Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.88 KB, 86 trang )


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Trang
Bảng 1:Tình hình biến động vốn huy động..................................................32
Bảng 2: Tình hình cho vay theo thời hạn.....................................................34
Bảng 3: Cơ cấu vốn huy động theo kỳ hạn..................................................39
Bảng 4: Cơ cấu vốn huy động theo loại tiền................................................42
Bảng 5: Cơ cấu vốn huy động theo hình thức huy động............................45
Bảng 6: Cơ cấu vốn huy động theo đối tượng..............................................50
Biểu đồ 1: Biến động vốn huy động ..............................................................32
Biểu đồ 2: Cơ cấu vốn huy động theo kỳ hạn..............................................40
Biểu đồ 3: Cơ cấu vốn huy động theo loại tiền ...........................................42
Biểu đồ 4: Cơ cấu vốn huy động theo hình thức huy động........................45
Biểu đồ 5: Cơ cấu vốn huy động theo đối tượng huy động........................50
LỜI CẢM ƠN!
Để hoàn thành Luận văn tốt nghiệp này, em xin cảm ơn sâu sắc tới các
cô chú, anh chị công tác tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Hà Nội đã tạo nhiều điều kiện và giúp đỡ em trong quá trình thực
tập.
Em xin chân thành cảm ơn tới T.S Hoàng Xuân Quế - người đã nhiệt
tình chỉ bảo và hướng dẫn em trong thời gian thực tập tốt nghiệp. Cùng với
vốn hiểu biết sâu sắc về Ngân hàng thương mại nói chung và huy động vốn ở
Ngân hàng thương mại Nhà nước nói riêng, thầy đã hướng dẫn em tìm hiểu,
nghiên cứu tài liệu để thực hiện Luận văn tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
LỜI MỞ ĐẦU
Hệ thống ngân hàng thương mại với chiến lược huy động vốn trong và
ngoài nước đang là vấn đề hết sức quan trọng cả về lý luận khoa học và thực
tiễn trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam trước vận hội mới, thách thức mới


của quá trình hội nhập với khu vực và thế giới. Trong điều kiện kinh tế Việt
Nam đã, đang và chủ yếu trong tương lai là một bộ phận của chiến lược kinh
tế toàn cầu, đối với các nhà kinh tế - đặc biệt là các nhà kinh tế trong lĩnh vực
Tài chính - Ngân hàng không thể không nhận thức và vận dụng các vấn đề về
vốn, hình thức tạo vốn, thị trường vốn trong các nền kinh tế thị trường vào
thực tiễn Việt Nam để trên cơ sở đó xác lập một chiến lược huy động vốn qua
hệ thống Ngân hàng thương mại nhằm thỏa mãn nhu cầu vốn cho sự nghiệp
phát triển của đất nước.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, hệ
thống Ngân hàng thương mại nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở
thành “ kênh huy động vốn quan trọng ” đóng vai trò chủ chốt trong nhu cầu
giao lưu vốn của nền kinh tế, thực hiện huy động một khối lượng đáng kể vốn
trong và ngoài nước, thúc đẩy đầu tư cho sản xuất kinh doanh của các thành
phần kinh tế.
Tuy nhiên các Ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn chưa thực sự phát
huy hết vai trò của mình vì nguồn vốn huy động được còn chiếm tỷ trọng nhỏ
so với nguồn vốn của xã hội; Chất lượng tín dụng thấp; Tỷ lệ nợ quá hạn
lớn…Bên cạnh đó, thị trường vốn phát triển chậm, tỷ lệ sử dụng tiền mặt còn
lớn, các dịch vụ Tài chính - Ngân hàng chưa đa dạng. Nguồn vốn trong dân
cư chưa được huy động đúng mức, chưa có chính sách đủ mạnh để khuyến
khích dân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
3
Xung quanh những vấn đề tưởng như xưa cũ này của kinh tế thị trường lại
đặt ra nhiều điều mới mẻ và cực kỳ bức xức đối với một nước bắt đầu bước vào
giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới - đầy ắp những cạnh tranh, cam go và vận hội
để tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Trong bối cảnh đó chúng
ta không thể không thành công trên con đường hiện đại hóa nền kinh tế đất nước
nếu không sử dụng linh hoạt và phù hợp các công cụ về vốn.
Do đó, để đủ sức cạnh tranh hội nhập khu vực và quốc tế các ngân hàng
thương mại cả nước nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát

triển Nông thôn Hà Nội nói riêng phải có chiến lược về huy động vốn, sử
dụng hiệu quả các nguồn vốn trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định,
vốn bên ngoài là quan trọng. Nhất là tại thành phố lớn như thủ đô Hà Nội, bên
cạnh sự cạnh tranh quyết liệt trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của các ngân
hàng thương mại thì nhu cầu vốn để phục vụ nhu cầu của khách hàng đặc biệt
là nguồn vốn trung và dài hạn là rất lớn.
Trong bối cảnh đó, dù bản thân Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Hà Nội luôn luôn giữ vững vị trí quan trọng và đóng góp
lớn trong sự phát triển của cả nước nói chung và Thành phố Hà Nội nói riêng.
Nhưng nếu ngân hàng không có sự mở rộng quy mô vốn không có cơ cấu vốn
hợp lý trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì không thể tồn tại
và phát triển được.
Chính vì thế, huy động vốn là vấn đề nóng bỏng đối với Chi nhánh Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội trong quá trình phát triển
của mình. Do đó, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Giải pháp tăng cường hoạt
động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Hà Nội ” làm đề tài cho Luận văn tốt nghiệp của mình.
4
Nội dung Luận văn tốt nghiệp gồm 3 phần:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội
ChươngIII: Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội.
Do còn hạn chế về mặt lý luận cũng như kiến thức thực tiễn nên Luận
văn tốt nghiệp của em không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế, em
rất mong được sự chỉ bảo góp ý của cô chú và các thầy cô giáo để Luận văn
tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
5

