Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Sử dụng một số trò chơi nhằm nâng cao chất lượng giờ học môn Ngữ văn cho học sinh lớp 6A trường THCS Đông Tiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (940.38 KB, 24 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Bất kì mơn học nào, khơng riêng gì mơn Ngữ văn, tạo được hứng thú, yêu
thích và đỉnh cao là đam mê, là một cơ sở nền móng cho những viên gạch tri
thức hay những mục tiêu khác vươn cao ...Nhưng dạy học vừa là khoa học, vừa
là nghệ thuật. Nhà giáo dục John Amos Comenius (Tiệp Khắc cũ) đã quan niệm
nghệ thuật dạy học là “một loại nghệ thuật mà khi đem dạy thì làm cho người ta
cảm thấy vui vẻ, có nghĩa là, nó khơng thể làm cho giáo viên buồn phiền, làm
cho học sinh nhàm chán, mà có thể làm cho giáo viên và học sinh đều có được
hứng thú lớn nhất”. Vậy làm thế nào để tạo hứng thú, động lực cho học sinh?
Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy bộ môn Ngữ văn THCS, mỗi
lần lên lớp, bản thân luôn băn khoăn trước việc học của học sinh mình. Mơn
Ngữ văn cũng là một bộ mơn quan trọng trong chương trình giáo dục. Nhưng tại
sao các em ít đạt điểm khá giỏi; dù giáo viên rất nhiệt tình giảng dạy? Hay các
em chưa có hứng thú học văn? Khi lên lớp kiểm tra, nhiều em chưa biết cách
soạn văn bản cho đúng cách, chưa biết tóm tắt một văn bản cho ngắn gọn, đủ nội
dung. Như vậy làm sao các em cảm thụ được văn bản chuẩn bị tìm hiểu? Có
những em cịn chưa hề đọc trước văn bản ở nhà mặc dù gia đình tạo điều kiện
về thời gian học tập cho các em. Cịn đối với phân mơn Tiếng Việt, học bài mới
nhưng đa số các em chỉ học bài cũ mà không xem đến bài mới trước, mặc dù
giáo viên đã dặn dị. Đặc biệt phân mơn tập làm văn thì học sinh có vẻ hời hợt
nhất vì các em cho rằng “khơ, khó khổ” nên gần như các em ít chun tâm. Kiến
thức có được chủ yếu do giáo viên cung cấp, học sinh còn thụ động.
Với những trăn trở trên đồng thời qua quá trình giảng dạy nghiên cứu áp
dụng, tôi nghiệm ra rằng tổ chức cho HS tham gia những trò chơi phù hợp ngay
trong những giờ học hoặc giờ ngoại khố mơn Văn sẽ tạo hứng thú, bồi dưỡng
lịng say mê học tập và ý chí vươn lên của các em. Từ những lí do trên tơi chọn
đề tài “ Sử dụng một số trò chơi nhằm nâng cao chất lượng giờ học môn Ngữ
văn cho học sinh lớp 6A trường THCS Đông Tiến”.
1



2. Mục đích nghiên cứu
- Giúp HS có hứng thú, ham học mơn Ngữ văn.
- Tạo cho HS tâm lí thoải mái khi học, mạnh dạn trao đổi ý kiến với bạn
bè, thầy cô, tạo môi trường thân thiện trong nhà trường.
- Giúp HS khắc phục được lối học thụ động, khơng hứng thú trong học
tập mơn văn, từ đó dần dần củng cố được những kiến thức cũ và tiếp thu kiến
thức mới một cách tự giác.
- Giảm tỉ lệ HS yếu kém môn Ngữ văn trong nhà trường
- Nâng cao chất lượng bộ mơn Ngữ văn nói riêng và chất lượng văn hố
của nhà trường nói chung góp phần nâng cao ý thức học tập của HS trong nhà
trường.
3. Đối tượng nghiên cứu
Sử dụng một số trò chơi nhằm nâng cao chất lượng giờ học môn Ngữ văn
cho học sinh lớp 6A trường THCS Đông Tiến.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tơi đã sử dụng hai nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận và thực
nghiệm, cơ bản gồm một số phương pháp sau:
- Phương pháp đọc, nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp phân tích, so sánh.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp khảo sát, thực nghiệm.

2


II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Nghị quyết Hội nghị TW 8 khóa XI (số 29/2013) về Đổi mới căn bản và

toàn diện giáo dục và đào tạo đã xác định: “tập trung phát triển trí tuệ, thể chất,
hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu,
định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học,
năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả
năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”.
Đã nhiều năm thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, song do nhiều
ngun nhân, đổi mới PPDH vẫn cịn sức ì khơng hề nhỏ. Cách dạy này không
thể không ảnh hưởng đến việc tiếp nhận tri thức một cách thụ động của HS. HS
máy móc rập khn tiếp nhận chứ chưa tích cực tự giác, sáng tạo. Một mặt, dạy
văn không chỉ là truyền thụ kiến thức mà còn phải hấp dẫn lơi cuốn HS, làm cho
HS thích thú, say mê. Có thể nói “văn học là nhân học”: kết tinh nhiều giá trị
văn hoá của dân tộc cũng như của nhân loại, là mơn học có ý nghĩa trong việc
hình thành phát triển nhân cách cho học sinh và rèn luyện những kỹ năng cơ bản
cần thiết cho các em. Mặt khác, đây là mơn học nghệ thuật kích thích, bồi dưỡng
trí tưởng tượng bay bổng, sáng tạo của các em HS. Bởi thế môn này đảm nhiệm
kép: vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Chính vì vậy, để thực hiện một giờ học
có hiệu quả, người GV cần phải sử dụng linh hoạt các phương pháp như: phân
tích, diễn giảng, vấn đáp, nêu vấn đề, gợi mở... và đặc biệt để tạo một giờ học
phong phú, sinh động thì việc lồng ghép tổ chức các trò chơi trong quá trình
giảng dạy sẽ giúp học sinh cảm thấy hứng thú, tích cực, sơi nổi hơn khơng gây
nhàm chán trong một số tiết học mơn Ngữ văn.
Trị chơi là một hoạt động của con người nhằm mục đích trước tiên và chủ
yếu là vui chơi, giải trí, thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng, mệt mỏi.
Nhưng qua trò chơi người chơi còn được rèn luyện thể lực, rèn luyện các giác
quan, tạo cơ hội giao lưu với mọi người, cùng hợp tác với bạn bè trong tổ, nhóm
3


