Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

NGHIÊN CỨU CHỌN LỌC MỘT SỐ DÒNG KEO LAI (ACACIA MANGIUM x ACACIA AURICULIFORMIS) CÓ NĂNG SUẤT CAO TẠI ĐỒNG NAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 94 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
KHOA LÂM HỌC
========&&&=======

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Chủ đề:
NGHIÊN CỨU CHỌN LỌC MỘT SỐ DÒNG KEO LAI (ACACIA
MANGIUM x ACACIA AURICULIFORMIS) CÓ NĂNG SUẤT CAO TẠI
ĐỒNG NAI

Giảng viên/Cán bộ hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Lớp:
Mã Sinh Viên:

Hà Nội, 2022

TS. Phạm Thế Anh
Trần Quý Vương
K63 – Lâm sinh
1853010122


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
cơng trình nghiên cứu nào khác.
Nếu kết quả nghiên cứu của tôi trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên
cứu nào đã cơng bố, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm và tuân thủ kết luận
đánh giá luận văn của Hội đồng khoa học.


Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2022
Người cam đoan

Trần Quý Vương


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành Chương trình đào tạo đại học của Trường Đại học Lâm
nghiệp, tơi thực hiện khóa luận “Nghiên cứu chọn lọc một số dòng Keo lai
(Acacia mangium x Acacia auriculiformis) có năng suất cao tại Đồng Nai”.
Đây là một q trình cố gắng, phấn đấu khơng ngừng nghỉ của bản thân và
được sự giúp đỡ tận tình, động viên khích lệ của thầy cơ, bạn bè và người
thân.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu cùng tồn thể các thầy cơ giáo
trường Đại học Lâm nghiệp, Khoa Lâm học và Bộ môn Điều tra quy hoạch
rừng đã tạo điều kiện cho tơi hồn thành tốt cơng việc nghiên cứu khoa học
của mình.
Xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ Viện nghiên cứu Giống và Công
nghệ sinh học Lâm nghiệp, là đơn vị trực tiếp hỗ trợ kinh phí, nhân lực, vật
liệu và hiện trường nghiên cứu.
Tơi xin chân thành tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến TS. Phạm Thế Anh,
người Thầy đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và truyền đạt những kiến thức quý
báu giúp tơi hồn thiện khóa luận này.
Xin bày tỏ lịng biết ơn đến TS Nguyễn Đức Kiên, chủ nhiệm đề tài cấp
bộ năm 2017-2021 “Nghiên cứu chọn tạo giống Keo lai và Keo lá tràm phục
vụ trồng rừng gỗ lớn ở một số vùng sinh thái chính” đã đồng ý cho tôi sử
dụng bộ số liệu điều tra hiện trường của đề tài làm số liệu đầu vào của khóa
luận này.
Cuối cùng, tơi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn bên
cạnh, ủng hộ, động viên.

Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2022
Sinh viên


Trần Quý Vương
MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TT

Ký hiệu

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15

16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28

BNN&PTNT
CNG
CSO
D1.3
Dnc
Dtt
Fpr
Hvn
KHCN
Icl
Lsd
n
ni
N, Nbđ
Nht
P%

PVBĐ

S%
Sk
TB
TBKN
TBGCN
TCVN
TT
XH
vi
V

Giải thích
Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn
Công nhận giống
Vườn giống vô tính
Đường kính ngang ngực
Độ nhỏ cành
Độ thẳng thân
Mức ý nghĩa thống kê
Chiều cao vút ngọn
Khoa học công nghệ
Chất lượng tổng hợp
Khoảng sai dị đảm bảo giữa các trung bình mẫu
Số cây bị hại
Số cây bị hại với chỉ số bị hại i
Số cây trồng ban đầu
Số cây hiện tại
Tỷ lệ sống

Phạm vi biến động
Quyết định
Hệ số biến động
Sức khỏe
Trung bình
Trung bình khảo nghiệm
Trung bình giống cơng nhận
Tiêu chuẩn Việt Nam
Thứ tự
Xếp hạng
Chị số cấp bị hại thứ i
Thể tích thân cây