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Để bắt đầu hoạt động kinh doanh của mình, ngân hàng phải có một số
vốn nhất định. Đây là điều kiện không thể thiếu được để một ngân hàng thành
lập và tiến hành các hoạt động kinh doanh. Vốn kinh doanh của các ngân
hàng thương mại là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các tài sản Có của ngân
hàng. Vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại được hình thành từ nhiều
nguồn khác nhau như vốn chủ sở hữu, vốn huy động tiền gửi, vốn từ phát
hành tín phiếu…..
Như vậy, nguồn vốn của ngân hàng thương mại là toàn bộ các nguồn
tiền ngân hàng tạo lập và huy động được để cho vay, đầu tư hay đáp ứng các
nhu cầu khác nhau trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Nguồn
vốn của ngân hàng mà chúng ta quan tâm chủ yếu là nguồn vốn huy động
trong quá trình hoạt động.
Cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm:
1.1.1 Nguồn vốn chủ sở hữu
Điều kiện hàng đầu để khởi nghiệp trước khi được phép thành lập ngân
hàng là phải có đủ vốn ban đầu theo luật định. Vốn tự có là điều kiện pháp lý
cơ bản, là điểm xuất phát để tổ chức hoạt động ngân hàng, đồng thời cũng là
yếu tố tài chính quan trọng nhất trong việc đảm bảo các khoản nợ đối với
khách hàng. Chính vì vậy quy mô vốn chủ sở hữu là yếu tố quyết định quy
mô vốn và quy mô tài sản có.
Xét về đặc điểm, nguồn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số nguồn
vốn hoạt động kinh doanh của ngân hàng (khoảng 5% - 8%) nhưng lại là
6
nguồn vốn rất quan trọng bởi vì nó không những thể hiện thực lực quy mô của
ngân hàng mà còn là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác và đây cũng là
nguồn vốn khởi đầu tạo nên uy tín của ngân hàng đối với khách hàng.

Theo đà phát triển như hiện nay thì nguồn vốn này sẽ được gia tăng về
số lượng tuyệt đối, song nó vẫn luôn chiếm tỷ trọng nhỏ trong kết cấu nguồn
vốn. Vốn tự có càng lớn thì sức chịu đựng của ngân hàng càng mạnh khi nền
kinh tế và hoạt động ngân hàng gặp khó khăn. Vốn tự có càng lớn thì khả
năng sinh lời càng lớn vì nó có thể đa dạng hoá các nghiệp vụ ngân hàng, có
nhiều cơ hội để kinh doanh hơn trên cơ sở nguồn vốn sẵn có của mình.
Tuy nhiên, không phải vốn tự có càng lớn càng tốt bởi vốn này quá lớn
sẽ làm cho tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có càng nhỏ. Vốn này cũng không
nên quá nhỏ vì sẽ làm mất đi tính chủ động và gây trở ngại cho hoạt động của
ngân hàng
Nguồn hình thành vốn chủ sở hữu của Ngân hàng thương mại rất đa
dạng tuy theo tính chất sở hữu của Ngân hàng thương mại đó.
1.1.1.1 Vốn điều lệ
Vốn điều lệ là vốn đã được cấp hoặc được đóng góp của các chủ sở
hữu. Tuỳ theo tính chất của ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu
khác nhau.
Nếu là ngân hàng thương mại quốc doanh vốn điều lệ là vốn do ngân
sách cấp dưới hình thức bằng tiền và trái phiếu chính phủ. Nếu là ngân hàng
cổ phần vốn điều lệ là vốn do các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần
hoặc cổ phiếu. Nếu là ngân hàng liên doanh thì do các bên liên doanh góp,
nếu là ngân hàng tư nhân thì vốn thuộc sở hữu tư nhân.
1.1.1.2 Vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Thứ nhất: Nguồn bổ sung từ lợi nhuận giữ lại trong điều kiện thu nhập
ròng dương, chủ ngân hàng thường có 2 xu hướng là chi trả cổ tức cho các cổ
đông và tăng vốn bằng cách chuyển thu nhập đó thành vốn để đầu tư. Trong
7
trường hợp số lợi nhuận để lại của ngân hàng đủ đáp ứng các nhu cầu thì đây
chính là hình thức vốn cổ phần tốt nhất mà ngân hàng nên sử dụng. Nhưng để
sử dụng phương thức này thì ngân hàng phải đảm bảo có thể đáp ứng toàn bộ
nhu cầu vốn của mình mà không làm tổn hại đến các cổ đông hoặc giá cổ

phiếu. Lợi nhuận để lại không phải là một nguồn vốn cho không (chi phí của
lợi nhuận để lại sẽ bao gồm cả giá trị cao hơn của số cổ tức được trả bằng tiền
mặt hôm nay so với mức cổ tức sẽ nhận được trong những năm sắp tới và giá
cổ phiếu có thể thấp hơn do mức chi trả cổ tức bằng tiền mặt giảm đi). Nhưng
dù sao thì đây vẫn là nguồn vốn có chi phí thấp hơn so với việc phát hành cổ
phiếu phổ thông mới, đồng thời phải chịu sự kiểm soát trực tiếp của người
quản lý.
Thứ hai: Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, vốn góp thêm, cấp
thêm…Để tăng thêm vốn chủ sở hữu các ngân hàng có thể phát hành cổ phiếu
ra công chúng lần đầu hoặc phát hành cổ phiếu bổ sung đối với các ngân hàng
đã phát hành cổ phiếu ra công chúng. Ngoài ra, nếu là ngân hàng quốc doanh
có thể gia tăng vốn chủ bằng cách xin nhà nước cấp thêm. Đây là hình thức
tăng vốn để mở rộng quy mô hoạt động, đổi mới trang thiết bị hoặc đáp ứng
nhu cầu gia tăng vốn chủ của Ngân hàng thương mại. Đặc điểm của hình thức
tăng nguồn vốn này là không thường xuyên, song lại giúp cho ngân hàng có
được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
1.1.1.3 Các quỹ
Ngân hàng có một số loại quỹ, trong đó mỗi quỹ đều có mục đích riêng.
Trước tiên là: Quỹ dự phòng tổn thất, quỹ này được trích lập hàng năm
và được tích luỹ lại nhằm bù đắp tổn thất xảy ra. Theo quy định của Việt
Nam, nguồn bù đắp tổn thất tín dụng bao gồm dự phòng để xử lý rủi ro và
quỹ dự phòng tài chính.
8
Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Bao gồm 2 khoản chính là các khoản
trích từ lợi nhuận hàng năm và phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và
chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu.
Tuỳ theo quy định cụ thể của từng nước, các ngân hàng còn có thể có
quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng,…Các quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của
chủ ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng.
Tuy nhiên một số quỹ không thể sử dụng lâu dài.