... Đối với học sinh THCS thì hoạt động chơi khơng cịn đóng vai trị chủ đạo,

song cùng với học thì chơi là nhu cầu khơng thể thiếu và nó đóng một vai trị
quan trọng đối với các em. Nếu ta biết tổ chức cho học sinh chơi một cách hợp
lý, khoa học sẽ mang lại hiệu quả giáo dục cao. Vì vậy trị chơi học tập khi được
sử dụng trong giờ học Ngữ văn ở THCS không chỉ làm thay đổi những hình thức
học tập đơn giản, truyền thống khơng hiệu quả mà qua các trị chơi được tổ chức
khơng khí lớp học sẽ trở nên thoải mái, dễ chịu và việc thu nhận kiến thức mới,
củng cố và nâng cao kiến thức cũ cũng vì thế tự nhiên, nhẹ nhàng và thoải mái
hơn. Do đó phương châm của chúng tôi là: học mà chơi, chơi mà học.
2. Thực trạng của vấn đề
Thực tế những năm gần đây cho thấy học sinh nói chung và học sinh
trường THCS Đơng Tiến nói riêng rất yếu mơn văn, ít ham thích học văn. Học
sinh lớp 6 vừa từ tiểu học lên vẫn còn xa lạ với cách của bậc THCS, vẫn cịn học
sinh chưa đọc thơng, viết thạo. Đây là một trở ngại quá lớn khi các em lại phải
tiếp tục tìm hiểu, khám phá những kiến thức cao hơn, rộng lớn hơn, trừu tượng
hơn. Từ đó dẫn đến việc mất dần kiến thức và kĩ năng cơ bản, dẫn đến chán học,
khơng hứng thú học văn.
Hiện nay chương trình vẫn còn những bài dài, dung lượng kiến thức lớn
hơn so với thời lượng từ 45- 90 phút nghiên cứu trên lớp, thiết kế chưa đa dạng,
sinh động nên HS lại càng khó tiếp thu kiến thức. Chính điều này mà HS bị hạn
chế rất nhiều trong việc tiếp thu và cảm thụ kiến thức Ngữ văn.
Học sinh lười học, không chịu đầu tư suy nghĩ, phát biểu xây dựng bài
trong giờ học, khâu chuẩn bị bài còn hời hợt, tiếp thu bài chậm. HS học thụ
động, thiếu sáng tạo; không biết tự học; thiếu sự hợp tác giữa trò và thầy, giữa
trò với trò; học thiếu hứng thú, đam mê, ...
Có thể nói nhiều ngun nhân tạo nên tình trạng học tập trì trệ, thụ động
thiếu hào hứng của HS. Xét về xã hội, thời đại chúng ta đang sống là thời đại
bùng nổ khoa học công nghệ, cũng không khó hiểu khi phần lớn HS chỉ muốn
học các nghành khoa học tự nhiên, kĩ thuật, kinh tế, ...ít HS hứng thú học văn,
4



bởi phần đông HS nghĩ rằng năng lực văn là năng lực tự nhiên của con người xã
hội, không học vẫn biết đọc, biết nói; học văn khơng thiết thực. Văn có kém một
chút, ra đời vẫn khơng sao, vẫn nói và viết được, cịn khơng học ngoại ngữ,
khơng học khoa học, kĩ thuật thì coi như khó có cơ hội việc làm.
Một số giáo viên còn lúng túng trong phương pháp giảng dạy, không biết
làm thế nào để tạo hứng thú cho HS trong học tập và nắm bắt những kiến thức
trọng tâm của bài học một cách nhẹ nhàng và sinh động nhất.
Qua điều tra cho thấy rất ít HS có hứng thú học mơn Ngữ văn, thậm chí
có em cịn khơng quan tâm đến bộ mơn này. Tôi đã làm một bảng khảo sát như
sau:
Thời điểm

Tổng số

Hứng thú

Không hứng thú

Không quan tâm

Đầu năm

42

15 (35,7%)

22 (52.3%)

5 (12%)


Từ việc khơng u thích học mơn văn dẫn đến kết quả học tập chưa đáp
ứng được yêu cầu. Cụ thể kết quả khảo sát đầu năm môn Ngữ văn lớp 6A trường
THCS Đông Tiến (khi chưa áp dụng kinh nghiệm ) như sau:
Tổng số
42

Giỏi

Khá

TB

Yếu

2

15

18

7

(4,7%)

(35,7%)

(42,8%)

(16,8%)


Với kết quả như trên so với yêu cầu của nhà trường đặt ra thì quả là đáng
lo ngại. Nếu cứ duy trì tình trạng dạy và học như thế này thì chắc chắn sẽ khơng
cải thiện được mà thậm chí cịn làm cho HS ngày càng sa sút hơn, nhàm chán
hơn khi học bộ môn này. Là một giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn, tôi rất
băn khoăn và trăn trở làm thế nào giúp các em ham học bộ môn này hơn, để các
em tiến bộ và đạt được kết quả cao hơn.
Bởi vậy, trong năm học vừa qua, tôi đã tiến hành “Sử dụng một số trò
chơi nhằm nâng cao chất lượng giờ học môn Ngữ văn cho học sinh lớp 6A
trường THCS Đông Tiến” đã đạt được kết quả như mong đợi. Đó là học sinh
ngày càng u thích mơn học này hơn và kết quả học tập càng cao hơn.

