BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH
------
ĐỀ ÁN
LÍ THUYẾT TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ
Đề tài:
Ý KIẾN VỀ VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG CỦA NHTW HIỆN NAY
Sinh viên thực hiện : Hoàng Thị Thu Trang
Lớp : Tài chính Quốc tế 49
Giáo viên hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Minh Huệ
Hµ Néi, 06/2010
LỜI MỞ ĐẦU
Lãi suất là giá cả sử dụng vốn, gắn liền với hoạt động tín dụng ngân
hàng, đồng thời gắn liền với mọi hoạt động kinh tế có liên quan , mà trực
tiếp là người gửi tiền và người vay vốn.
Lãi suất cũng là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ quốc
gia do Ngân hàng Trung Ương (NHTW) điều hành. Nó có tác động rất lớn
đối với việc tăng hoặc giảm khối lượng tiền lưu thông, thu hẹp hay mở
rộng tín dụng, khích lệ hay hạn chế huy động vốn, kích thích hay cản trở
đầu tư, tạo thuận lợi hay khó khăn cho hoạt động ngân hàng. Một chính
sách lãi suất đúng đắn sẽ có tác dụng thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá
, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ngược lại khi chính sách lãi suất thiếu chuẩn
xác sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế. Và vai trò đó của chính sách
lãi suất ngày càng trở nên quan trọng và phức tạp hơn cùng với quá trình đổi
mới hoạt động ngân hàng trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng phát
triển sâu sắc.
Gần đây, 26/02/2010 NHNN ban hành thông tư 07/2010/TT-NHNN
cho phép các NHTM được thực hiện lãi suất thoả thuận đối với tín dụng
trung và dài hạn, có thể cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với các món
vay ngắn hạn có phương án hiệu quả tuy nhiên lãi suất huy động vẫn bị
khống chế ở mức trần 10,5%/ năm. Điều này gây ra hai chiều ý kiến: Một,
nên bỏ quy định về lãi suất trần huy động để giải tỏa ách tắc trong hệ thống
tiền tệ; Hai, quan ngại việc bỏ trần lãi suất huy động sẽ tạo ra một cuộc đua
lãi suất trong hệ thống ngân hàng như năm 2008 sẽ lặp lại.
Vì vậy, em chọn để tài nghiên cứu :”Ý kiến về việc điều hành
chính sách lãi suất tín dụng Ngân hàng hiện nay của NHTW”.
Mục tiêu nghiên cứu đề tài: có nên bỏ lãi suất huy động trần trong
khi thực hiện lãi suất cho vay theo thoả thuận hay không ?
Phương pháp nghiên cứu: - Phân tích tổng hợp
2
Phạm vi nghiên cứu: Tính từ năm 1995, NHNN đã điều chỉnh 4 lần
lãi suất huy động vốn và 5 lần lãi suất cho vay.Do giới hạn của đề tài nên
em chỉ đánh giá việc thực hiện chính sách lãi suất tín dùng ngân hàng gần
đây nhất là lãi suất huy động khống chế trần còn lãi suất cho vay được thực
hiện theo cơ chế thoả thuận.
Kết cấu để tài:
Chương I : Cơ sở lí luận của chính sách lãi suất tín dụng Ngân hàng
Chương II: Đánh giá việc thực hiện chính sách lãi suất tín dụng của
NHNN hiện nay.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Minh Huệ đã giúp đỡ
em thực hiện đề án này. Do hiểu biết còn hạn hẹp, nên đề án không tránh
khỏi khuyết điểm, em mong nhận được lời góp ý của cô giáo để em có thể
hoàn thành những đề tài sau tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
3
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1. Khái niệm lãi suất
Trong nền kinh tế thị trường tồn tại nhiều phạm trù kinh tế - tài chính
trong đó tín dụng và lãi suất tín dụng là một trong số những phạm trù quan
trọng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động vay mượn, quan hệ sử dụng vốn giữa
người đi vay và người cho vay theo nguyên tắc có hoàn trả. Đối với chủ thể
thừa vốn, tín dụng mang đến cho họ cơ hội không những bảo toàn được
vốn mà còn tạo thu nhập. Đối với các chủ thể thiếu vốn, tín dụng giúp họ
bổ sung vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh hoặc đời sống. Như
vậy, nhờ có hoạt động tín dụng mà có một bộ phận lớn nguồn vốn trong
nền kinh tế được huy động, tập trung và phân phối từ nơi tạm dư thừa sang
nơi thiếu để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong nền kinh
tế.