1.1.2 Nguồn vốn huy động
Tiền gửi của khách hàng là nguồn vốn quan trọng của Ngân hàng
thương mại. Khi các ngân hàng hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài
khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ các khách hàng. Bằng cách đó,
ngân hàng huy động tiền từ các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn tiền
của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có
được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao các ngân hàng đã đưa ra và thực
hiện nhiều hình thức huy động khác nhau:
1.1.2.1 Vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Đây là một hình thức huy động truyền thống của ngân hàng. Các tầng
lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiền
tiết kiệm ). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể
gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu an toàn và sinh lời đối với các
khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu an toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều
tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói
quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động,
đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn như các
kỳ hạn khác nhau, mở cho mỗi người nhiều chuyên mục tiết kiệm ( hoặc sổ
9
tiết kiệm ) cho mỗi kỳ hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm không thể
dùng để mua hàng nhưng có thể dùng để thế chấp vay vốn ngân hàng .
1.1.2.2 Vốn huy động từ tiền gửi thanh toán
Đây là tiền của doanh nghiệp hay cá nhân gửi vào ngân hàng nhằm
mục đích nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép,
các nhu cầu chi tiêu của khách hàng sẽ được ngân hàng thực hiện. Các khoản
thu bằng tiền mặt của doanh nghiệp và cá nhân sẽ được nhập vào tiền gửi
thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung, lãi suất của các khoản tiền gửi thanh
toán thấp hơn các hình thức gửi tiền khác, nhưng thay vào đó, chủ tài khoản
sẽ được sử dụng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp. Ngân hàng mở các

tài khoản tiền gửi thanh toán hay còn gọi là tài khoản có thể phát hành séc cho
khách hàng với thủ tục rất đơn giản. Yêu cầu của ngân hàng là khách hàng
phải có tiền và chỉ được thanh toán trong phạm vi số dư trên tài khoản. Ngân
hàng có thể kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay ( thấu
chi – vượt mức số dư có của tài khoản tiền gửi ). Một ngân hàng có thể sử
dụng nhiều hình thức tài khoản thanh toán nhằm cạnh tranh với các tổ chức
tín dụng khác.
1.1.2.3 Vốn huy động từ tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và các tổ chức
xã hội
Nhiều khoản thu bằng tiền của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội
sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy thuận tiện
cho thanh toán nhưng lãi suất lại thấp. Do đó, để đáp ứng nhu cầu tăng thu
của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội, ngân hàng đã đưa ra hình thức
gửi tiền có kỳ hạn, theo đó người gửi không được sử dụng các hình thức
thanh toán giống như tiền gửi thanh toán, nếu cần chi tiêu khách hàng phải
đến ngân hàng để rút tiền ra. Tiền gửi có kỳ hạn mặc dù không thuận tiện
bằng tiền gửi thanh toán nhưng có ưu điểm là có lãi suất cao hơn.
10
1.1.2.4 Vốn huy động tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, các ngân
hàng thương mại có thể gửi tiền ở các ngân hàng khác nhưng quy mô của
nguồn này thường không lớn, nó phụ thuộc vào tình hình cân đối và khả năng
thanh khoản của Ngân hàng nhận vốn .
1.1.3 Nguồn vốn vay
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại nhưng
Ngân hàng thương mại có thể phải đi vay nếu thấy cần thiết. Tại nhiều quốc
gia, Ngân hàng Trung ương thường quy định tỉ lệ giữa nguồn tiền huy động
và vốn chủ sở hữu. Do vậy nhiều ngân hàng trong từng giai đoạn cụ thể phải
vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế.
1.1.3.1 Vay Ngân hàng Trung ương

Đây là khoản vay nhằm mục đích giải quyết các nhu cầu chi trả cấp
bách của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ ( dự trữ
bắt buộc, dự trữ thanh toán ) ngân hàng thương mại thường vay Ngân hàng
Trung ương. Hình thức cho vay chủ yếu là Ngân hàng Trung ương tái chiết
khấu các thương phiếu đã được các ngân hàng thương mại chiết khấu ( tái
chiết khấu ) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng thương mại đem
các thương phiếu này lên Ngân hàng Trung ương tái chiết khấu. Nghiệp vụ
này làm giảm thương phiếu của ngân hàng thương mại và dự trữ của Ngân
hàng Trung ương tăng lên. Ngân hàng Trung ương điều hành quá trình này
một cách chặt chẽ, ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm
bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường Ngân hàng Trung ương chỉ tái
chiết khấu đối với những thương phiếu có chất lượng ( thời gian đáo hạn
ngắn, khả năng trả nợ cao ) và phù hợp với mục tiêu của Ngân hàng Trung
ương trong từng thời kì. Trong điều kiện chưa có thương phiếu, Ngân hàng
11
Trung ương cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo
hạn mức tín dụng nhất định.
1.1.3.2 Vay các tổ chức tín dụng khác
Các ngân hàng thương mại có thể vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ
chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng không có
dự trữ vượt mức do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản huy động hoặc
giảm cho vay sẽ có thể cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao
hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức
thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các ngân hàng
khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách trong nhiều trường hợp
nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ Ngân hàng Trung ương.
Quá trình vay mượn rất đơn giản: Ngân hàng đi vay chỉ cần liên hệ trực tiếp
với ngân hàng đại lí ( hoặc Ngân hàng Trung ương ). Khoản vay có thể không
cần bảo đảm hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Kết quả
là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên.