5


3. Một số kinh nghiệm và cách thức tổ chức
3.1. Những giải pháp chung
- Lựa chọn hình thức chơi: Đối với trò chơi học tập đòi hỏi giáo viên
phải tư duy, sáng tạo lựa chọn hình thức chơi cho phù hợp với mục đích, yêu cầu
từng bài tập, từng tiết học, từng đối tượng sao cho đạt được kết qua hoạt động
cao nhất.
- Luật chơi trò chơi học tập: Phải rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực
hiện, khơng địi hỏi thời gian dài cho việc hướng dẫn, huấn luyện.
- Đối tượng tham gia trò chơi: Trò chơi phải hướng tới đảm bảo tất cả
HS trong lớp đều được tham gia. Tuy nhiên đối với những HS học còn yếu, nhút
nhát GV chỉ nên chỉ định tham gia vào những trị chơi dễ để tạo cơ hội cho các
em hình thành được nhiệm vụ của mình, từ đó khích lệ tinh thần học tập, giúp
các em tự tin, mạnh dạn hơn trong học tập. GV phải định hướng, hướng dẫn
nhằm đạt được mục đích, ý đồ bài học.
- Chuẩn bị: Tuỳ nội dung bài mà chuẩn bị ở nhà hay trên lớp. Dùng bảng

phụ, phiếu học tập tự làm phương tiện dạy học hay trên máy chiếu. Bố trí chia
lớp phù hợp.
3.2. Những giải pháp cụ thể
3.2.1. Trò chơi Ai nhanh, ai giỏi
Mục đích
- Hình thành được u cầu về kiến thức SGK, chuẩn kiến thức.
- Rèn tác phong nhanh nhẹn, phối hợp nhịp nhàng các thành viên trong
nhóm
- Giáo dục ý thức tích cực và tinh thần hợp tác trong các hoạt động tập
thể.
Chuẩn bị
- Lớp đọc kĩ và xác định yêu cầu bài tập
- Chia học sinh thành 2 - 4 nhóm tuy vào từng bài, đặc điểm lớp học
- Chia bảng, phấn, phiếu học tập…..cho nhóm
6


- Quy định thời gian chơi.
Cách thức tiến hành
Giáo viên hơ hiệu lệnh, các nhóm cùng làm theo kiểu tiếp sức.
Ví dụ
a. Vẽ đường biểu thị từ loại từ cột A với cột B
- Bài: Ôn tập Tiếng Việt, Tiết 66 [1]
A

B
bàn
ăn
vng


Danh từ

một
cây

Động từ

này
những

Tính từ

cục
xanh
thứ nhất

Số từ

ngủ
Lượng từ

kia
tất cả

Chỉ từ

nhà
béo
chạy


- Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm. Mỗi nhóm có một phiếu học tập.
Trong cùng thời gian nhóm nào nối đúng được nhiều, nhóm đó chiến thắng.
- Chơi kiểu tiếp sức, tất cả thành viên trong nhóm đều tham gia chơi.
b.Trị chơi Đổi chỗ - Bài: “Hốn dụ”, Tiết 102 [1]
Chia những người tham gia thành 2 đội:
+ Đội A là những người sẽ chuyển thanh chữ đã được sắp xếp theo thứ tự
7


a, b, c… sang vị trí những thanh chữ có nghĩa tương ứng được sắp xếp theo thứ
tự 1, 2, 3…
+ Đội B sẽ chuyển thanh chữ có thứ tự 1, 2, 3…(tức là chuyển về vị trí
vốn có của nó trong các câu văn, thơ)
+ Đội nào nhanh hơn, đúng sẽ thắng
? Những thành ngữ sau đã thực hiện phép tu từ gì?
Đội A

Đội B

Chồng em (a) nghèo khổ em thương

1. ăn cơm đứng

Chồng người (b) giàu sang phú quý mặc người

2. ăn cơm nằm

Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu

3. áo rách


(c) Tình cảm lầm chỗ để trên (d) lý trí

4. áo gấm xơng hương

(e) ít miệng thì kín, (g) nhiều miệng thì hở

5. đầu

Ra thế! To gan hơn béo bụng

6. trái tim

Anh hùng đâu cứ phải (h) đàn ơng

7. chín

Làm ruộng (i) rất dễ dàng

8. một

Ni tằm (k) rất khó

9. mày râu

c. Cho biết câu nào dùng từ đúng? - Bài Chữa lỗi dùng từ, Tiết 23 [1]
- Tìm câu dùng đúng và giải nghĩa từ dùng đúng ?
- Giáo viên chia lớp làm 4 nhóm. Các nhóm thực hiện trị chơi. GV chấm
điểm theo quy định.( Phụ lục 1)