DANH MỤC CÁC BẢNG


DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ

ĐẶT VẤN ĐỀ
Keo lai (Acacia hybrid) là giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng
(Acacia mangium) và Keo lá tràm (Acacia auriculiformis) được phát hiện từ
những năm đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ 20. Keo lai mang những đặc tính
vượt trội hơn lồi bố mẹ như sinh trưởng nhanh về đường kính, chiều cao;
hình dạng thân cây thẳng, cành nhánh nhỏ, sinh trưởng và phát triển tốt, biên
độ sinh thái rộng có khả năng thích ứng với nhiều điều kiện lập địa và các loại
đất khác nhau. Đến nay, Keo lai đã trở thành một trong những lồi cây trồng
rừng chính ở nước ta.
Hiện nay, có hơn 34 giống Keo lai đã được công nhận là giống quốc gia
và giống tiến bộ kỹ thuật cho trồng rừng sản xuất. Một số giống Keo lai được

sử dụng rộng rãi trong trồng rừng như BV10, BV16, BV32, BV33, BV71,
BV73, BV75, các giống Keo lai này đã góp phần nâng cao năng suất và chất
lượng rừng trồng ở nước ta. Tuy nhiên, việc trồng rừng bằng một số dịng vơ
tính trên diện tích lớn tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn sinh học và tăng khả năng
bị sâu bệnh hại.
Trong những năm gần đây, chương trình nghiên cứu cải thiện giống cho
Keo tai tượng và Keo lá tràm đã được tiến hành một cách đồng bộ và bài bản
tạo ra các quần thể chọn giống mới có chất lượng và tính đa dạng di truyền
cao. Trên các quần thể chọn giống này, nhiều cây lai tự nhiên có sinh trưởng


nhanh, hình dạng thân đẹp đã được phát hiện. Đây là cơ sở để chúng ta nghiên
cứu chọn lọc được các dịng vơ tính Keo lai mới có năng suất cao và chất
lượng tốt phục vụ sản xuất.
Đồng Nai được đánh giá là nơi có điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội
rất thuận lợi để phát triển rừng trồng sản xuất một cách bền vững và hiệu quả.
Diện tích rừng trồng sản xuất của tỉnh khoảng 59.000 ha, trong đó diện tích
rừng trồng Keo lai chiếm 62,8%... Để nâng cao năng suất, chất lượng gỗ,
nâng cao khả năng chống chịu với các tác nhân bất lợi từ môi trường, đặc biệt
là tăng tính đa dạng di truyền cần phải có những dịng Keo lai mới để áp dụng
vào sản xuất. Vì vậy đề tài “Nghiên cứu chọn lọc một số dịng Keo lai
(Acacia mangium x Acacia auriculiformis) có năng suất cao tại Đồng Nai”
được thực hiện là cần thiết và có ý nghĩa.


CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nghiên cứu về Keo lai tự nhiên trên thế giới
1.1.1. Lịch sử phát hiện và các đặc tính, đặc trưng


Keo lai là tên gọi tắt để chỉ giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng
(Acacia mangium) và Keo lá tràm (Acacia auriculiformis). Giống lai tự nhiên
này được Messrs Herburn và Shim phát hiện lần đầu tiên vào năm 1972 trong
số các cây Keo tai tượng trồng ven đường ở Sook Telupid thuộc bang Sabah
của Malaysia. Sau này Tham (1976) cũng coi đó là giống lai. Đến tháng 7
năm 1978, sau khi xem xét các mẫu tiêu bản tại phòng tiêu bản thực vật ở
Queensland (Australia) được gửi đến từ tháng 1 năm 1977, Pedgley đã xác
nhận đó là giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm (dẫn từ Lê
Đình Khả, 1999c) [6].
Theo kết quả nghiên cứu của Pinso và Nasi (1991) [34] thì Keo lai
được phát hiện lần đầu tiên ở Sabah, Malaysia vào những năm 1970. Còn theo
Rufelds (1988) [35] thì Keo lai ở Ulu Kukut có kích thước lớn hơn, dạng cành
và thân tròn đều hơn các cây mẹ Keo tai tượng ở gần đó.
Keo lai tự nhiên cũng được phát hiện ở vùng Balamuk và Old Tonda
của Papua New Guinea (Turnbull, 1986, Gun et al., 1987; Griffin, 1988), ở
một số nơi khác tại Sabah (Rufelds, 1987) và Ulu Kukut (Darus và Rasip,
1989) của Malaysia. Riêng ở Sabah đã tìm thấy Keo lai ở 12 nơi (Relds và
Lapongan, 1986). Keo lai cũng được phát hiện ở Thái Lan (Kijkar, 1992)
[30]. Ở đây Keo lai được gây trồng thành đám khoảng 30 cây tại trụ sở của
Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng Asean - Canada ở Muak-Lek, Saraburi.
Ngoài ra, từ năm 1992 ở Indonesia đã bắt đầu có thí nghiệm trồng Keo
lai từ ni cấy mơ phân sinh, cùng Keo tai tượng và Keo lá tràm (Umboh et
al., 1993). Keo lai tự nhiên cịn được tìm thấy ở vườn ươm Keo tai tượng (lấy
giống từ Malaysia) của Trạm nghiên cứu Jon - Pu của Viện nghiên cứu Lâm