1.1.3.3 Vay trên thị trường vốn
Giống như các doanh nghiệp, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách
phát hành các giấy nợ ( kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu ) trên thị trường vốn.
Nhiều ngân hàng thiếu nguồn tiền trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng
được nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản
vay không có đảm bảo. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao hơn
sẽ vay được nhiều hơn, còn các ngân hàng nhỏ khó vay trực tiếp bằng cách
này, họ thường phải vay thông qua các ngân hàng đại lí hoặc được sự bảo
lãnh của ngân hàng đầu tư. Khả năng vay còn phụ thuộc vào trình độ phát
triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi các công cụ nợ dài hạn
của ngân hàng. Nghiệp vụ này tương đối phức tạp: ngân hàng cần nghiên cứu
kỹ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất, bảo quản hộ…cũng
được quan tâm.
12
1.1.4 Nguồn vốn khác
Loại này bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn khác.
1.1.4.1 Tiền uỷ thác
Ngân hàng thực hiện các dịch vụ uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ
thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ…Các hoạt động này tạo nên nguồn
uỷ thác tại ngân hàng. Cùng với sự phát triển của các mối quan hệ đa phương
rất nhiều các tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của ngân
hàng, có nguồn tài chính đã sử dụng mạng lưới ngân hàng như các kênh dẫn
vốn tới các mục tiêu. Kết quả đã hình thành nguồn uỷ thác làm tăng nguồn
vốn của ngân hàng.
1.1.4.2 Tiền trong thanh toán
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành các
nguồn trong thanh toán như: séc trong quá trình chi trả, tiền kí quĩ để mở
L/C…những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong hợp đồng tài trợ có kết dư
từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay…
1.2. HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.2.1. Sự cần thiết của huy động vốn đối với Ngân hàng thương mại
Huy động vốn là nghiệp vụ cơ bản của các ngân hàng thương mại hay
còn gọi là nghiệp vụ tạo vốn với nhiều hình thức đa dạng, phong phú nhằm
thu hút vốn từ các tổ chức và cá nhân trong trong nền kinh tế để phục vụ mục
đích kinh doanh của mình.
1.2.1.1 Vốn là cơ sở để các ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Để bước vào hoạt động kinh doanh thì đầu tiên ngân hàng phải cần có
vốn. Ngoài lượng vốn bắt buộc phải có, các ngân hàng phải huy động từ các
nguồn khác.Vậy để có hoạt động cho vay thì phải có thứ để mà cho vay.
Nguồn vốn phản ánh tiềm năng và sức mạnh của ngân hàng. Đối với những
ngân hàng lớn dồi dào về nguồn vốn trung và dài hạn thì nó sẽ tập trung cho
vay và đầu tư vào những dự án lớn có khả năng sinh lời cao trong khi đó các
13
ngân hàng có nguồn vốn nhỏ thì ngược lại. Do vậy, vốn không chỉ là phương
tiện kinh doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM. Nói
cách khác, không có vốn thì ngân hàng không thể thực hiện được các nghiệp
vụ kinh doanh của mình.
1.2.1.2 Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác
của ngân hàng
Hoạt động tín dụng của ngân hàng phụ thuộc vào vốn của ngân hàng.
Ngân hàng có nhiều vốn sẽ có ưu thế cạnh tranh hơn so với các ngân hàng ít
vốn. Có được nhiều vốn ngân hàng sẽ có điều kiện để đưa ra các hình thức tín
dụng linh hoạt, có điều kiện để hạ lãi suất từ đó sẽ làm tăng quy mô tín
dụng.Theo luật các tổ chức tín dụng thì tổng dư nợ cho vay đối với một khách
hàng tối đa không quá 15% vốn tự có của NHTM. Do vậy các ngân hàng lớn
nhiều vốn phạm vi hoạt động sẽ rộng hơn, cung cấp nhiều dịch vụ ngân hàng
hơn các ngân hàng nhỏ. Chính vì thế càng khẳng định rõ tầm quan trọng của
vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.2.1.3 Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân
hàng trên thương trường

Các ngân hàng lớn trên thế giới đều là các ngân hàng có uy tín, luôn
được ca ngợi và nể trọng. Điều kiện đầu tiên để xây dựng được uy tín của
ngân hàng chính là vốn của ngân hàng.Có nhiều vốn khả năng thanh toán của
ngân hàng luôn được đảm bảo, các khách hàng luôn cảm thấy yên tâm khi
giao thiệp với ngân hàng. Trong nền kinh tế bất ổn như hiện nay, khả năng
thanh toán luôn được các ngân hàng quan tâm hàng đầu và để được như vậy
thì các ngân hàng luôn tìm cách huy động được nhiều vốn hơn.
1.2.1.4 Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Trong thời đại kinh tế cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, vốn là điều
kiện để các ngân hàng tham gia cạnh tranh. Nó giúp các ngân hàng mở rộng
quy mô hoạt, tăng cường quan hệ với các đối tác đồng thời nó lôi kéo khách
14
hàng mới, giữ chân các khách hàng truyền thống. Doanh số của ngân hàng
tăng lên đồng thời làm tăng nguồn vốn của ngân hàng. Vốn của ngân hàng mà
lớn giúp cho ngân hàng có khả năng tài chính dồi dào để cạnh tranh được với
các ngân hàng khác: hạ lãi suất, linh hoạt về thời hạn tín dụng, hình thức trả
lãi ….Các dịch vụ ngân hàng sẽ ngày càng được cải tiến, phát triển và thực
hiện tốt hơn.
Do vai trò then chốt của vốn đối với hoạt động kinh doanh của ngân
hàng mà đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải cực kỳ nhanh nhạy trong việc
điều hành vốn, tránh xảy ra tình trạng thừa hoặc thiếu vốn làm giảm hiệu quả
hoạt động của ngân hàng thương mại.
1.2.2 Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Chức năng cơ bản của hệ thống ngân hàng là tạo ra và cung cấp các
dịch vụ tài chính mà thị trường có nhu cầu. Bất cứ ngân hàng nào mà thường
xuyên làm cho khách hàng thất vọng thì ngân hàng đó khó có khả năng đứng
vững trên thị trường nếu không tìm ra giải pháp để cải thiện được thực trạng
đó. Nếu ngân hàng không đủ vốn mà phải từ chối yêu cầu xin vay của khách
hàng thì cũng đồng nghĩa với sự lãng phí về một khoản tiền gửi và cũng bỏ
phí một cơ hội kinh doanh nào đó trong tương lai với khách hàng do họ đã bị