Công cụ và là đòn bẩy quan trọng không thể thiếu được trong hoạt
động tín dụng là lãi suất. Lãi suất tín dụng ngân hàng là tỷ lệ % giữa lợi tức
và tổng số tiền vay trong một thời kì nhất định. Như vậy, lãi suất chính là
giá cả sử dụng tiền vốn, gắn liền với hoạt động tín dụng ngân hàng, đồng
thời gắn liền với mọi hoạt động kinh tế có liên quan đến gửi tiền và vay
tiền.
Mặt khác, ở tầm vĩ mô, lãi suất còn là một công cụ điều tiết kinh tế rất
nhạy bén và hiệu quả của chính sách tiền tệ Quốc gia. Thông qua việc thay
đổi mức cơ cấu lãi suất trong từng thời kì nhất định, Chính phủ có thể tác
động đến quy mô và tỷ trọng các loại vốn đầu tư, do vậy mà có thể tác
động đến quá trình điều chỉnh cơ cấu ,sản lượng, tỷ lệ thất nghiệp và tình
trạng lạm phát trong nước. Hơn thế nữa, trong những điều kiện nhất định
4
của nền kinh tế mở, chính sách lãi suất còn được sử dụng như một công cụ
góp phần điều tiết đối với các luồng vốn đối với một nước, tác động đến tỷ
giá và điều tiết sự ổn định của tỷ giá. Điều này không những tác động đến
đầu tư phát triển mà còn tác động trực tiếp đến cán cân thanh toán và các
quan hệ thương mại Quốc tế của nước đó với nước ngoài.
Chính vì những điều như vậy mà ở các nước kinh tế thị trường phát
triển và theo đuổi chính sách tự do hoá tái chính( financial liberlization), lãi
suất được hình thành trên cơ sở thị trường, tức là do quan hệ cung và cầu
về vốn trên thị trường quyết định.
2.Có nhiều tiêu chí phân loại lãi suất tín dụng
2.1 căn cứ vào thời hạn tín dụng, lãi suất tín dụng ngân hàng chia thành
ba loại;
+Lãi suất tín dụng ngắn hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng ngắn
hạn
+ Lãi suất tín dụng trung hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng trung
hạn
+ Lãi suất tín dụng d ài hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng d ài
hạn
2.2 Căn cứ vào mức độ ổn đinh của lãi suất thì lãi suất được chia thành
lãi suất thả nổi và lãi suất cố định.
Lãi suất thả nổi là lãi suất thay đổi lên xuống còn lãi suất cố định là lãi
suất được áp dụng trong suốt thời hạn tín dụng.
2.3 Nếu căn cứ vào loại hình lãi suất tín dụng, lãi suất được chia thành
nhiều loại khác nhau.
Lãi suất tiền gửi: là lãi suất trả cho các khoản tiền gửi, lãi suất này có
nhiều mức khác nhau tuỳ thuộc vào thời hạn gửi, quy mô tiền gửi.
5
Lãi suất tiền vay: là lãi suất mà người đi vay phải trả cho Ngân hàng
do việc sử dụng vốn vay của ngân hàng, nó được áp dụng để tính lãi tiền
vay mà khách hàng phải trả cho ngân hàng.
Lãi suất chiết khấu: khi ngân hàng cho vay dưới hình thức chiết khấu
thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của
khách hàng, nó được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá và được khấu trừ
ngay khi ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng .
Lãi suất tái chiết khấu: áp dụng khi ngân hàng trung ương tái cấp vốn
cho các ngân hàng dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc các
giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của Ngân hàng. Nó cũng
được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của các giấy tờ có giá và cũng được
và cũng được khấu trừ ngay khi NHTW cấp tiền vay cho NHTM.
Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho
nhau vay trên thị trường liên ngân hàng, nó được hình thành bởi quan hệ
cung cầu tiền của các tổ chức tín dụng và chịu sự chi phối của lãi suất tái
cấp vốn của NHTW.