8


Sau khi các nhóm làm xong, GV đưa đáp án cho học sinh đối chiếu
3.2.2. Trò chơi Điền bảng (kết hợp với hoạt động nhóm)
Đặc điểm: Trị chơi này dùng trong những giờ ôn tập. Thay bằng việc cho
học sinh lập bảng thống kê kiến thức bình thường, ta có thể làm thành những thẻ
(tờ phiếu) kiến thức, sau đó phát cho nhóm và yêu cầu các nhóm học sinh dùng
thẻ này để điền vào ô trống trên bảng thống kê. Mục tiêu cuối cùng là giúp học
sinh thống kê được đầy đủ kiến thức đã học. Cách này nhẹ nhàng mà huy động
được sự tham gia của cả lớp.
Chuẩn bị: Giáo viên làm một bảng tổng kết trong đó chỉ có đề mục và
các tiêu chí thống kê. Phần nội dung các ô trong bảng sẽ được chuyển thành các
thẻ, các thẻ này phát cho các nhóm.
Ví dụ: Bài Ôn tập truyện dân gian, Tiết 54+55 [1]
Trong phần lập bảng thống kê các văn bản truyện dân gian ta giữ lại các ô:
thứ tự, tên văn bản, thể loại, nội dung ý nghĩa, đặc điểm nghệ thuật. Các ô nội
dung khác bỏ trống để học sinh dán thẻ kiến thức
9


- Các nhóm học sinh nhận thẻ kiến thức và tiến hành trao đổi thảo luận để
tìm và đưa ra những thẻ kiến thức phù hợp với các ô trống.
- Đại diện các nhóm học sinh lên trình bày và dán phiếu vào bảng tổng kết.
- Các nhóm thực hiện xong, GV nhận xét, cho điểm ( Phụ lục 2)
- GV dùng bảng phụ hoặc máy chiếu để hs đối chiếu đáp án
3.2.3. Trò chơi Đọc thơ (hoạt động cá nhân)
Đặc điểm: Học sinh thường sợ đọc thuộc lòng các bài thơ hay đoạn thơ.
Nhưng với trò chơi này sẽ giúp HS hứng thú hơn và thuộc thơ nhanh hơn. Hoạt
động này nên sử dụng sau những tiết học xong bài thơ hoặc ca dao.

Chuẩn bị:
- Sau khi học xong bài thơ, GV cho HS nhẩm lại bài thơ.
- Học sinh nhẩm lại các câu thơ trong bài thơ vừa học xong.
Ví dụ: Văn bản Đêm nay Bác khơng ngủ, Tiết 94+95 [1]
- Sau khi học xong bài thơ này, giáo viên cho học sinh nhẩm lại và sau đó
tiến hành thực hiện trò chơi.
- Giáo viên đọc trước một câu: “Anh đội viên thức dậy”
- Sau đó yêu cầu học sinh đọc câu thơ tiếp theo: “Thấy trời khuya lắm
rồi”
10


- Học sinh vừa đọc xong thì có quyền chỉ định một bạn bất kỳ trong lớp
đọc tiếp các câu còn lại của bài thơ. Tương tự thực hiện cho đến khi hết bài thơ
hoặc có yêu cầu dừng của GV. Bạn nào đọc sai sẽ làm một hoạt động do lớp
hoặc giáo viên yêu cầu.
3.2.4. Trò chơi Xem tranh đoán bài, giới thiệu về bài
a. Xem tranh đoán bài, giới thiệu về bài
Ví dụ: Bài Ơn tập truyện và kí, Tiết 117 [1]
Đặc điểm: Trị chơi này kích thích khả năng ghi nhớ, tư duy và khả năng
diễn đạt của học sinh. Nó cũng đơn giản, thích hợp với nhiều giờ học Ngữ văn.
Cách thức tiến hành
+ Giáo viên chia học sinh thành các nhóm (7-10 học sinh).
+ GV chiếu từng hình ảnh trên màn hình.

Vượt thác - Võ Quảng

Sơng nước Cà Mau - Đồn Giỏi

Bài học đường đời đầu tiên - Tơ Hồi


Lao xao – Duy Khán

11


Cô Tô – Nguyễn Tuân

Bức tranh của em gái tôi-Tạ Duy Anh

Cây tre Việt Nam – Thép Mới

Buổi học cuối cùng- An-phơng-xơ Đơ-đê

- Từng nhóm đốn tên bài và giới thiệu những kiến thức về tác phẩm như
tên tác giả, nội dung ý nghĩa, đặc sắc nghệ thuật.
- Giáo viên cần tìm ra một ban giám khảo: GV và một số HS trong lớp.
-> Lưu ý: trị chơi này kích thích khả năng ghi nhớ, diễn đạt trước tập thể
của HS cho nên ban giám khảo cần nhìn nhận, đánh giá cho phù hợp cả nội dung
kiến thức và tác phong, ngôn ngữ diến đạt, không nên đánh giá theo ý chủ quan.
b. Diễn xuất không lời - tưởng tượng tài ba
- Đặc điểm: Trị chơi khơng chỉ địi hỏi khả năng diễn xuất “kịch câm”
mà cịn kích thích tư duy, trí liên tưởng, tưởng tượng rất phong phú. Nó tạo nên
được sự hào hứng, hứng thú rộng lớn cho các em học sinh. Kiểu chơi này được
ứng dụng nhiều trong các game show truyền hình hiện nay.
- Cách thức tiến hành
+ Cả lớp chia thành 4 tổ, mỗi tổ cử 2 bạn tham gia thành lập một đội. Đội
12