thất vọng và không còn tín nhiệm đối với ngân hàng đó nữa. Như vậy, việc
đưa ra các hình thức huy động phù hợp linh hoạt là điều rất cần thiết đối với
Ngân hàng thương mại. Có thể phân loại vốn huy động của ngân hàng theo
các tiêu thức khác nhau:
1.2.2.1 Theo đối tượng huy động
a) Vốn huy động từ dân cư
Tiền gửi của dân cư là một bộ phận thu nhập bằng tiền của các tầng lớp dân
cư trong xã hội gửi vào ngân hàng nhằm mục đích tiết kiệm,kiếm lời và để thanh
toán. Đây là nguồn vốn có tiềm năng lớn và khá ổn định đối với ngân hàng. Người
15
dân gửi tiền vào ngân hàng vừa chuẩn bị cho những công việc trong tương lai của
mình, đồng thời cũng muốn khoản tiền đó sinh lãi. Nguồn vốn này rất đa dạng, vì
thế nó có thể huy động dưới nhiều hình thức để phục vụ mục tiêu phát triển của
ngân hàng.Tiền gửi của dân cư gồm 2 loại sau:
- Tiền gửi tiết kiệm
Đây là hình thức huy động vốn truyền thống của ngân hàng. Với loại
tiền gửi này, người gửi được ngân hàng giao cho một sổ tiết kiệm, trong thời
gian gửi tiền, sổ tiết kiệm có thể dùng làm vật cầm cố hoặc được chiết khấu
để vay vốn ngân hàng.
Tiền gửi tiết kiệm bao gồm: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền
gửi tiết kiệm có kỳ hạn với các kỳ hạn khác nhau.
- Tiền gửi thanh toán
Các cá nhân trong xã hội cũng có nhu cầu và được pháp luật cho phép
thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Khi đó họ cũng mở tài khoản tiền gửi
thanh toán tại ngân hàng và gửi tiền vào đó để đáp ứng các nhu cầu thanh
toán cũng như để sử dụng các tiện ích khác có liên quan của ngân hàng.
Trên thực tế tiền gửi của dân cư luôn chiếm một tỷ trọng khá lớn trong
tổng vốn huy động của ngân hàng. Để khai thác nguồn vốn này, các ngân
hàng luôn chú trọng đến việc đa dạng hoá các hình thức huy động như: huy
động bằng vàng, huy động tiền gửi có đảm bảo bằng vàng, tiết kiệm xây dựng

nhà ở, tiết kiệm gửi một nơi nhưng lĩnh nhiều nơi…với lãi suất hợp lý.
b) Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế, các tổ chức tín dụng
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các tổ chức kinh tế thường có một
bộ phận vốn nhàn rỗi tạm thời như: Khấu hao đã trích nhưng chưa đến lúc sử
dụng; Tiền thu bán hàng chưa phải mua nguyên liệu, trả lương; Các quỹ đầu
tư phát triển, phúc lợi, khen thưởng đã trích nhưng chưa sử dụng đến … Để
đảm bảo an toàn tài sản và đồng vốn vẫn sinh lời, các tổ chức kinh tế có thể
16
gửi số vốn đó vào ngân hàng. Hoặc để thuận tiện cho quá trình sử dụng vốn,
đơn vị có thể thanh toán qua ngân hàng cũng như sử dụng các dịch vụ ngân
hàng khác. Khi đó, họ cần phải gửi vốn vào ngân hàng. Tổ chức kinh tế có thể
gửi vốn vào ngân hàng dưới hình thức: Tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có
kỳ hạn với các kỳ hạn khác nhau. Đồng thời ngân hàng sẽ mở cho các đơn vị
các tài khoản tương ứng để thuận tiện trong việc sử dụng.
- Tiền gửi không kỳ hạn
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút tiền ra
bất kỳ lúc nào và ngân hàng luôn có nghĩa vụ phải thoả mãn các nhu cầu đó.
Loại tiền gửi này có mục đích chính là để thanh toán.
Đối với tiền gửi không kỳ hạn, mặc dù việc gửi và rút có thể thực hiện
vào bất kỳ lúc nào, ngân hàng khó xác định trước nhưng trên thực tế luôn có
sự chênh lệch về thời gian và số lượng giữa việc gửi và rút tiền, cho nên tại
mỗi ngân hàng luôn tồn tại một số dư tiền gửi không kỳ hạn và ngân hàng có
thể sử dụng để cho vay. Lãi suất của loại tiền gửi này rất thấp, thậm chí có
những khoản tiền gửi ngân hàng không phải trả lãi. Cho nên nguồn vốn này
giúp cho ngân hàng hạ thấp giá mua vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh trong
cho vay và đầu tư.
- Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi có sự thoả thuận về thời gian rút tiền.
Về nguyên tắc, người gửi chỉ có thể rút tiền theo thời hạn đã thoả thuận,
nhưng trên thực tế để thu hút loại tiền gửi này có thời hạn dài, các ngân hàng

thường cho phép rút tiền trước thời hạn nhưng khách hàng chỉ được lãi suất
không kỳ hạn hoặc hưởng lãi suất tương ứng theo loại kỳ hạn nhất định do
ngân hàng định.
Nguồn vốn này có độ ổn định cao, ngân hang chủ động trong quá trình
sử dụng. Vì vậy, để có thể thu hút nhiều hơn loại tiền gửi này, các ngân hàng
17
thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau phù hợp với thời gian vốn nhàn rỗi
ở các đơn vị, mỗi kỳ hạn có một mức lãi suất tương ứng theo nguyên tắc kỳ
hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn bằng hình thức đi vay các
ngân hàng thương mại khác và các tổ chức tín dụng. Loại vốn này lãi suất có
lúc cao hơn lãi suất từ các nguồn tiền gửi hay huy động từ dân cư. Tuy nhiên,
nó cũng hết sức cần thiết để đáp ứng nhu cầu dự trữ, chi trả cấp bách và trong
nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ Ngân
hàng thương mại. Các ngân hàng có thể vay mượn mà không cần phải đảm
bảo hoặc được đảm bảo bằng chứng khoán của kho bạc.
c) Vốn huy động khác
Đây là những nguồn vốn mà ngân hàng tạo lập được khi thực hiện chức
năng làm trung gian thanh toán hoặc làm đại lý, tiếp nhận vốn tài trợ uỷ thác
đầu tư.
Vốn trong thanh toán được tạo lập từ các tài khoản mở thư tín dụng, tài
khoản bảo lãnh…mà chưa đến hạn thanh toán, thực hiện nghiệp vụ đại lý, tiếp
nhận vốn tài trợ uỷ thác đầu tư thì Ngân hàng thương mại cũng tạo lập một
lượng nguồn vốn nhất định …
1.2.2.2 Theo hình thức huy động
a) Vốn huy động qua tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân
hàng thương mại. Tiền gửi là nguồn vốn quan trọng để ngân hàng thực hiện
các nghiệp vụ tín dụng là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân
hàng. Ngân hàng cung cấp rất nhiều loại hình tiền gửi khác nhau và mỗi công