nghiệp Đài Loan (Kiang Tao et al., 1988) và ở khu trồng Keo tai tượng tại
Quảng Châu, Trung Quốc (dẫn từ Lê Đình Khả, 1999c) [6].
Các kết quả nghiên cứu của Rufeld (1988) [35], Pinso và Nasi (1991)
[34], Kijkar (1992) [30] về đặc điểm hình thái của Keo lai, đều thấy chúng có

các đặc trưng hình thái và giải phẫu trung gian giữa hai loài keo bố mẹ. Tuy
nhiên, khi cịn nhỏ tuổi thì Keo lai có lớp vỏ mầu lục nhạt, tương tự như vỏ
cây Keo lá tràm, thêm một vài tuổi nữa, vỏ chuyển sang màu nâu, cuối cùng
trở thành mịn như vỏ cây Keo lá tràm, với vảy mỏng, rãnh nơng ở gần sát
gốc. Ngồi ra, Bowen (1981) [25] cịn cho rằng tính chất trung gian của Keo
lai so với hai lồi keo bố mẹ cịn được thể hiện ở các tính trạng khác như hoa
tự, hoa và hạt.
Một số nghiên cứu cây con Keo lai trong giai đoạn vườn ươm cây, đã cho
thấy Keo lai hình thành lá giả (Phyllode) sớm hơn so với Keo tai tượng và muộn
hơn so với Keo lá tràm (Rufeld, 1988) [34]. Theo Gan, E và Sim Boon Liang
(1991) [26] thì lá giả đầu tiên của Keo lai thường xuất hiện ở lá thứ 5 - 6 đến 8 9, trong khi Keo lá tràm thường xuất hiện ở lá thứ 4 - 5 của cây con và Keo tai
tượng thường xuất hiện ở lá thứ 8 - 9 đến 10 - 11. Cũng theo Gan, E và Sim
Boon Liang (1991) [26] thì tỷ lệ Keo lai xuất hiện trong các vườn ươm Keo lá
tràm là 6,8 - 10,3%, cá biệt có thể đến 22,5%; cịn trong vườn ươm Keo tai
tượng thì tỷ lệ Keo lai xuất hiện là 3,3 - 9,3%, cá biệt có thể đến 23%.
Keo lai có độ tròn đều về thân hơn so với Keo tai tượng, có đường kính
cành nhỏ hơn và khả năng tỉa cành tốt hơn so với Keo tai tượng, song độ
thẳng thân cây, hình dạng tán lá và góc phân cành lại kém hơn so với Keo tai
tượng (Rufelds, 1988) [35]. Nghiên cứu của Pinso và Nasi (1991) [34] lại cho
thấy, độ thẳng thân cây, đoạn thân dưới cành, độ tròn đều thân... của cây Keo
lai đều tốt hơn so với Keo tai tượng và Keo lá tràm, và cho rằng Keo lai rất
phù hợp với các chương trình trồng rừng thương mại.
1.1.2. Nghiên cứu chọn tạo giống


Pinso và Nasi (1991) [34] khi đánh giá tổng hợp về Keo lai tại Sabah,
thì kết quả cho thấy, các cây lai có ưu thế lai và chịu sự ảnh hưởng của cả yếu
tố di truyền lẫn điều kiện lập địa lên các ưu thế lai. Sinh trưởng của cây Keo
lai tự nhiên đời F1 tuy có tốt hơn xuất xứ Sabah của Keo tai tượng, song lại
kém hơn xuất xứ ngoại lai như Oriomo (Papua New Guinea) hoặc Claudie

River (Queesland, Australia), đến đời F2 trở đi thì cây Keo lai sinh trưởng
không đồng đều so với trị số trung bình, thậm chí cịn kém hơn cả Keo tai
tượng, mặc dù vẫn một số cây xuất sắc có khá hơn.
Khi trồng thử các dòng Keo lai của Việt Nam ở Indonesia, cho thấy có
sinh trưởng tương đương với các lơ hạt Keo tai tượng từ vườn giống
(Harwood và cộng sự, 2014) [28]. Kết quả đánh giá sinh trưởng ở giai đoạn 3
tuổi trong khảo nghiệm giống lai tại Indonesia cho thấy, sinh trưởng của Keo
lai tự nhiên là tương đương với Keo tai tượng, 12 trong số 44 dịng vơ tính
Keo lai có sinh trưởng nhanh hơn so với các giống đối chứng Keo tai tượng từ
vườn giống, với độ vượt về thể tích từ 12 đến 35,4%. Kết quả cịn cho thấy,
có sự biến động rất lớn giữa các cá thể lai, do đó có thể chọn lọc được những
cá thể có sinh trưởng vượt trội để nhân giống và phát triển rừng trồng dịng vơ
tính (Sunarti và cộng sự 2013) [39].
Theo Nguyễn Đức Kiên (2016) [33] thì tại Ấn Độ, Malaysia, Indonesia
các nghiên cứu về chọn lọc dòng vơ tính Keo lai đã được tiến hành từ khá lâu
và cũng đạt được một số thành tựu nhất định. Trong 2 năm 1995 - 1996, công
ty Sabah Softwood Berhad của Malaysia đã tiến hành chọn lọc gần 40 dòng
Keo lai (cây mẹ là Keo tai tượng) để khảo nghiệm, kết quả đánh giá sau 6
năm tuổi cho thấy có sự khác biệt khá rõ rệt giữa các dịng vơ tính, trên cơ sở
đó đã chọn lọc được ba dịng sinh trưởng nhanh để tiếp tục nghiên cứu. Tuy
nhiên, do khơng trẻ hóa nguồn vật liệu, vì vậy cây sinh trưởng kém, thân
cong, nhiều cành nhánh nên không thể phát triển ở quy mô lớn.