1 và 2 chơi trước; đội 3 và 4 là quan sát viên.
+ GV đưa cho đội 1 và 2 một tờ phiếu cùng ghi tên 3 tác phẩm truyện đã
đọc.
+ Đội 1 sẽ chọn và giới thiệu tên của một tác phẩm truyện, nhưng không
dùng ngôn ngữ mà diễn tả bằng cử chỉ, động tác. Đội 2 quan sát để nhận ra tên
tác phẩm truyện và đáp lại bằng cách giới thiệu về một nhân vật ở trong tác
phẩm truyện đó (cũng khơng dùng ngơn ngữ mà diễn tả bằng cử chỉ, động tác).
+ Đội 3 và 4 sẽ cùng đoán xem đội 1 và 2 giới thiệu về truyện gì và nhân
vật nào.
+ Sau đó đổi vai, đội 3 và 4 sẽ là người chơi, đội 1 và 2 là quan sát viên
và đoán kết quả (tên truyện và tên nhân vật mà đội 3 và 4 giới thiệu).
+ Cả lớp trao đổi và nhận xét về phần chơi của các đội.
3.2.5. Trị chơi Ơ chữ
- Đặc điểm: Trò chơi này khá quen thuộc, được áp dụng nhiều và được sự
đón nhận rất nhiệt tình và hứng khởi của các em HS. Chính vì thế, nó mang lại
hiệu quả cũng rất cao. Trị chơi này thích hợp với một giờ văn học hoặc tiếng
Việt.
- Chuẩn bị
+ GV hoặc HS soạn ra một bảng ô chữ cùng các câu hỏi đi kèm tương
ứng với kiến thức của các ô hàng ngang cần thực hiện. Từ gợi ý của các ô hàng
ngang, HS dần dần tìm ra nội dung của ô hàng dọc – đây là ô chính mà nội dung
của nó có tầm quan trọng đối với bài học mà HS cần nắm chắc và ghi nhớ được.
+ Bảng ô chữ này có thể chuẩn bị từ bảng phụ. Để trò chơi mới lạ hơn,
giáo viên yêu cầu học sinh tự làm hoặc có thể áp dụng cơng nghệ thơng tin để
tạo ra phần mềm trị chơi.
Ví dụ: Ơ chữ bài “Con hổ có nghĩa” Tiết 59 [1]
Mục đích
- Củng cố kiến thức bài Con hổ có nghĩa.
- Xâu chuỗi kiến thức xây dựng chủ đề bài học.
13



- Kích thích tư duy của học sinh.
- Giảm bớt căng thẳng trong giờ học.
- Rèn luyện trí thơng minh và phản xạ nhanh.
Chuẩn bị
Thiết kế nội dung
- Giáo viên chuẩn bị một ơ chữ khổ to để trình chiếu hoặc treo lên bảng
gồm các câu hỏi và gợi ý cho câu trả lời.
- Thiết kế ô chữ

- Hàng ngang
Câu sè 1. Gồm 7 chữ cái. Biện pháp nghệ thuật cơ bản bao trùm lên
truyện “Con hổ có nghĩa” là gì?
Câu sè 2. Gồm 9 chữ cái. Người kiếm củi đã cứu giúp con hổ thứ hai
trong truyện ở huyện nào?
Câu sè 3. Gồm 8 chữ cái. Tại sao con hổ “trán trắng” lại cần người kiếm
củi giúp đỡ?
Câu sè 4. Gồm 15 chữ cái. Truyện ”Con hổ có nghĩa” thuộc loại truyện
sáng tác thời kì nào?

14


Câu sè 5. Gồm 8 chữ cái. Truyện trung đại Việt Nam thường mang tính
chất này?
Câu sè 6. Gồm 8 chữ cái. Bà đỡ Trần ở huyện nào?
Câu sè 7. Gồm 6 chữ cái. Con hổ thứ nhất đã trả ơn bà đỡ Trần bằng gì?
Từ hàng dọc. Gồm 7 chữ cái. Truyện muốn đề cao điều gì?
Cách thức tiến hành

- Chú ý: yêu cầu HS phải gấp sách giáo khoa trong khi chơi.
- Giáo viên (người quản trò) chia lớp ra thành 2 đội chơi, kẻ ô chữ lên
bảng (hoặc chiếu trên màn hình). Sau đó phổ biến luật chơi.
- Luật chơi như sau:
+ Người quản trò sẽ là người đọc gợi ý để mở ô chữ.
+ Sau khi người quản trò đọc, thời gian suy nghĩ là 30 giây, trong 2 đội,
đội nào có tín hiệu xin trả lời sẽ được quyền trả lời. Nếu trả lời sai thì cơ hội
dành cho đội cịn lại.
+ Ơ chữ gồm 7 từ hàng ngang và một từ hàng dọc. Mỗi từ hàng ngang
tìm được sẽ được 10 điểm. Đội nào tìm được từ hàng dọc trước khi giải được 5
từ hàng ngang sẽ được 20 điểm, cịn sau khi tìm được 5 ô chữ hàng ngang sẽ
được 15 điểm.
+ Cuối cuộc chơi đội nào ghi được nhiều điểm sẽ giành chiến thắng.
- Nếu đội nào trả lời sai từ khoá thì bị loại khỏi phần thi này.
Gợi ý: Hàng ngang: 1. (NHÂN HÓA); 2. (LẠNG GIANG); 3. (HÓC
XƯƠNG); 4. (TRUNG ĐẠI VIỆT NAM); 5. (GIÁO HUẤN); 6. (ĐÔNG
TRIỀU); 7. (CỤC BẠC)
Hàng dọc: (ÂN NGHĨA)
3.2.6. Trị chơi Tạo chuỗi câu móc xích
Mục đích: Luyện tập kĩ năng phân tích cấu trúc câu và kĩ năng đặt câu.
Cách thức tiến hành: Chia lớp làm 2 hoặc 4 đội. Từng cặp đôi thi đấu
với nhau. Người của đội này nói ra một câu bất kì. Người kế tiếp của đội kia
phải đặt một câu mà câu này phải lấy một bộ phận nào đó của câu mà người ở
15