cụ huy động tiền gửi mà ngân hàng đưa ra đều có nhưng đặc điểm riêng. Để
gia tăng lượng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền
18
có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình
thức huy động phong phú:

Tiền gửi không kỳ hạn: ( tiền gửi thanh toán hoặc tiền gửi phát séc )
Là loại tiền gửi mà người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào để đáp
ứng nhu cầu sử dụng, ngân hàng phải có trách nhiệm thoả mãn nhu cầu đó
của khách hàng vào bất cứ lúc nào khi khách hàng yêu cầu dù ngân hàng đang
gặp khó khăn về vốn hay thị trường đang không ổn định gây bất lợi cho ngân
hàng.
Qua nghiệp vụ này cả khách hàng và ngân hàng cả hai bên sẽ đều có
lợi. Đối với khách hàng, nhờ gửi tiền vào ngân hàng mà thu được lãi tiền gửi,
nhưng vẫn có thể rút tiền bất cứ lúc nào hoặc khi thực hiện các dịch vụ tiện
lợi của ngân hàng như thanh toán bằng chuyển khoản. Còn đối với ngân hàng
thì tiền gửi thanh toán như một khoản nợ mà ngân hàng sẽ phải trả cho khách
hàng gửi tiền vào bất cứ lúc nào họ yêu cầu, nếu chậm trễ hoặc không đầy đủ
coi như ngân hàng vi phạm thoả thuận và phải chịu phạt theo quy định của
luật pháp. Ngân hàng có thể sử dụng loại tiền gửi thanh toán này để cho vay,
tuy nhiên việc cho vay phải có mức độ, phải có dự trữ nhằm đáp ứng kịp thời,
đầy đủ các yêu cầu của khách hàng và chấp hành quy định của Ngân hàng nhà
nước.

Tiền gửi có kỳ hạn:
Đây là loại tiền gửi mà khi gửi tiền vào ngân hàng có sự thoả thuận
giữa ngân hàng và khách hàng về lãi suất tiền gửi và thời hạn rút tiền. Thông
thường ngân hàng quy định khách hàng không được rút tiền trước thời hạn;
Tuy nhiên do áp lực cạnh tranh hiện nay các ngân hàng vẫn phải chấp nhận
cho khách hàng rút ra trước hạn nhưng người gửi chỉ được hưởng lãi suất thấp

hơn lãi suất đã thoả thuận ban đầu hoặc chịu một mức phạt nhất định tuỳ
thuộc vào chính sách huy động vốn của ngân hàng và loại tiền gửi có kỳ hạn.
19
Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn mang tính ổn định và ngân hàng có
thể sử dụng loại tiền gửi này một cách chủ động làm nguồn vốn kinh doanh.
Do đó để khuyến khích khách hàng gửi tiền, các ngân hàng thường đưa ra
nhiều loại kỳ hạn khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu gửi tiền của khách hàng.
Với mỗi kỳ hạn ngân hàng áp dụng một mức lãi suất tương ứng theo nguyên
tắc: kỳ hạn càng dài thì mức lãi suất càng cao và với nhiều điều khoản hấp
dẫn khách hàng để tạo sự khác biệt.

Tiền gửi tiết kiệm
Là hình thức huy động truyền thống của ngân hàng. Khi gửi tiền vào
Ngân hàng, người gửi tiền được nhận sổ tiết kiệm, đó là chứng từ đảm bảo
tiền gửi, là giấy chứng nhận khách hàng đã tiền gửi vào ngân hàng và người
có sổ tiết kiệm có thể mang sổ này đến ngân hàng cầm cố để vay vốn.
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư cũng có 2 loại đó là: Tiết kiệm có kỳ hạn
và tiết kiệm không có kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là khoản tiền tiết kiệm mà khách
hàng có thể rút tiền vào bất cứ lúc nào mà không cần phải báo trước cho ngân
hàng với mục tiêu nhờ ngân hàng giữ hộ tiền là chủ yếu. Với tiền gửi tiết
kiệm không kỳ hạn ngân hàng chỉ trả cho người gửi tiền lãi suất bằng lãi suất
tiền gửi thanh toán. Nguồn vốn này mang lại cho ngân hàng nguồn lợi cao
hơn vì lãi suất thấp, tuy vậy nguồn vốn này không ổn định mà thường xuyên
biến động .
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là nguồn vốn mang tính ổn định cao
nên ngân hàng rất chú trọng huy động nguồn vốn theo hình thức này. Các
Ngân hàng thương mại nhà nước thường đưa ra nhiều loại sản phẩm với các
loại kỳ hạn khác nhau như loại 1, 2, 3 tháng đến 1, 2, 3 năm…nhằm thu hút
ngày càng nhiều hơn nguồn vốn đầy tiềm năng này.

