Biểu hiện của mâu thuẫn này trong xã hội là giai cấp là mâu
thuẫn giữa các giai cấp đối kháng.
Lịch sử đã chứng minh rằng do sự phát triển của lực lượng
sản xuất, loài người đã bốn lần thay đổi quan hệ sản xuất gắn liền
với bốn cuộc cách mạng xã hội, dẫn đến sự ra đời nối tiếp nhau
của các hình thái kinh tế xã hội.
Ví dụ: do công cụ sản xuất chủ yếu bằng đã thô sơ, trình độ
hiểu biết hạn hẹp, để duy trì sự sống chống lại mọi tai hoạ của
thiên nhiên , con người phải lao động theo cộng đồng. Do vậy đã
hình thành quan hệ sản xuất cộng sản nguyên thuỷ. Công cụ kim
loại ra đời thay thế cho công cụ bằng đá, lực lượng sản xuất phát
triểnnăng suất lao động nâng cao sản phẩm thặng dư xuất hiện ,
chế độ chiếm hữu nô lệ dựa trên quan hệ sản xuất tư hữu.
Vào giai đoạn cuối cùng của xã hội phong kiến, ở các nước
Tây Âu lực lượng sản xuất đã ma ng yếu tố xã hội hoá gắn với
quan hệ sản xuất phong kiến. Mặc dù hình thức bóc lột của các

lãnh chúa phong kiến được thay đổi liên tục từ địa tô lao dịch đến
địa tô hiện vật, địa tô bằng tiền song quan hệ sản xuất phong kiến

chật hẹp vẫn không chứa đựng được nội dung mới của lực lượng
sản xuất.
Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời thay thế quan hệ
sản xuất phong kiến. Trong lòng nền sản xuất tư bản, lực lượng
sản xuất phát triển cùng với sự phân công lao động và tính chất xã
hội hoá công cụ sản xuất đã hình thành lao động chung của người
dân có tri thức và trình độ chuyên môn hoá cao. Sự lớn mạnh này
của lực lượng sản xuất dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với chế độ sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Giải quyết mâu thuẫn đó đòi hỏi
phải xoá bỏ quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa, xác lập
quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Theo
Mác, do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay
đổi phát triển sản xuất của mình và do đó thay đổi phát triển sản
xuất làm ăn của mình, loài người thay đổi các quan hệ sản xuất
của mình.
Mặc dù bị chi phối bởi lực lượng sản xuất nhưng với tính
cách là hình thức quan hệ sản xuất củng cố những tác động nhất
định trở lại đối với lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nó sẽ
trở thành động lực thúc đẩy, định hướng và tạo điều kiện cho lực
lượng sản xuất phát triển ngược lại. Nếu lạc hậu hơn so với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hay chỉ là tạm
thời so với tất yếu khách quan của cuộc sống nhưng quan hệ sản
xuất sẽ là xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất.

Phù hợp có thể hiểu ở một số nội dung chủ yếu là: cả ba mặt

của quan hệ sản xuất phải thích ứng với tính chất trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phải tạo được điều kiện sản xuất và kết hợp
với tối ưu giữa tư liệu sản xuất và sức lao động, đảm bảo trách
nhiệm từ sản xuất mở rộng. Mở ra sau những điều kiện thích hợp
cho việc kích thích vật chất, tinh thần với người lao động.
Vậy quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất
và trình độ của người sản xuất là quy luật chung của sự phát triển
xã hội. Do tác động của quy luật này xã hội là sự phát triển kế tiếp
nhau từ thấp đến cao của các phương thức sản xuất hay chính là
của các hình thái kinh tế - xã hội.
Dưới những hình thức và mức độ khác nhau thì con người có ý
thức được hay không và quy luật cốt lõi này như sợi chỉ đỏ xuyên
suốt dòng chảy tiến hoá của lịch sử không chỉ những lĩnh vực
kinh tế mà cả các lĩnh vực ngoài kinh tế, phi kinh tế.
2)
Không chỉ đặc trưng bằng quan hệ sản xuất mà nó còn đặc
trưng bởi một kiến trúc thượng tầng xây dựng trên những quan hệ
sản xuất của chính nó.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội,
những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tạng của thượng
tầng, đó là những quan đIểm tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo

đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học và các thể chế tương ứng như
Nhà nước, Đảng phái, giáo hội và các toàn thể quần chúng.
Kiến trúc thượng tầng được hình thành trên tổng hợp toàn
bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một chế
độ xã hội nhất định người ta gọi đó là cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng bao gồm những quan hệ sản xuất đang giữ địa

vị thống trị nền kinh tế nhóm những quan hệ sản xuất tàn dư và
những quan hệ sản xuất mới là quan hệ mầm mống của xã hội
sau.
Bất kỳ một cơ sở hạ tầng nào cũng bao gồm những thành
phần kinh tế khác nhau, mỗi thành phần kinh tế này đều gắn liền
với một kiểu quan hệ sản xuất trong đó quan hệ sản xuất thống trị
bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các thành phần kinh tế khác.
Xã hội có giai cấp đối kháng, giai cấp này nảy sinh từ cơ sở
hạ tầng, từ những mâu thuẫn và xung đột kinh tế. Đó chính là cơ
sở nảy sinh giai cấp đối kháng trong kiến trúc thượng tầng, giai
cấp thống trị về kinh tế sẽ thống trị về chính trị và thiết lập cả sự
thống trị về mặt tư tưởng đối với xã hội, trong đó hệ tư tưởng
chính trị và bộ máy quản lý nhà nước có vị trí quan trọng nhất.
a) Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng đó (giai cấp nào
giữ vị trí thống trị về mặt kinh tế thì đồng thời cũng là giai cấp
thống trị xã hội về tất cả các lĩnh vực khác).

Quan hệ sản xuất nào thống trị cũng sẽ tạo ra kiến trúc
thượng tầng tương ứng. Mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn giữa các
tập đoàn trong xã hội và dời sống tinh thần của họ đều xuất phát
trực tiếp và gián tiếp từ mâu thuẫn kinh tế, từ những quan hệ đối
kháng trong cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng thay đổi thì nhất định sớm hay muộn sẽ dẫn
đến sự thay đổi về kiến trúc thượng tầng. Quá trình đó diễn ra
ngay trong những hình thái kinh tế xã hội cũng như khi chuyển
tiếp từ hình thái này sang hình thái kinh tế xã hội khác trong các
xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng được biểu hiện là
mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
Trong các xã hội có đối kháng giai cấp mâu thuẫn của cơ sở

hạ tầng được biểu hiện là mâu thuẫn cuả giai cấp thống trị và giai
cấp bị trị. Khi hạ tầng cũ bị xoá bỏ thì kiến trúc thượng tầng cũ
cũng mất đi và thay thế vào đó là kiến trúc thượng mới được hình
thành từng bước thích ứng với cơ sở hạ tầng mới.
Sự thống trị của giai cấp thống trị cũ đối với xã hội cũ bị
xoá bỏ, thay bằng hệ tư tưởng thống trị khác và các thể chế tương
ứng của giai cấp thống trị mới. Đương nhiên không phải “Khi cơ
sở hạ tầng thay đổi thì lập tức sẽ dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc
thượng tầng”.Trong quá trình hình thành và phát triển của kiến
trúc thượng tầng mới, nhiều yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ
còn tồn tại gắn liềnvới cơ sở kinh tế đã nảy sinh ra nó. Vì vậy giai

cấp cầm quyền cần phải biết lựa chọ một số bộ phận hợp lý để sử
dụng nó xây dựng xã hội mới.
Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi về kiến
trúc thượng tầng là một quá trình diễn ra hết sức phức tạp, thường
trong xã hội có đối kháng giai cấp, tính chất phức tạp ấy được thể
hiện qua các cuộc đấu tranh giai cấp. Tính chất này được bộc lộ
rõ nét nhất là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa (giai đoạn
thấp nhất là xã hội chủ nghĩa), giai cấp cách mạng phải thực hiện
cuộc đấu tranh lật đổ kiến trúc thượng tầng cũ thiết lập hệ thống
chuyên chính của mình, sử dụng nó như là một công cụ từng bước
đấu tranh cải tạo định hướng xây dựng và hoàn thiện cơ sỏ hạ
tầng mới.
b) Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của kiến trúc
thượng tầng với cơ sở hạ tầng.
Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng không phải phụ
thuộc một chiều vào cơ sở hạ tầng mà trong qúa trình phát triển,
chúng có những tác động qua lại với nhau và ảnh hưởng lớn đến
cơ sở hạ tầng cũng như các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã

hội.
Vai trò của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được
thể hiện trong các mặt sau:
Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng là thực
hiện nhiệm vụ đấu tranh thủ tiêu cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng cũ, xây dựng bảo vệ củng cố phát triển cơ sở hạ tầng