đội đi trước đã đưa ra để làm chủ ngữ, nhưng khơng được lấy chủ ngữ của câu
đó. Trị chơi cứ thế tiếp tục.
Ví dụ: Bài Các thành phần chính của câu, Tiết 107, 108 [1]
+ Người thứ nhất đội A: Hôm nay mọi người đều đi học đầy đủ

+ Người thứ nhất đội B: Đi học đầy đủ là yếu tố quan trọng giúp chúng
ta đạt kết quả tốt trong thi cử.
+ Người thứ hai đội A: Chúng ta cần siêng năng trong mọi công việc.
+ Người thứ hai đội B: Công việc cần thiết nhất của chúng ta lúc này là
học tập.
+ Người thứ ba đội A: Lúc này là lúc địi hỏi mọi người phải có một nỗ
lực cao nhất. (Và cứ thế tiếp tục).
- Trong trò chơi này, cứ mỗi câu đặt đúng được tính 3 điểm. Mỗi lần
người chơi được suy nghĩ 1 phút để đặt câu. Khi kết thúc trò chơi, đội nào nhiều
điểm hơn sẽ thắng. GV làm trọng tài cho trò chơi này.
3.2.7. Trị chơi Đóng vai các nhân vật trong bài đọc
- Mục đích: Luyện tập kĩ năng ghi nhớ cốt truyện, diễn kịch, chuyển thể
văn bản (văn xuôi – kịch).
- Cách thức tiến hành
+ Giáo viên hoặc HS có thể chuyển đổi văn bản văn học thành kịch bản.
+ Không nhất thiết phải chuyển đổi tồn bộ văn bản, có thể chọn một
đoạn giàu tính kịch chứa đựng ý nghĩa sâu sắc. Hoặc kịch bản đơn giản chỉ là ý
tưởng, phần lời thoại để người học tự sáng tạo.
+ GV hướng dẫn, định hướng cho HS về ngôn ngữ kịch, xung đột, cách
diễn xuất, phối hợp, bài trí cảnh sân khấu, đạo cụ, ...
Ví dụ: Văn bản “Thầy bói xem voi”, Tiết 40 [1]
- Chia lớp thành các nhóm, mỗi nhóm có các em đóng vai 5 ơng thầy bói
- Dựa theo câu chuyện và lời các nhân vật, các em diễn lại “màn kịch” của
câu chuyện này.
- Các nhóm tự nhận xét và nghe thầy, cô tổng kết, đánh giá.
16


* Lưu ý
+ Sử dụng cuối giờ học. Cần xác định trước thời gian cho vở diễn.

+ Để tiết học hiệu quả hơn, GV nên hướng dẫn HS từ tiết học trước để các
em có thời gian chuẩn bị.
+ HS có thể tham khảo trên internet (youtube.com) hoặc Chuyên mục Nhà
biên kịch trẻ (Báo Văn học và Tuổi trẻ).
3.2.8. Trò chơi Gợi ý đốn từ
Mục đích
- Rèn luyện năng lực định nghĩa từ.
- Phát triển đầu óc khái quát, phân tích và liên tưởng.
Chuẩn bị: Một số nhóm từ (3 đến 5 từ, chủ yếu là danh từ) sắp xếp từ dễ
đến khó và ghi vào một tờ phiếu.
Ví dụ: Bài Nghĩa của từ, Tiết 11 [1]
- bác sĩ, nhà cửa, truyện tranh, mập, chị
- công nhân, cảnh sát giao thông, bố mẹ .
- họa sĩ, quần áo, ngủ.
Cách thức tiến hành
- Để một cái bàn và hai cái ghế đối diện nhau. Chia những người chơi ra
từng nhóm 2 người. Lần lượt mỗi nhóm lên rút phiếu từ để đốn. Một người
trong nhóm nêu ra lời gợi ý, người cịn lại đốn từ đó là gì. Ví dụ từ cần đoán là
từ “chị”
+ Người gợi ý: Người cùng bố mẹ với mình, sinh ra trước mình mà là con
gái?
+ Người đốn: Chị (Đúng)
- Lời gợi ý phải khơng có những từ (tiếng) trùng với từ cần đốn, nếu
khơng sẽ bị coi là phạm luật và khơng được tính điểm. Trường hợp khơng đốn
được, người đốn nói “Bỏ qua”. Nên quy định thời gian thực hiện (3 đến 5 phút)
và cho điểm mỗi trường hợp đoán đúng. Người gợi ý và người đốn có thể đổi
vai cho nhau. Nhóm nào được nhiều điểm hơn sẽ thắng.
17