Năm 1992, Công ty MPM Ở bang Karnataka, Ấn Độ, cũng đã tiến hành
chọn lọc cây lai trong các rừng trồng Keo tai tượng và Keo lá tràm. Kết quả
đánh giá ở giai đoạn năm tuổi cho thấy năng suất rừng đạt 32 m3/ha/năm, gấp
đôi so với rừng trồng Keo lá tràm cùng tuổi. Đồng thời kết quả nghiên cứu
còn cho thấy có sự tương tác kiểu gen - hồn cảnh giữa 2 vùng khô hạn và
vùng ẩm là rất mạnh (Mohamed Amanulla và cộng sự, 2004) [32]. Công ty

cũng đã tiến hành trồng rừng Keo lai ở quy mô sản xuất cho bốn dòng Keo lai
là HD3, K47, H4 và SV40 (S. J. Patil và cộng sự, 2012; S. K. Sharma và cộng
sự, 2016) [37] [38]. Ở những nơi có điều kiện đất khơ và nơng thì Keo lai có
sinh trưởng vượt trội hơn so với Keo tai tượng, cịn ở những nơi có tầng đất
sâu và ẩm thì sinh trưởng của Keo lai so với Keo tai tượng gần như tương
đương nhau (S. J. Patil và cộng sự, 2012) [37].
Tại Thái Lan, Sapit Diloksumpun và cộng sự (2014) [36] đã tiến hành
khảo nghiệm 20 dịng vơ tính các lồi keo (14 dịng Keo lá tràm, 4 dịng Keo
lai của Việt Nam có cây mẹ là Keo tai tượng, 2 dịng Keo lai của Thái Lan có
cây mẹ là Keo lá tràm) trên đất sau khai thác mỏ với thành phần cơ giới nhẹ
(cát pha), độ pH khoảng 5,5; hàm lượng chất hữu cơ trong đất rất thấp (C =
0,16 - 0,65; N = 0,05 - 0,10), lượng mưa khoảng 3.700 mm với 4 tháng mùa
khô, và nhiệt độ trung bình năm 27,10C. Kết quả đánh giá ở giai đoạn 3 tuổi
cho thấy sinh trưởng giữa các dịng vơ tính có sự sai khác rõ rệt, các dịng
Keo lai có sinh trưởng nhanh hơn so với các dịng Keo lá tràm, và 2 dịng Keo
lai có cây mẹ là Keo lá tràm có khả năng thích nghi tốt trong mùa khơ hơn so
với các dịng Keo lai có cây mẹ là Keo tai tượng.
1.1.3. Nghiên cứu sâu bệnh hại

Keo lai được coi là có tiềm năng kháng hoặc chống chịu với bệnh chết
héo tốt hơn so với Keo tai tượng do thừa hưởng khả năng chống chịu của Keo
lá tràm. Nghiên cứu chọn giống kháng bệnh tập trung chính cho Keo lá tràm
nhằm xác định được các dòng hoặc gia đình có sinh trưởng nhanh đồng thời
khả năng kháng hoặc chống chịu bệnh tốt để lai giống với Keo tai tượng


nhằm tạo ra giống lai có khả năng kháng hoặc chống chịu bệnh tốt hơn. Việc
sàng lọc các dòng và gia đình có khả năng kháng hoặc chống chịu bệnh tốt
nên được coi là một phần bắt buộc đối với bất kỳ chương trình chọn giống
nào của Keo lá tràm và Keo lai bên cạnh các tính trạng khác như sinh trưởng,