mới. Kiến trúc thượng tầng chính là công cụ của giai cấp thống trị
, các bộ phận k hác của kiến trúc thượng tầng cũng có tác động
mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng nhưng thường những tác động ấy
phảI thông qua hệ thống chính trị, pháp luật hay thể chế tương
ứng khác.
Trong điều kiện ngày nay vai trò của kiến trúc thượng tầng
không giảm đi mà ngược lại tăng lên và tác động mạnh đến tiến
trình lịch sử. Trái lại kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa bảo
vệ cơ sở hạ tầng xã hội xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng lại xã hội
mới. Chính mục đích đó quyết định tính tích cực càng tăng của
kiến trúc thượng tầng.
Tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng được
thể hiện trong 2 trường hợp trái ngược nhau nếu kiến trúc thượng
tầng phù hợp với quan hệ kinh tế tiến bộ thì sẽ thúc đẩy sự phát
triển của xã hội. Ngược lại, nếu kiến trúc thượng tầng là cơ sở của
những quan hệ kinh tế lỗi thời thì sẽ kìm hãm sự phát triển của
kinh tế xã hội. Những sự tác động kìm hãm đó chỉ là tạm thời
sớm muộn cũng bị cách mạng khắc phục. Về cơ bản, bản chất
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng chính là bản chất giữa
kinh tế và chính trị trong đó kinh tế đóng vai trò quyết định còn
chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế có tác động mạnh mẽ
trở lại.
II. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào sự

nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước.

1)
Loài người đã phải trải qua 5 hình thái kinh tế. Mỗi hình
thái sau văn minh tiến bộ hơn hình thái trước. Đầu tiên là hình
thái kinh tế tự nhiên (cộng sản nguyên thuỷ) con người chỉ biết
săn bắn hái lượm, ăn thức ăn sống, cuộc sống của họ phụ thuộc
hoàn toàn vào thiên nhiên, họ chưa biết chăn nuôi trồng trọt, chưa
biết tích luỹ thức ăn. Có thể nói đây là thời kỳ sơ khai của loàI
người. Sau đó đến hình thái chiếm hữu nô lệ con người đã văn
minh hơn họ không còn biết ăn tươi nuốt sống và đã biết lao động
để tạo ra của cải vật chất.
Hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ, quan hệ giữa hai giai
cấp đó là quan hệ bóc lột hoàn toàn của cải vật chất và con người.
Nô lệ biến thành công cụ lao động.
Tính tất yếu.
Hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa ra đời đưa loài
người lên nấc thang cao hơn của nền văn minh, xã hội đã phong
phú hơn về giai cấp. Giai cấp thống trị là giai cấp cơ bản. Thủ
đoạn bóc lột của chúng tinh vi hơn gấp nhiều lấn so với sự bóc lột
trước trong xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến. Người công
nhân làm thuê bị bóc lột sức lao động qua giá trị thặng dư, sự làm
việc quá sức Mặc dù tư bản xã hội chủ nghĩa tạo ra một lượng
của cảI vật chất rất lớn cho xã hội, nhưng bản chất bóc lột cùng
những mâu thuẫn khác là không thể đIều hoà. Phần đông con
người trong xã hội tư bản chủ nghĩa đều bị mất quyền lợi, mất
bình đẳng. Cả 3 chế độ nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa có

những đặc đIểm riêng nhưng nó đều là chế độ có khác những mâu
thuẫn đối kháng không thể đIêu hòa giữa giai cấp bóc lột và giai

cấp bị bóc lột, và dựa trên sự tư hữu về sản xuất. Giai cấp bóc lột
là giai cấp thống trị, mọi hoạt động về mặt kinh tế chính trị xã hội
đều chỉ phục vụ cho quyềnlợi của chính họ.
Một hình thái kinh tế xã hội tồn tại được thì nó phải có
những mặt tốt nhất định của nó chúng ta cũng không thể phủ
nhận những thành quả mà các hình thái kinh tế xã hội nói trên đã
đạt được. Xã hội cộng sản nguyên thuỷ là chế độ xã hội đầu tiên
đặt nền móng cho sự phát triển của loài người. Trong xã hội
chiếm hữu nô lệ giai cấp thống trị bắt đầu tích luỹ của cải cho xã
hội, quan trọng nhất là nó đưa con người ra khỏi thời kì mông
muội hoang dã. Xã hội phong kiến là bước trung gian để loài
người chuyển sang một nền văn minh mới nó hình thành những
tiền đề tốt cho sự ra đời của xã hội tư bản chủ nghĩa. Nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa không chỉ còn là sản xuất nông nghiệp, con
người đã được tiếp cận với sản xuất nông nghiệp với những thành
tựu khoa học, kỹ thuật nó đã tạo ra những khả năng phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất, nó tạo ra một khối lượng của cải vật
chất cho nhân loại bằng tất cả các xã hội trước cộng lại.
Hình thái kinh tế xã hội là chế độ xã hội bước đầu vừa phát
huy thừa kế những thành quả của chủ nghĩa tư bản, đồng thời
khắc phục những mâu thuẫn những hạn chế của tư bản chủ nghĩa.
Quan hệ sản xuất được xây dựng trên cơ sở của lực lượng sản