Chú ý
- Từ để đoán cần tránh chọn từ nhiều nghĩa, từ đồng âm, từ đồng nghĩa, từ
có nhiều cách viết, cách đọc khác nhau.
- Có thể cho HS dùng thêm điệu bộ, cử chỉ, động tác,... để gợi ý nhằm tạo
ra sự sinh động, vui cười. Nhưng mỗi lượt chơi chỉ được sử dụng 1 hoặc 2 lần,
nếu phạm lỗi sẽ bị trừ điểm.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua q trình áp dụng những trị chơi vào các tiết dạy học Ngữ văn 6 ở
trường THCS Đông Tiến, tơi nhận thấy rằng: trị chơi là một hoạt động bổ trợ
cho việc dạy Ngữ văn. Hoạt động này thiên về chơi nên nó xố đi sự nặng nề.
Học sinh được tiếp nhận nhiều kiến thức, kỹ năng qua những hoạt động dễ dàng,
gây hứng thú. Chính vì lẽ đó mà những học sinh đã được học qua những tiết dạy
có áp dụng trị chơi khơng chỉ có cơ hội tìm hiểu, ơn tập kiến thức mà cịn thể
nghiệm hành vi, rèn luyện kỹ năng, sự tư duy, phản ứng nhanh. Các em được
rèn khả năng quyết định lựa chọn các phương án đúng, cách giải quyết tình
huống hợp lí. Đây là bài học thực tế trước khi học sinh rút ra kết luận, lý thuyết
trừu tượng. Trò chơi cũng là biện pháp tăng cường sự phấn đấu tích cực trong
từng cá nhân hoặc trong nhóm học sinh. Tổ chức trị chơi theo nhóm cịn giúp
tăng cường hoạt động làm việc nhóm, từ đó phát triển kỹ năng giao tiếp cho học
sinh. Cụ thể sau khi áp dụng việc tổ chức trò chơi trong giờ học Ngữ văn 6 cả
GV và HS đều thu được kết quả khả quan.
Đối với giáo viên, không mất quá nhiều thời gian chuẩn bị, thời gian của
tiết dạy mà GV và HS vẫn đảm bảo được nội dung kiến thức bài học, hoàn thành
được bài tập SGK. Tạo được tình huống có vấn đề rất sinh động và hấp dẫn để
giáo viên khắc sâu kiến thức. Từ đó làm cho khơng khí lớp học thoải mái, kích
thích được tinh thần học tập của HS đặc biệt với những em sức học yếu, chậm,
nhút nhát. Thực hiện được đổi mới phương pháp giáo dục một cách sáng tạo và
hiệu quả.
Đối với học sinh, giúp các em rèn luyện tư duy, tác phong nhanh nhạy,
18



biết xử lý tình huống linh hoạt. HS thích thú do đó tiếp thu kiến thức dễ dàng
hơn. Các em có điều kiện cùng chuẩn bị, chủ động trong học tập.
Như vậy so với thời điểm mà tôi chưa áp dụng phương pháp tổ chức trị
chơi trong giảng dạy mơn Ngữ văn, tôi nhận thấy rằng: nếu như trước đây các
em học sinh có vẻ rất lo ngại mỗi khi đến tiết Ngữ văn thì bây giờ các em rất hồ
hởi và phấn khích khi đón nhận nó. Đó là kết quả mà tôi không thể mong đợi
hơn. Bởi lẽ, từ sự thích thú, u mến mơn học này đã giúp các em chăm chỉ học
tập và kết quả học tập ngày càng tốt hơn qua bảng số liệu sau trước và sau khi áp
dụng sáng kiến.
Bảng kết quả khảo sát hứng thú học của HS lớp 6A
Thời điểm

Tổng số

Hứng thú

Không hứng thú

Không quan tâm

Đầu năm

42

15 (35,7%)

22 (52.3%)


5 (12%)

Cuối năm

42

35(83,3%)

7(16,7%)

0

Bảng kết quả học tập của HS lớp 6A
Thời điểm

Tổng số

Giỏi

Khá

TB

Yếu

Đầu năm

42

2


15

18

7

(4,7%)

(35,7%)

(42,8%)

(16,8%)

10

23

9

0

(23,8%)

(54,7%)

(21,5%)

Cuối kì II


42

So sánh với kết quả đầu năm trước khi chưa áp dụng SKKN, tôi nhận thấy
học sinh hứng thú với môn Ngữ văn tăng lên đáng kể. Nếu như trước khi áp
dụng theo điều tra mức độ hứng thú đối với mơn Ngữ văn là 35,7% thì sau khi
áp dụng cũng câu hỏi điều tra ấy cho kết quả là 83,3% (tăng 47,6%). Từ đó, kết
quả học tập của học sinh có sự tiến bộ rõ rệt. HS giỏi tăng 19,1%, HS khá tăng
19%, HS trung bình giảm 21,2% và khơng cịn HS yếu kém. Kết quả này đã
được nhà trường, đồng nghiệp cũng như các bậc phụ huynh học sinh ghi nhận và
tỏ ra rất hài lòng.

19


III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Hiệu quả việc sử dụng trò chơi học tập trong dạy học Ngữ văn ở trường
THCS là không thể phủ nhận. Tuy nhiên cũng không tránh khỏi những hạn chế
dẫn đến kết quả đi ngược lại với mong muốn. Điều đó là do nhiều nguyên nhân:
- GV lạm dụng khi sử dụng trò chơi, tổ chức quá nhiều trò chơi trong một
tiết học dẫn đến học sinh mệt mỏi vì phải chơi nhiều. GV chuẩn bị bài không
chu đáo hoặc kĩ năng tổ chức trò chơi của giáo viên chưa tốt.
- Trò chơi bị lặp lại trong tiết học, không đủ hấp dẫn để thu hút sự chú ý
của học sinh.
Vì vậy muốn tổ chức thành cơng trị chơi trong dạy học Ngữ văn 6 tạo
hứng thú cho HS, giáo viên cần chú ý đến những vấn đề sau:
Thứ nhất: thiết kế, lựa chọn trị chơi phải có mục đích học tập, gắn với
bài học và gấy hứng thú để thu hút sự tham gia của học sinh. Trò chơi phải đơn
giản, dễ thực hiện và không tốn nhiều thời gian.