20
Mỗi lần gửi tiền tiết kiệm có kỳ hạn ngân hàng phải giao cho khách
hàng một sổ tiết kiệm có kỳ hạn, một người gửi nhiều lần thì ngân hàng phải
phát hành nhiều sổ tiết kiệm và người gửi tiền phải lưu giữ và bảo quản nhiều
sổ tiết kiệm đó, đối với ngân hàng sẽ chi phí cao hơn trong việc in ấn sổ tiết
kiệm, khó khăn trong việc hạch toán và theo dõi; đối với khách hàng thì việc
bảo quản cũng không thuận lợi lại không được mua bán chuyển nhượng trên
thị trường đồng thời không được hưởng các dịch vụ ngân hàng từ tài khoản
tiết kiệm này.
b) Vốn huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá

Trái phiếu ngân hàng : Là một trong nhiều công cụ vay nợ dài hạn trên thị
trường vốn. Nguồn vốn này mang tính ổn định cao về thời gian sử dụng do đó
nó cho phép ngân hàng có được lượng vốn dài hạn để thực hiện các dự án đầu
tư dài hạn. Tuy vậy lãi suất lại phụ thuộc vào thời gian huy động trái phiếu,
thời gian huy động càng dài thì lãi suất càng cao và ngược lại.
 Kỳ phiếu ngân hàng : Là hình thức huy động vốn có ưu thế hơn so với trái
phiếu vì kỳ hạn ngắn hơn và thường có lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm, nó
được sử dụng tuỳ vào tình hình cụ thể của vốn ngân hàng. Đây là công cụ có
tính lỏng cao, dễ chuyển nhượng thành tiền mặt khi cần cho nên nó được các
nhà đầu tư rất ưa thích.
 Chứng chỉ tiền gửi : Là một giấy biên nhận có hưởng lãi, xác nhận về
khoản vốn gửi tại ngân hàng. Khi Ngân hàng thương mại phát hành chứng chỉ
tiền gửi nhằm vay tiền mặt trên thị trường, chứng chỉ là giấy xác nhận khoản
vay này. Như thế, nó là phiếu nợ, là phiếu vay tiền do các Ngân hàng thương
mại phát ra. Trước đây, lãi suất của chứng chỉ tiền gửi là cố định, hiện nay các
chứng khoán này mang lãi suất thoả thuận, tức là nó có thể thay đổi theo điều
kiện của thị trường. Đây cũng được coi như là một loại tiền gửi của khách
hàng nhưng khác ở chỗ nó chỉ có thể đổi thành tiền khi đến hạn, nên nó tạo
21

cho ngân hàng một nguồn vốn khá ổn định, giúp ngân hàng chủ động hơn
trong kinh doanh. Chứng chỉ này trở thành loại đầu tư ngắn hạn hấp dẫn nhất
đối với các nhà kinh doanh và hộ gia đình, vì nó được sử dụng và chấp nhận
không khác gì séc hay tiền mặt mà có lãi suất, trong khi séc và tiền mặt không
có lãi suất.
1.2.2.3 Theo thời gian huy động
Việc phân loại vốn theo thời gian có thể giúp cho ngân hàng có thể chủ
động được hoạt động tín dụng của mình. Tuỳ theo kỳ hạn tương ứng mà ngân
hàng có thể đề ra các giải pháp cụ thể để điều chỉnh nguồn vốn của mình.
a) Vốn huy động ngắn hạn: Là những khoản tiền có thời hạn dưới 1
năm mà ngân hàng áp dụng để huy động vốn ngắn hạn trên thị trường. Để
thoả mãn nhu cầu của khách hàng, ngân hàng có thể chia nhỏ từng kỳ hạn
thành nguồn 3, 6, 9, 12 tháng với mức lãi suất phù hợp và thấp hơn so với loại
có kỳ hạn dài hơn. Nguồn vốn này thường chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng
nguồn vốn huy động được của ngân hàng.
b) Vốn huy động trung hạn: Để phục vụ chủ yếu cho các khoản vay
trung hạn, các Ngân hàng thương mại đã tạo ra các sản phẩm với các mức kỳ
hạn từ 1 đến 5 năm. Do thời gian huy động khá dài cho nên nguồn này không
được nhiều sự ưa chuộng của khách hàng. Vì nguồn vốn này đóng vai trò rât
quan trong trong hoạt động kinh doanh của mình, cho nên ngân hàng cần phải
thực hiện có hiệu quả các giải pháp để thu hút được nhiều hơn nguồn vốn này.
c) Vốn huy động dài hạn: Là những khoản tiền mà ngân hàng huy động
có thời hạn từ 5 năm trở lên, được dùng cho các dự án đầu tư dài hạn mang
tính khả thi. Đây là nguồn vốn ổn định mà ngân hàng huy động nhưng các
ngân hàng cũng phải trả mức lãi suất cao hơn cho những khoản vốn này.
1.2.2.4 Phân theo loại tiền
a) Vốn huy động bằng VNĐ: Ngân hàng huy động vốn bằng VNĐ
thông qua tất cả các hình thức huy động khác nhau với các mục đích sử dụng
22
khác nhau. Trong nguồn vốn ngân hàng huy động được thì nguồn vốn huy

động bằng VNĐ chiếm tỷ trọng cao, đáp ứng các nhu cầu về sử dụng vốn của
ngân hàng. Bởi vì: Trong các kênh để dành và tiết kiệm như mua vàng và cất
trữ ngoại tệ trong nhà và gửi đồng Việt nam vào ngân hàng thì kênh đầu tư
vào tiền gửi ngân hàng là sự lựa chọn tối ưu và minh bạch hơn cả. Bởi vì đầu
tư vào vàng quá nhiều rủi ro bởi biến động giá bất thường. Mua ngoại tệ để
cất trữ trong nhà thì rõ ràng bị thiệt vì tỷ giá USD/VNĐ ít biến động. Nhiều
người lựa chọn gửi USD vào ngân hàng nhưng xu hướng chung nhiều nguời
vẫn thích gửi nội tệ bởi vì so với gửi nội tệ, lãi suất gửi USD chỉ bừng 1/2
thậm chí thấp hơn so với gửi đồng Việt Nam do đó tốc độ tăng tiền gửi nội tệ
vẫn cao hơn tiền gửi ngoại tệ.
b) Vốn huy động bằng ngoại tệ: Ngoài huy động bằng VNĐ, ngân
hàng cũng tiến hành huy động vốn bằng ngoại tệ nếu quy ra VNĐ cũng chiếm
tỷ trọng khá lớn trong hoạt động của ngân hàng. Mục đích huy động vốn bằng
ngoại tệ của ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán quốc tế cũng như
các hoạt động kinh doanh ngoại tệ của khách hàng cũng như của ngân hàng.
1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
1.3.1. Nhóm nhân tố khách quan
Những nhân khách quan thuộc về môi trường bên ngoài ngân hàng
thương mại, các ngân hàng thương mại chỉ có thể nhận biết và tìm cách hạn
chế tác động tiêu cực của chúng mà không thể thay đổi các nhân tố này được.
1.3.1.1 Môi trường kinh tế - xã hội
Một nền kinh tế ổn định luôn là điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân
hàng. Nền kinh tế được coi là ổn định khi lạm phát được kiểm soát, không có
dấu hiệu của khủng hoảng hay suy thoái, mức sống của người dân được bảo
đảm…Khi đó đời sống của người dân ổn định, hoạt động sản xuất kinh doanh
có hiệu quả, nguồn vốn sẽ chảy vào ngân hàng nhiều hơn. Với một nền kinh
23
tế ổn định, giá cả hàng hoá - dịch vụ cũng như sức mua của đồng tiền tạo cho
người dân cảm giác tin tưởng thì họ mới an tâm gửi tiền vào ngân hàng.
Ngược lại, một nền kinh tế suy thoái hay có lạm phát cao thì người dân sẽ có