xuất và trình độ phát triển cao, cơ sở hạ tầng phục hợp với kiến
trúc thượng tầng.
Song Việt Nam từ một nền kinh tế tiểu nông muốn thoát ra
khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ một nước
phát triển bằng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải tiến
hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
2)

Mục tiêu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện
nay như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng
định là : xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở
vật chất kỹ thuật hiện đại cơ cấu kinh tế lập hiến, quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững
chắc dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh, và nước ta
đã chuyển sang một thời kỳ phát triển mới thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đây là những nhận định rất quan trọng
đối với những bước đi tiếp theo trong sự nghiệp đổi mới.
Công nghiệp hoá hiện đại hoá là một quá trình nhằm đưa
nước ta từ một nề công nghiệp lạc hậu thành một nền công nghiệp
hiện đại. Hiện đại hoá là mục tiêu cơ bản của văn minh hiện đại
thể hiện xu hướng lịch sử tiến bộ loài người.
Mục đích
Đó là nhiệm vụ quan trọng có tầm cỡ lớn đòi hỏi phải đi từ
cái cụ thể đến cái tổng thể. Trước hết cần hiểu rõ thực trạng và
những định hướng chung của Việt Nam. Trình độ lực lượng sản

xuất ở mức độ thấp, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lại không phải
từ chủ nghĩa tư bản mà từ bươcs quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chủ nghĩa tư bản.
Vì vậy, cần phải nhận thức đầy đủ và sáng tạo các quy luât
khách quan trong đó quy luật sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất. Là quy luật cơ bản nhất nhằm cải
tạo các thành phần kinh tế khai thác mọi tiềm năng sản xuất. Phát
huy tính chủ đạo sáng tạo của chủ thể các thành phần kinh tế
trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Chúng ta phải phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và
sử dụng các hình thức kinh tế trung gian quá độ trong thời kỳ quá

độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta mà Đại hội VI vạch ra là đúng
đắn.
Đại hội VII của Đảng cũng chỉ rõ “. . . phù hợp với sự phát
triển của lực lượng sản xuất thiết lấp từng bước quan hệ sản xuất
từ xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức
sở hữu phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng sản xuất chủ nghĩa tiến hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước”.
Ngày nay trên phạm vi toàn thế giới công nghiệp hoá hiện
đại hoá đang được coi là phương hướng chủ đạo, trải qua các
nước đang phát triển. Công nghiệp hoá thực chất là xây dựng cơ
sở vật chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội, đó không chỉ đơn giản là
tăng htêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp bằng nền

kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu, đổi mới căn bản về
công nghiệp.
Hơn nữa, sự vận dụng đúng đắn các quy luật quan hệ sản
xuất phảI phù hợp với tính chất và tình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là cần thiết. Bên cạnh đó từng bước xây dựng cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Đặc biệt là Nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Thực hiện đa dạng hoá về tình hình sản
xuất quản lý phân phối theo lao động.
3)
Trước đây trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới
đất nước chúng ta đã xác định công nghiệp hoá “là nhiệm vụ
trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” song nước ta
vẫn mắc phảI sai lầm bằng cách nhận thức về công nghiệp hoá.
Từ cuối những năm 70, đất nước đã lâm vào khủng hoảng
kinh tế xã hội với những khó khăn gay gắt. Trong sản xuất sản
phẩm làm ra không đủ chất lượng lạm phát càng tăng. Kìm hãm