Thứ hai: đảm bảo thực hiện theo trình tự
- GV giới thiệu tên trò chơi, cách chơi, luật chơi và thời gian chơi.
- Chơi thử nếu cần.
- Tổ chức chơi.
- Nhận xét kết quả chơi.
- Kết thúc trị chơi (HS được gì qua trò chơi)
Thứ ba: chuẩn bị bài một cách chu đáo, dự kiến những tình huống có thể
nảy sinh trong khi tổ chức trị chơi để khi gặp có thể giải quyết cho tốt.
Ngồi ra, trong q trình tổ chức chơi GV cần tạo điều kiện cho tất cả HS
trong lớp được cùng tham gia. Có như vậy hiệu quả đạt được mới cao.
2. Kiến nghị
Với đề tài “ Sử dụng một số trò chơi nhằm nâng cao chất lượng giờ học
môn Ngữ văn cho học sinh lớp 6 trường THCS Đông Tiến” đã một phần gây
hứng thú hơn trong tiết học, HS đã có sự chuyển biến hơn tích cực giao lưu với
20


thầy cô hơn, trong mỗi giờ học tất cả HS đều muốn tham gia vào quy trình dạy
học, các em khơng cịn thụ động ngồi nghe GV giảng bài mà cảm thấy hứng thú
hơn, hăng say phát biểu bài hơn. Tuy nhiên đây chưa phải là phương pháp tối ưu
nhất bởi vì cũng khơng phải tiết dạy văn nào chúng ta cũng áp dụng được các trò
chơi một cách hiệu quả. Chính vì vậy khi dạy bất kì một tiết học nào cũng cần
kết hợp rất nhiều các phương pháp khác nhau để đạt hiệu quả cao trong quá trình
giảng dạy của mình.
Đối với các thầy cơ giáo
- Cần linh động, sáng tạo trong việc đổi mới PPDH
- Xác định đối tượng, lựa chọn trò chơi phù hợp, đảm bảo đúng qui trình
chơi
Về phía nhà trường
- Thường xun tổ chức học tập, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy lẫn nhau,

nhất là phương pháp giảng dạy đổi mới theo tinh thần SGK mới
- Cần đầu tư thêm tài liệu tham khảo về môn văn, phương tiện hiện đại hỗ
trợ dạy học, sắp xếp để các em học sinh có điều kiện tham khảo, nghiên cứu.
Về phía lãnh đạo Phịng Giáo dục
- Kịp thời trang bị đầy đủ thiết bị và đồ dùng dạy học, sách tham khảo có
chất lượng cho các trường.
Sử dụng trò chơi trong dạy học NV6 nhằm tạo hứng thú, tâm thế cho HS
là một trong những giải pháp hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng môn học, đáp
ứng yêu cầu đổi mới trong giáo dục, song có nhiều trò chơi đang còn khá mới
mẻ. Mặc dù trong quá trình giảng dạy, áp dụng, đúc rút kinh nghiệm bản thân đã
có nhiều trăn trở, tìm tịi song vẫn khơng thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn
chế. Tuy nhiên cũng xin được chia sẻ cùng các bạn đồng nghiệp mong góp một
chút sức mình vào cơng tác đổi mới PPDH văn trong nhà trường. Tôi rất mong
nhận được những đóng góp quý báu của đồng nghiệp, Hội đồng khoa học, để đề
tài ngày càng thiết thực hơn.

21


XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 04 năm 2020
Tôi cam đoan SKKN này là của bản thân,
khơng sao chép nội dung của người khác.
Người thực hiện

Dỗn Thị Thủy

22



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sách giáo khoa Ngữ văn 6, tập 1 và 2, Nxb Giáo
dục, Hà Nội, 2009
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn ở trường
THCS (Tài liệu dành cho GV), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2010
3. Cẩm nang phương pháp sư phạm, Nhiều tác giả, NXB Tổng hợp TP. HCM,
2014
4. Dạy học Ngữ văn 6 theo hướng tích hợp, Lê A (chủ biên), Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội, 2007
5. Dạy học phát triển năng lực môn Ngữ văn THCS, Đỗ Ngọc Thống (chủ biên),
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2018
6. Luật Giáo dục tại Hội nghị TW 8 – Khoá XI

23


CÁC ĐỀ TÀI SKKN CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG CẤP
PHÒNG GD & ĐT, CẤP SỞ GD & ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN ĐÁNH
GIÁ ĐẠT TỪ LOẠI C TRỞ LÊN

Năm học

Tên đề tài

Xếp

Cấp


loại
2010- 2011

Một số vấn đề về phương B

Cấp huyện

pháp giảng dạy pháp luật ở
THCS
2012 - 2013

Phương pháp dạy-học văn tự B

Cấp huyện

sự ở lớp 6.
2018 - 2019

2019 - 2020

Các biện pháp hướng dẫn học A

Cấp huyện (Quyết định số

sinh chuẩn bị bài bằng phiếu

242/ QĐ- PGD ngày

học tập nhằm nâng cao hứng


10/05/2016 của trưởng

thú khi tìm hiểu truyện ngắn

phòng GD&ĐT về việc

hiện đại Việt Nam cho học

công nhận đề tài khoa học,

sinh lớp 8 trường THCS

SKKN nghành giáo dục

Đông Tiến.

năm 2018 – 2019).

Sử dụng một số trị chơi
nhằm nâng cao chất lượng
giờ học mơn Ngữ văn cho
học sinh lớp 6A trường
THCS Đông Tiến

A

Cấp Huyện (CV 429/ PGD
ngày 22/06/2020 của trưởng
phịng GD&ĐT về việc cơng
nhận đề tài khoa học, SKKN

nghành giáo dục năm 2019 –
2020).

24



×