Lãi suất cơ bản là lãi suất được các NHTM sử dụng làm cơ sở để ấn
định mức lãi suất kinh doanh của mình.
Một vấn đề quan trọng trong việc tìm hiểu khái niệm lãi suất tín dụng
ngân hàng đó là phải phân biệt được lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa.
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ
vào thời điểm nghiên cứu hay nói cách khác là lãi suất chưa trừ đi tỷ lệ lạm
phát. Lãi suất danh nghĩa thường được công bố chính thức trong các quan
hệ tín dụng, trên các phương tiện thông tin đại chúng. Lãi suất thực tế là lãi
suất được điều chỉnh lại cho đúng theo nghĩa thay đổi dự tính về lạm phát.
Mối quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế được khái quát
thành phương trình sau đây.
Lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực tế + tỷ lệ lạm phát hay
6
Lãi suất thực tế = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát
Vì được điều chỉnh lại theo đúng nghĩa những thay đổi về lạm phát
nên lãi suất thực tế phản ánh chính xác hơn thu nhập từ việc cho vay cũng
như chí phí thật của việc cho vay.
3.Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước đóng vai trò trung
tâm trong hầu hết tất cả các hoạt động kinh tế xã hội trong đó có thị trường
tài chính. Vì lẽ đó, lãi suất trong các nước đó đều do Nhà nước quy định,
thậm chí một số nước còn quy định đến cả mức chênh lệch giữa lãi suất
tiền gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng. Sự biến động của lãi suất
trong các điều kiện như vậy phần lớn phụ thuộc vào ý chí của Chính phủ và
không vận động theo bất cứ một quy luật nào.
Trái lại, trong các nền kinh tế thị trường, Nhà nước chỉ đóng vai trò là
người điều tiết vĩ mô thị trường tài chính hoạt động theo cơ chế tự do hoá,
cơ chế hình thành lãi suất là cơ chế thị trường. Lãi suất vì vậy mà chịu ảnh
hưởng của rất nhiều nhân tố vĩ mô cũng như nhiều nhân tố khác.
3.1 Ảnh hưởng của cung cầu tiền tệ:
Lãi suất là giá cả sử dụng vốn vì vậy bất kì sự thay đổi nào của cung
và cầu hoặc cả cung và cầu tiền tệ không cùng một tỷ lệ đều sẽ là thay đổi
mức lãi suất trên thị trường.Tuy mức biến động của lãi suất ít nhiều phụ
thuộc vào các quy định của Chính phủ và NHTW , song đa số các nước có
nền kinh tế thị trường đều dựa vào nguyên lí này để xác định lãi suất. Do
vậy, có thể tác động vào cung cầu thị trường vốn để thay đổi lãi suất trong
nền kinh tế cho phù hợp với mục tiêu, chiến lược trong từng thời kì chẳng
hạn như thay đổi cơ cấu vốn đầu tư, tập trung vốn cho các dự án trọng
điểm. Mặt khác, muốn duy trì sự ổn định của lãi suất thì sự ổn định của thị
trường vốn phải được đảm bảo vững chắc.
7
3.2 Ảnh hưởng của lạm phát kì vọng
Khi lạm phát được dự đoán tăng trong một thời kì nào đó, lãi suất sẽ
có xu hướng tăng.Điều này là xuất phát từ mối quan hệ giữa lạm phát thực
và lãi suất danh nghĩa và để duy trì lãi suất thực không đổi, tỷ lệ lạm phát
tăng đòi hỏi lãi suất danh nghĩa phải tăng tương ứng. Mặt khác, công chúng
dự đoán tăng sẽ dành phần tiền tiết kiếm của mình cho việc dự trữ hàng hóa
hoặc những dạng thức phi tài sản khác như vàng, ngoại tệ mạnh hoặc đầu
tư vốn ra nước ngoài nếu có thể. Tất cả những điều này làm giảm cung quỹ
cho vay và gây áp lực tăng lãi suất trên thị trường. Từ mối quan hệ này cho
thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của việc khắc phục tâm lí lạm phát đối với
việc ổn định lãi suất, sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế.