sự phát triển kinh tế đất nước đời sống xã hội thấp kém, nghèo
khổ.
Thực trạng sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt
Nam.
Trước đây chúng ta do không thấy được quy luật lực lượng
sản xuất phát triển sẽ kéo theo quan hệ sản xuất phát triển nên
chúng ta đã đI ngược lạI quy luật này và muốn áp đặt một quan hệ
sản xuất để kéo theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sau khi
tiến hành đổi mới chúng ta đã tuân theo những quy luật chuyển

nền kinh tế sang nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động trên cơ
chế thị trường làm cho năng suất lao động tăng, lực lượng sản
xuất phát triển do đó quan hệ sản xuất càng phát triển theo.
Mặt khác phải tạo ra yếu tố tích cực biến các yếu tố chủ
quan vì nó có tính độc lập tương đối vì rằng ý thức có tính vượt
trước nên quan hệ sản xuất có khả năng vượt so với sản lượng sản
xuất. Đây là sự phù thuộc có tính vượt trước dựa trên cơ sở suy
luận khoa học lôgíc, dựa trên các quy luật cao hơn là sự vượt
trước kiến trúc thượng tầng so với cơ sở hạ tầng.
Đáng tiếc là vì chúng ta muốn rút ngắn thời kỳ quá độ nên
chúng ta đã tuyệt đối hoá nhân tố chủ quan và chính trị cho rằng
chỉ cần có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản thì chúng ta có thể làm
cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất. Mặt khác là do chưa hiểu thấu đáo về công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã hành động trái quy luật,
đã không làm những việc phải làm, giáo điều mô hình kinh tế của
người khác. Trong khi những mô hình kinh tế đó chỉ là sản phẩm
của tưởng tượng chủ quan duy ý thức.
Cả một thời gian dài chúng ta đã quá đề cao vai trò của quan
hệ sản xuất. Chúng ta đã không thấy rõ bước đi có tính quy luật

trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì thế phải tiến hành
ngay cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân.
Nền kinh tế tuy đạt được tốc độ tăng trưởng nhất định
nhưng sự tăng trưởng đó không có phát triển vì dựa vào bao cấp,

bởi chi ngân sách lạm phát vay nợ nước ngoài. Con người được
giải phóng và bị lâm vào tình trạng khủng hoảng, tăng chi phí lớn
của cải xã hội.
Do tư tưởng chủ quan duy ý chí nông nổi đi đến chủ nghĩa
xã hội nên đã mở rộng kinh tế quốc doanh quá mức chịu đựng
+ Trong nông nghiệp: nông nghiệp nước ta nhiều năm lâm vào
khủng hoảng.Trước đây do nóng vội gượng ép và vi phạm nguyên
tắc cơ bản của hợp tác xã là tự nguyện mang tính chất cương hữu
mọi người không làm nghề gì cũng đều phảI vào hợp tác xã. Mà
trong quá trình hình thành nên tập thể này lạI chưa được chuẩn bị
kỹ, một mặt dựa vào kinh tế quốc dân, mặt khác dựa vào bao cấp
nên dẫn đén tình trạng vốn ít, trang bị đơn giản, trình độ tổ chức
kinh doanh kém.
Nông nghiệp lạc hậu làm cho sử dụng lãng phí nguồn đất đai,
sức lao động, vốn cơ sở vật chất của xã hội làm cho thị trường
rộnglớn của nông thôn không phát triển và từ đó làm hãm các
ngành phát triển.Về xã hội sự lạc hậu của nông nghiệp và nông
thôn làm cho khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn
ngày càng lớn. Đồng thời còn tăng thêm làn sóng di dân từ nông
thôn vào thành thị tạo nên những tệ nạn xã hội ảnh hưởng trật tự
an ninh.
+ Trong công nghiệp: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng coi
đó là giải pháp cơ sở vật chất - kỹ thuật cho công nghiệp mà
không coi trọng đúng mức của phát triển nông nghiệp và công