xu hướng giữ tiền mặt hoặc mua vàng hay ngoại tệ mạnh để dự trữ.
Bên cạnh các yếu tố vĩ mô như lạm phát hay suy thoái…hoạt động huy
động vốn còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố như mật độ dân cư trong địa bàn
hoạt động, thu nhập trung bình của dân cư, của các tổ chức kinh tế trong địa
bàn…Nếu ngân hàng có địa bàn hoạt động ở khu vực tập trung đông dân cư
và các tổ chức kinh tế thì sẽ có khả năng huy động được nhiều vốn hơn các
ngân hàng hoạt động ở địa bàn miền núi hay hải đảo xa xôi. Mức thu nhập
của dân cư cũng là tác nhân quyết định đến quy mô của nguồn vốn huy được,
điều này có thể dễ dàng thấy được rằng nếu như người dân có thu nhập tương
đối cao, sau khi đã chi trả cho các nhu cầu của cuộc sống mà vẫn còn lại một
khoản tiền thì họ sẽ gửi tiền vào ngân hàng.
Ngoài ra còn một yếu tố đó là thói quen tiêu dùng và tiết kiệm của người
của người dân. Ví dụ như Việt Nam là một quốc gia mà người dân vẫn quen
giao dịch bằng tiền mặt, một phần là do trình độ khoa học công nghệ, luật
pháp ở Việt nam chưa đủ để đáp ứng yêu cầu thanh toán qua chuyển khoản
nhưng nhìn chung tâm lý của người Việt Nam vẫn “thích” tiền mặt hơn là sử
dụng các loại dịch vụ ngân hàng và điều này cũng làm giảm hiệu quả hoạt
động của ngân hàng nhất là trong lĩnh vực thanh toán.
1.3.1.2 Môi trường chính trị - pháp lí
Đây là nhân tố có ảnh hưởng quan trọng tới toàn bộ nền kinh tế chứ
không phải chỉ riêng ngành ngân hàng. Chính trị và kinh tế là hai phạm trù có
sự tác động qua lại, ảnh hưởng đến nhau rõ rệt. Chính trị ảnh hưởng tới nền
kinh tế và các hoạt động chính trị cũng mang mục đích kinh tế và tạo ra
những biến động về chính trị. Bất kỳ một sự thay đổi nào về chính trị cũng có
24
thể tạo ra một tác động to lớn với nền kinh tế. Tình hình chính trị ổn định tạo
điều kiện cho kinh tế vận hành trôi chảy và ổn định. Nếu tình hình chính trị
bất ổn sẽ tạo ra tâm lý hoang mang trong dân cư, việc họ rút tiền ồ ạt hoặc
chuyển tiền ra các ngân hàng nước ngoài là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
Ngoài các yếu tố chính trị, hoạt động ngân hàng còn chịu sự chi phối của

hành lang pháp lý bao gồm thể chế trong và ngoài quốc gia (đối với các ngân
hàng có phạm vi hoạt động mở rộng ra ngoài biên giới ). Như chúng ta đã
biết, ngân hàng là một ngành có ảnh hưởng quan trọng đối với cả nền kinh tế,
hoạt động của ngân hàng còn mang tính xã hội hoá cao. Do đó, sự sụp đổ của
một ngân hàng sẽ kéo theo sự sụp đổ dây chuyền của cả hệ thống ngân hàng
gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế, thậm chí gây ra khủng hoảng kinh
tế. Vì vậy, ngân hàng cần phải được quản lí chặt chẽ, nghiêm ngặt để tránh
hậu quả đáng tiếc cho nền kinh tế. Khung pháp lý áp dụng đối với ngành ngân
hàng cần phải đảm bảo mức độ an toàn cho các ngân hàng, ngăn ngừa ngân
hàng tham gia vào các vụ đầu tư và hoạt động mạo hiểm có thể ảnh hưởng
đến quyền lợi của khách hàng. Pháp luật về ngân hàng thông thoáng sẽ tạo
điều kiện cho ngân hàng thực hiện tốt các chức năng của mình và kinh doanh
có hiệu quả. Một môi trường pháp lí không rõ ràng minh bạch, nhiều trở ngại
cho nhiều hoạt động ngân hàng chắc chắn sẽ gây ra khó khăn cho các Ngân
hàng thương mại trong quá trình hoạt động của mình. Bên cạnh các quy định
của pháp luật còn phải nhắc đến các quy định của Ngân hàng nhà nước đối
với hoạt động của Ngân hàng thương mại. Quy định về quy mô các khoản
vay, về điều kiện tín dụng, phát hành các loại giấy nợ…đều gây ra ảnh hưởng
tới hoạt động của ngân hàng thương mại.
1.3.1.3 Các nhân tố thuộc về khách hàng
Nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động huy động vốn của Ngân hàng
thương mại đó là những người gửi tiền vào ngân hàng, người vay tiền và các
25

×