3.3 Ảnh hưởng của tỷ suất lợi nhuận bình quân
Tỷ suất lợi nhuận bình quân của các dự án bình quân phải cao hơn lãi
suất các khoản vay tài trợ cho dự án. Có như vậy các nhà đầu tư mới có lợi
nhuận từ các dự án đầu tư và phấn khởi mở rộng đầu tư. Do đó, cách đánh
giá, lựa chọn chính sách lãi suất phù hợp sẽ dựa trên cơ sở ước lượng tỷ
suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế.
3.4 Ảnh hưởng của bội chi ngân sách
Bội chi ngân sách ở trung ương và địa phương trực tiếp làm cho cầu
tiền tăng và làm tăng lãi suất. sau nữa bội chi ngân sách sẽ tác động đến
tâm lí công chúng về gia tăng mức lạm phát và sẽ gây ra áp lực lạm phát.
Chính phủ thường tài trợ cho thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành trái
phiếu trên thị trường tăng lên làm cho giá trái phiếu có xu hướng giảm và
lãi suất thị trường có xu hướng tăng. Mặt khác, do tài sản có của NHTM
tăng ở khoản mục trái phiếu chính phủ, dự trữ vượt mức giảm nên lãi suất
ngân hàng cũng tăng.
8
3.5 Những thay đổi trong thuế
Thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp luôn có tác
động đến lãi suất. Khi các hình thức thuế này tăng sẽ điều tiết đi một phần
thu nhập của các cá nhân và tổ chức cung ứng dịch vụ tín dụng hay những
người tham gia kinh doanh chứng khoản. Mọi người đều quan tâm đến thu
nhập thực tế hơn là thu nhập danh nghĩa.Do vậy, để duy trì một mức lợi
nhuận thực tế nhất định, họ phải cộng thêm lãi suất cho vay những thay đổi
của thuế.
3.6 Ảnh hưởng của tỳ giá hối đoái kì vọng
Khi đồng nội tệ yếu, bị những sức ép lớn do những dao động của
những đồng ngoại tệ mạnh thì tâm lí phổ biến của người dân là coi ngoại tệ
mạnh như một trong những loại tài sản tiết kiệm an toàn. Chẳng hạn, khi
hiện tượng đô la hóa xảy ra, người dân sẽ ồ ạt chuyển sang tiết kiệm bằng
ngoại tệ cụ thể là đô la Mỹ. Làm như vậy người gửi hưởng lợi kép gồm lãi
suất tiền gửi và sự lên giá của đồng đôla Mỹ. Sự dịch chuyển này tạo ra sự
khan hiếm nội tệ ở các NHTM và buộc các ngân hàng này phải tăng lãi
suất tiền gửi đồng nội tệ để huy động cho vay. Như vậy, khi xây dựng
chính sách lãi suất cần phải xem xét đến khía cạnh tỷ giá để giảm bớt mức
chênh lệch lợi tức lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ hay lãi suất cho vay
bằng nội tệ và ngoại tệ. Điều này làm giảm bớt sự dịch chuyển không mong
đợi từ tiền gửi nội tệ sang đô la khi đồng đô la lên giá.
Ngoài những yếu tố trên , lãi suất còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố
thuộc về đới sống xã hội khác như tình hình về kinh tế, chính trị cũng như
những biến động tài chính Quốc tế như các cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ trên thế giới, các luồng vốn đầu tư ra vào đối với các nước….
4.Các nguyên tắc cơ bản hình thành lãi suất tín dụng ngân hàng
Lãi suất tín dụng chính là giá cả của tín dụng, là tỷ lệ % tính theo một
thời hạn xác định( ngày, tuần, tháng, quý, năm….) dùng làm căn cứ để tính
9
toán số lợi tức tín dụng mà các chủ thể tín dụng phải trả ( đối với chủ thể đi
vay) hoặc nhận được ( đối với chủ thể cho vay) để điều hoà lợi ích của các
chủ thể tham gia quan hệ tín dụng. Do vậy, việc xác định lãi suất tín dụng
sao cho hợp lí là một vấn đề vô cùng quan trọng sao cho đảm bảo được
được lợi ích giữa các chủ thể trong quan hệ tín dụng.