nghiệp nhẹ. Công nghiệp hoá cũng được hiểu một cách đơn giản
là quá trình xây dựng một nền sản xuất được cơ hí hoá trong tất cả
các ngành kinh tế quốc dân. Chúng ta thực hiện chủ nghĩa xã hội
ồ ạt với quy mô lớn, quốc hữu hoá toàn bộ các xí nghiệp tư nhân.
Kế hoạch kinh tế của nước ta hầu như dậm chân tại chỗ với
những viện nghiên cứu bao cấp chỉ đạo thì làm sao không thể phát
huy được năng lực sãng tạo với đồng vốn ít không đủ để cho
nghiên cứu, không cung cấp đầy đủ kinh phí cho các việc ứng
dụng nó vào thực tiễn sản xuất. Trong khi đó nhìn ra bên ngoài
khoa học kỹ thuật của các nước phát triển như vũ bão và trở
thànhlực lượng sản xuất trực tiếp thấm vào tất cả các yếu tố của
con người.
4)
Để thực hiện được mục tiêu Đảng đề ra là làm cho dân giàu
nước mạnh xã hội công bằng văn minh, đất nước chuyển mình lên
chủ nghĩa xã hội thì đi đôi với việc củng cố, hoàn thiện quan hệ
sản xuất. Chúng ta nhất thiết phải phát triển lực lượng sản xuất, vì
không có lực lượng sản xuất hùng hậu với năng suất cao thì
không thể nói đến công nghiệp xã hội.
Một số biện pháp.
Mà muốn có lực lượng sản xuất hùng hậu và năng suất lao
động cao thì không chỉ dựa vào nông nghiệp, sử dụng lao động
thủ công mà phải phát triển công nghiệp đi lên đổi mới công nghệ
ngày càng hiện đại . Nói cách khác là phải tiến hành theo hiện đại
hoá. Đó là bước đi tất yếu của một quốc gia muốn đi lên từ một

nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn và đó cũng là xu thế chung của
lịch sử.
Một lần nữa ta khẳng định tính tất yếu của công cuộc hoá
hiện đại hoá ở Việt Nam. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đưa đất

nước ta vượt qua một chặng đường dài đi lên công nghiệp xã hội.
Đó là sự tụt hậu ngày càng xa của các nước đang phát triển so với
các nước phát triển. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là để xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Nhận định được những điều nói trên và những bài học kinh
nghiệm rút ra từ thực tế ở Việt Nam, Đảng ta đã xác định lại tư
tưởng nhận thức một cách đúng đắn hơn.
A) Xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế mới.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá ngày nay không thể hiểu
như trước kia. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá ngày nay không
phải đơn thuần là sự phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp mà
còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với sự đổi
mới cơ bản về kinh tế và công nghiệp hoá - hiện đại hoá tất cả các
ngành kinh tế quốc dân. Từ đó tạo ra sự cân đối hài hoà giữa các
ngành trong tổng thể nền kinh tế quốc doanh.
Cần phải đổi mới cả tư duy suy nghĩ và hành động. Công
cuộc đổi mới mà Đảng đã lựa chọn là đúng đắn, con đường đó là
công nghiệp hoá - hiện đại hoá với việc hình thành và chuyển
dịch kinh tế.
* Phương hướng cụ thể.

Điều đầu tiên phải giải quyết là chuyển đổi cơ cấu “công -
nông nghiệp và dịch vụ” phù hợp với xu hướng “mở” của nền
kinh tế. Vấn đề này được giải quyết tạo nền tảng vững chắc cho
việc phân công lại lao động hợp lý trong các ngành kinh tế và
điều chỉnh hợp lý với cơ cấu đầu tư.
Hướng chuyển dịch đó là giá trị các ngành dịch vụ tăng
nhanh, tỉ lệ sản lượng chiếm phần lớn trong GDP Tỉ trọng giá trị
sản lượng nông nghiệp giảm dần ( nhưng lượng tuyệt đối tăng
hàng năm).

+ Nông nghiệp (kể cả lâm ngư nghiệp): trong một số năm trước
mắt vẫn được coi là mặt trận hàng đầu. Nhà nước cần có những
chính sách khuyến khích đầu tư vốn khoa học công nghệ nhằm
phát huy thế mạnh tiềm năng của các vùng, hình thành những
vùng chuyên canh tạo cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp lí đa dạng
phù hợp với điều kiện sinh thái ở nước ta .
+ Công nghiệp: hình thành một số ngành công nghệ hiện đại có
hàm lượng khoa học - công nghệ hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở
những tiền đề cần phảI đạt được đó là: điện tử tin học, công
nghiệp sinh học, vật liệu mới và cơ khí chính xác.
Các ngành thuộc kết cấu hạ tầng phảI đI trước một bước gồm
năng lượng(ĐIện than, dầu khí) giao thông vận tải.
Từ nay đến năm 2010 phải phát triển tiếp một số ngành sản
xuất tiêu dùng và xuất khẩu đi đôi với việc hình thành một số
công nghiệp tư liệu cần thiết.

×