chất lượng thân cây và chất lượng gỗ (Harwood, 2016) [29].
1.2. Nghiên cứu về Keo lai tự nhiên tại Việt Nam
1.2.1. Lịch sử phát hiện và các đặc tính, đặc trưng
Ở Việt Nam, từ những năm 1990 Keo lai tự nhiên đã được phát hiện và
chọn tạo trên cơ sở phát hiện các cây lai tự nhiên có sinh trưởng và chất lượng
thân cây tốt nhất tại Ba Vì - Hà Nội, Tân Tạo - TP Hồ Chí Minh, Sơng Mây
-Đồng Nai (Lê Đình Khả và cộng sự, 1993) [2]. Keo lai tự nhiên đã xuất hiện
trong các rừng trồng Keo tai tượng được lấy giống từ các khu khảo nghiệm
Keo tai tượng trồng cạnh Keo lá tràm tại Đơng Nam Bộ và tại Ba Vì - Hà Nội.
Vì thế chúng ta có thể biết các giống Keo lai được phát hiện đầu tiên có mẹ
của chúng là Keo tai tượng (Acacia mangium) và bố của chúng là Keo lá tràm
(Acacia auriculiformis) (Lê Đình Khả và cộng sự, 2003) [9].
Theo nghiên cứu của Lê Đình Khả và cộng sự (2003) [9] thì Keo lai
phát hiện ở vùng Ba Vì được lấy từ khảo nghiệm giống keo trồng năm 1982
tại Lâm trường Ba Vì. Cây mẹ là Keo tai tượng xuất xứ Daintree (thuộc bang
Queensland của Australia), cây bố là Keo lá tràm, xuất xứ Darwin (thuộc
bang Northerb Territory của Australia). Keo lai phát hiện ở vùng Đông Nam
Bộ được lấy từ khu khảo nghiệm giống keo trồng 1984. Cây mẹ là Keo tai
tượng xuất xứ Mossman (thuộc bang Queensland của Australia), cây bố là
Keo lá tràm, chưa rõ xuất xứ hoặc thuộc xuất xứ Oenpelli (thuộc bang
Northerb Territory của Australia).
Nghiên cứu nhân giống, khảo nghiệm giống trên một số vùng sinh thái
như tại Hà Nội, Hịa Bình, Phú Thọ, Tuyên Quang... ở Bắc Bộ và Tân Tạo,
Sông Mây, Trị An, Trảng Bom ở Đông Nam Bộ, đã chọn được các dịng Keo
lai có năng suất cao gấp 2 - 3 lần các loài bố mẹ là Keo tai tượng và Keo lá


tràm. Đặc điểm chính của Keo lai tự nhiên về hình thái lá, quả là trung gian
giữa hai lồi bố mẹ, về sinh trưởng Keo lai khơng những có năng suất cao,
chất lượng thân cây tốt, mà cịn có hiệu suất bột giấy lớn, lượng nốt sần ở rễ

cũng cao hơn rất nhiều so với các loài keo bố mẹ, một số cá thể cây lai cịn có
khả năng chịu hạn (Lê Đình Khả và cộng sự, 1995; Lê Đình Khả, 1999a,
1999b, 1999c) [3] [4] [5] [6].
Khi quan sát số lá chét ở lá kép đầu tiên, cũng như tổng số lá kép trước
khi có lá giả và số lá trung gian của Keo lai, Keo tai tượng, Keo lá tràm đã
cho thấy số lá chét đầu tiên của Keo tai tượng là 7,6 của Keo lá tràm là 5,8 thì
của Keo lai là 8,1 - 8,5. Nói cách khác số lá chết của lá kép đầu tiên ở cây lai
đã thể hiện ưu thế lai khá rõ rệt, trong lúc số lá kép trước lúc có lá giả ở cây
lai lại thể hiện tính trung gian giữa hai lồi bố mẹ. Số lá kép ở cây con của
Keo lá tràm là 4,6 của Keo tai tượng là 6,0 thì của Keo lai là 5,3. Cây con của
Keo tai tượng khơng thấy có lá trung gian chuyển tiếp, trong khi ở Keo lá
tràm và Keo lai đều có lá chuyển tiếp (Lê Đình Khả và cộng sự, 2006) [10].
1.2.2. Nghiên cứu chọn tạo giống