Trước hết, lãi suất tín dụng phải đảm bảo một phần thu nhập hợp lí
cho người gửi tiền vào ngân hàng. Do vậy trong thực tế, lãi suất thực tế
phải lớn hơn hoặc bằng tỷ lệ lạm phát tức là:
Lãi suất thực tế = tỷ lệ lạm phát + tỷ lệ người khuyến khích người gửi
tiền
Mặt khác, lãi suất tín dụng phải đảm bảo một phần thu nhập hợp lí cho
các tổ chức tín dụng( TCTD) và NHTM tức là:
Lãi suất cho vay = lãi suất tiền gửi + Các chi phí hợp lí trong hoạt
động tín dụng ngân hàng + Bù đắp rủi ro trong hoạt động ngân hàng + tỷ lệ
thu nhập hợp lí của ngân hàng.
Đồng thời lãi suất cho vay của ngân hàng phải đảm bảo phát triển nền
kinh tế tức là phải đảm bảo cho những người vay vốn ngân hàng có thu
nhập hợp lí nghĩa là :
Lãi suất cho vay < tỷ lệ lợi nhuận bình quân của nền kinh tế.
Do vậy, có thể khẳng định rằng giới hạn tối đa của lãi suất tín dụng
ngân hàng nói chung là tỷ suất lợi nhuận bình quân, còn giới hạn thấp nhất
của lãi suất là chỉ số lạm phát vì nó sẽ làm cho người gửi tiền bảo toàn vốn.
Tóm lại, để lãi suất tín dụng trở thành đòn bẩy kích thích và mở rộng
các quan hệ tín dụng trong nền kinh tế thì phải đảm bảo lãi suất tín dụng
được kiểm soát trong khung giới hạn sau đây:
Tỷ lệ lạm phát <= lãi suất tín dụng <= tỷ suất lợi nhuận bình quân
10
Nếu vượt quá giới hạn trên, lãi suất tín dụng sẽ gây ra tác động tiêu
cực đối với nền kinh tế- xã hội, hệ thống ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng bất
ổn, rối loạn.
5. Chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng
Lãi suất là công cụ có ý nghĩa khi thực hiện chính sách tiền tệ, NHTW
sẽ căn cứ vào thực trạng của nền kinh tế để quy định một số chỉ tiêu lãi suất
áp dụng trong toàn hệ thống ngân hàng. Thông thường, người ta quy định
hai chỉ tiêu cơ bản là lãi suất tái chiết khấu và lãi suất cơ bản.
5.1 Lãi suất cơ bản
Lãi suất cơ bản là lãi suất có tác dụng chi phối tất cả các loại lãi suất
khác hình thành trong nền kinh tế thị trường. Đó là loại lãi suất chiếm vị trí
quan trọng trong cơ chế thị trường.
Lãi suất cơ bản do NHTW xác định và công bố trên chính sách tình
hình kinh tế của thị trường và mục tiêu của chính sách tiền tệ Quốc gia.
Lãi suất cơ bản có một số chức năng nhất định. Nó là công cụ để điều
hành chính sách tiền tệ Quốc gia. Qua lãi suất cơ bản, NHTW tác động
vào thị trường tiền tệ, thúc đẩy mở rộng hay thu hẹp tín dụng, giữ mức
tương quan cần thiết giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ. Mặt khác, lãi suất
cơ bản là giá cả sử dụng vốn trong hoạt động tín dụng, là cơ sở hình thành
nên lãi suất thị trường, tức là lãi suất kinh doanh tiền tệ. Nó là điểm dung
hoà một cách tự nhiên lợi ích của người gửi tiền , của người vay tiền và của
TCTD.
Lãi suất cơ bản được xác định một cách trực tiếp dưới nhiều góc độ.
Nếu đứng trên góc độ bảo vệ lợi ich của khách hàng ( người gửi tiền và
người vay vốn) người ta quy định lãi suất tiền gửi tối thiểu và lãi suất cho
vay tối đa. Điều này có nghĩa là, vì lợi ích của người gửi tiền, các TCTD
không được hạ lãi suất tiền gửi một cách tuỳ tiện và vì yêu cầu phát triển
sản xuất, TCTD không được tăng lãi suất cho vay quá mức, tạo khuôn khổ
11