Nghiên cứu cải thiện giống Keo lai ở nước ta đã được bắt đầu từ năm
1993 và được thực hiện liên tục trong suốt thời gian qua với những nghiên
cứu quy mô bài bản và trên tất cả các lĩnh vực như chọn giống, lai giống,
nghiên cứu nhân giống cũng như các nghiên cứu về tính chất gỗ và ứng dụng
chỉ thị phân tử trong nghiên cứu.
Keo lai đã được phát hiện và khảo nghiệm đợt một trong các năm từ
1993 -1995. Từ năm 1996 Trung tâm Nghiên cứu giống cây rừng (nay là Viện
nghiên cứu giống và Công nghệ sinh học Lâm nghiệp) đã phối hợp với các
đơn vị khác tiếp tục tiến hành nghiên cứu về Keo lai. Các nghiên cứu này là
chọn lọc thêm các cây Keo lai tự nhiên, xây dựng các khảo nghiệm dịng vơ
tính, tiến hành đánh giá tiềm năng bột giấy của Keo lai, khả năng cải tạo đất


của Keo lai, cũng như tiến hành khảo nghiệm các dòng Keo lai được chọn ở
các vùng sinh thái khác nhau (Lê Đình Khả và cộng sự, 2003) [9].
Năm 1993, Trung tâm Nghiên cứu giống cây rừng (nay là Viện nghiên

cứu giống và Công nghệ sinh học Lâm nghiệp) đã tiến hành khảo nghiệm 20
dịng vơ tính Keo lai tự nhiên chọn lọc trong các rừng trồng Keo tai tượng tại
Ba Vì - Hà Nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy sau 5 năm trồng đã cho thấy có
sự khác biệt rất lớn giữa các dịng vơ tính, 6 dịng Keo lai tốt nhất là BV5,
BV10, BV16, BV32, BV29 và BV33 có thể tích thân cây từ 161 đến 204
dm3/cây, gấp 1,4 - 1,7 lần các dịng Keo lai có sinh trưởng kém nhất (115 - 120
dm3/cây) và gấp 1,6 - 4,0 lần các loài keo bố mẹ khi được trồng theo đám (Lê
Đình Khả, 2001, 2003) [7] [9]. Đến năm 2000 thì 3 giống Keo lai là BV10,
BV16, BV32 đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận là
giống quốc gia theo quyết định số 132/QĐ-BNN-KHCN ngày 17 tháng 01 năm
2000. Dòng BV33 cũng đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công
nhận là giống quốc gia theo quyết định số 1998/QĐ-BNN-KHCN ngày 11
tháng 07 năm 2006.
Trung tâm Khoa học sản xuất lâm nghiệp Đông Nam Bộ (nay là Trung
tâm Khoa học Lâm nghiệp Đông Nam Bộ) cũng đã chọn lọc và khảo nghiệm
một số dịng Keo lai tự nhiên ở vùng Đơng Nam Bộ. Kết quả là đã chọn được 4
dịng có triển vọng là TB3, TB5, TB6, TB12 (Lưu Bá Thịnh, 1999) [16]. Đến
năm 2000 đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận là giống
tiến bộ kỹ thuật theo quyết định số 3118/QĐ-BNN-KHCN ngày 09 tháng 08
năm 2000.
Năm 1999 Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng (nay là Viện nghiên
cứu giống và Công nghệ sinh học Lâm nghiệp) đã phối hợp với Trung tâm
Khoa học sản xuất lâm nghiệp Đông Nam Bộ (nay là Trung tâm khoa học Lâm
nghiệp Đông Nam Bộ) xây dựng khảo nghiệm một số dịng Keo lai tự nhiên
mới chọn lọc tại Ba Vì - Hà Nội, Yên Thành - Nghệ An, Bàu Bàng - Bình


Dương. Kết quả đã chọn lọc được các dòng BV71, BV73, BV75, TB1, TB7,
TB11 có sinh trưởng cũng như chất lượng thân cây tốt và các dòng này đã được
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật

theo quyết định số 1998/QĐ-BNN-KHCN ngày 11 tháng 07 năm 2006 (Lê
Đình Khả và cộng sự, 2003; Hà Huy Thịnh và cộng sự, 2010) [9] [18].
Năm 2000, Trung tâm cây nguyên liệu giấy Phù Ninh cũng đã tiến hành
nghiên cứu chọn lọc dịng vơ tính Keo lai tự nhiên. Kết quả đã chọn lọc và đã
được cơng nhận 2 dịng Keo lai là KL2, KLTA3 có sinh trưởng nhanh là giống
tiến bộ kỹ thuật (Lê Đình Khả, 2001) [7].
Đánh giá một số khảo nghiệm Keo lai ở tuổi 3, 4, 5 và tuổi 9 tại Ba Vì
-Hà Nội, Yên Thành - Nghệ An và Long Thành - Đồng Nai, kết quả cho thấy
có sự sai khác rõ rệt về đường kính và chiều cao ở các khảo nghiệm. Tại Ba
Vì - Hà Nội và Yên Thành - Nghệ An, có sự sai khác ở tuổi 4 và tuổi 9 giữa
22 dòng tham gia khảo nghiệm. Tại Long Thành - Đồng Nai khơng có sự sai
khác ở tuổi 3, nhưng lại có sai khác ở tuổi 5 về đường kính giữa 12 dịng khảo
nghiệm. Năng suất của các dòng Keo lai tại Long Thành - Đồng Nai ở tuổi 5
trung bình đạt 34 m3/ha/năm, cao nhất là dòng BV10 và thấp nhất là dòng
BV75 với năng suất tương ứng 39 m3/ha/năm và 30 m3/ha/năm. Tương quan
về đường kính của các dịng trên các cặp lập địa khác nhau dao động từ - 0,54
đến 0,33 và khơng có ý nghĩa, chứng tỏ mức độ tương tác kiểu gen - hoàn
cảnh rất mạnh. Tuy nhiên, kết quả đánh giá này chỉ dựa trên một số lượng
dịng vơ tính hạn chế giữa các địa điểm nên có thể chưa phản ánh chính xác
mức độ tương tác kiểu gen - hồn cảnh (Lê Đình Khả và cộng sự, 2012) [32]
Khi tiến hành thực hiện đề tài “Khảo nghiệm và nhân giống cho một số giống
Keo lai và Bạch đàn lai tự nhiên mới trên một số vùng sinh thái chính ở Việt
Nam” giai đoạn 2009 - 2013, với cường độ chọn 1/6000 thì Lê Đình Khả và
cộng sự (2013) [11] đã chọn lọc được 3.000 cây lai đạt tiêu chuẩn, để xây
dựng khảo nghiệm giống lai với đối chứng là Keo lai BV10 đã được công


nhận là giống quốc gia. Khi khảo nghiệm được 2 - 3 năm tuổi lại tiếp tục chọn
lọc lần 2 với tỷ lệ 1/65 - 1/70. Sau đó tiến hành dẫn giống để nhân giống bằng
hom và khảo nghiệm các dòng này trên một số vùng sinh thái, kết quả đã

chọn được 4 giống Keo lai K85, K79, K84, K80 vừa có sinh trưởng nhanh,
vừa có chỉ số chất lượng thân cây cao hơn so với các giống BV10, BV16, trên
cơ sở đó đã được Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận là các
giống quốc gia và tiến bộ kỹ thuật.
Khi đánh giá khảo nghiệm mở rộng các giống Keo lai đã được công
nhận là giống quốc gia và giống tiến bộ kỹ thuật tại Quy Nhơn - Bình Định ở
thời điểm 6,5 năm tuổi, kết quả cho thấy, các giống Keo lai là giống quốc gia
như BV10, BV16, BV32 và BV33 vẫn thể hiện được sự ưu trội về sinh trưởng
với năng suất đạt từ 30,4 - 33,7 m3/ha/năm. Hai giống được công nhận là
giống tiến bộ kỹ thuật là 2 giống có năng suất cao nhất gồm BV73 (38,5
m3/ha/năm) và BV71 (34,6 m3/ha/năm) (Hà Huy Thịnh và cộng sự, 2015)
[19]. Đến năm 2016 thì hai giống này đã được Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn công nhận là giống quốc gia theo quyết định số 3893/QĐ-BNNTCLN ngày 20 tháng 09 năm 2016.
Thông qua đề tài “Nghiên cứu chọn, tạo giống có năng suất và chất
lượng cao cho một số loài cây trồng rừng chủ yếu”, giai đoạn 2001 - 2005, và
đề tài “Nghiên cứu cải thiện giống nhằm tăng năng suất, chất lượng cho một
số loài cây trồng rừng chủ lực” giai đoạn 2006 – 2010, và giai đoạn 2011 2015. Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng (nay là Viện nghiên cứu giống và
Công nghệ sinh học Lâm nghiệp) đã chọn lọc được 200 cây trội (100 cây trội
Keo tai tượng và 100 cây trội Keo lá tràm) từ các vườn giống thế hệ 1 của
Keo tai tượng và Keo lá tràm tại Chơn Thành - Bình Phước trồng năm 1996.
Sau đó, tiến hành dẫn giống và nhân giống bằng hom cho 200 cây trội đã
chọn để xây dựng 2 vườn giống vô tính (CSO) Keo tai tượng và Keo lá tràm
gần nhau tại Bàu Bàng - Bình Dương năm 2001 (2 cây/ơ với 10 lần lặp). Sau


khi thu hái nguồn hạt từ 2 vườn giống vô tính Keo tai tượng và Keo lá tràm
gần nhau tại Bàu Bàng - Bình Dương năm 2001, để gieo ươm xây dựng các
khảo nghiệm hậu thế kết hợp làm vườn giống ở thế hệ kế tiếp, đã quan sát
thấy sự xuất hiện của một số cây lai tự nhiên bao gồm cả Keo tai tượng làm
cây mẹ (Am x Aa) và Keo lá tràm làm cây mẹ (Aa x Am) (Hà Huy Thịnh và

cộng sự, 2006, 2010) [17] [18].
1.2.3. Nghiên cứu sâu bệnh hại

Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Nghĩa và cộng sự (2010) [14] cho
thấy rằng, các loài keo gây trồng ở nước ta có một số bệnh cần quan tâm và
chọn giống theo hướng chống chịu bệnh như phấn hồng, loét thân, rỗng ruột
và thối rễ. Với bệnh hại keo, các nghiên cứu đã xác định được 15 lồi sinh vật
chính gây bệnh tại vùng Đơng Bắc Bộ và Trung tâm, 17 lồi sinh vật chính
gây bệnh tại miền Trung, 17 loài nấm gây hại cho các lồi keo trong đó có
nấm gây bệnh lt thân và nấm gây bệnh phấn hồng ở Tây Nguyên, tại vùng
Đông Nam Bộ, xác định được 22 lồi sinh vật chính gây bệnh, trong đó nấm
gây bệnh phấn hồng là nấm gây bệnh khá nghiêm trọng cho keo lai và Keo tai
tượng.
Các dịng Keo lai tự nhiên có mẹ là Keo lá tràm như AH7 và AH1 do
Nguyễn Hoàng Nghĩa và cộng sự tuyển chọn và khảo nghiệm đã được công
nhận giống tiến bộ kỹ thuật năm 2007 và 2010, các dịng này có sinh trưởng
nhanh, đạt 30 – 34,9 m3/ha/năm ở Bình Dương, chỉ số bị bệnh trung bình bằng
0, hai dòng AH1, AH7 hiện đã được trồng ở một số tỉnh Nam Trung Bộ, Nam
Bộ và đã được công nhận giống quốc gia năm 2015 (Nguyễn Hoàng Nghĩa,
2005, 2010, 2015) [13] [14] [15].
Nguyễn Hoàng Nghĩa và cộng sự (2015) [15] cũng đã xác định được 22
loại bệnh gây hại cây con trong vườn ươm tại vùng Đông Bắc Bộ và Trung
tâm, 14 loại bệnh tại miền Trung và Tây Nguyên, 16 loại bệnh xuất hiện và


gây hại cây con các lồi keo tại vùng Đơng Nam Bộ. Kết quả điều tra về bệnh
hại các loài keo ở rừng trồng cũng xác định được 45 loài sinh vật gây bệnh hại
tại vùng Đông Bắc Bộ và Trung tâm, 36 loài nấm gây hại tại khu vực miền
Trung và Tây Nguyên, 38 loài nấm gây hại cho các loài Keo tai tượng, Keo lá
tràm và keo lai tại vùng Đông Nam Bộ. Tiến hành gây bệnh nhân tạo với nấm

bệnh gây thối rễ Phytophthora sp. và nấm bệnh gây chết héo Ceratocystis sp.,
đã xác định được các dịng keo lai AH7, 11B, BT3, AH7, H13BĐ có tính
chống chịu tốt đối với bệnh thối rễ và chết héo. Thông qua các khảo nghiệm
được thiết lập, đề tài đã cơng nhận được các dịng AH15, AH12, AH9 là giống
tiến bộ kỹ thuật có năng suất từ 26,8 – 37,8 m 3/ha/năm và có khả năng chống
chịu bệnh.
1.3. Nhận định chung
Nghiên cứu về chọn giống Keo lai tự nhiên trong thời gian vừa qua đã
đạt được nhiều thành công. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được,
nghiên cứu về chọn tạo giống Keo lai trong thời gian vừa qua cũng bộc lộ một
số tồn tại như:
• Hiện nay có hơn 34 giống Keo lai tự nhiên được chọn tạo nhưng phát triển

vào sản xuất chỉ được một số giống chính như BV10, BV16, BV32, BV33,
BV71, BV73, BV75, AH1, AH7, TB1, TB6, TB11, mà diện tích trồng rừng
lớn lên số lượng giống này vẫn còn hạn chế. Việc trồng rừng trên quy mô lớn
với số lượng giống hạn chế sẽ làm cho nền tảng di truyền bị thu hẹp, rừng
trồng dễ bị tác động bởi các ảnh hưởng bất lợi như sâu bệnh hại, gió bão, hạn
hán. Do đó, yêu cầu cấp thiết hiện nay là phải tăng số lượng giống trong trồng
rừng nhằm giảm thiểu các nguy cơ về sâu bệnh hại cũng như các ảnh hưởng
bất lợi khác của mơi trường.
• Các dịng Keo lai tự nhiên được công nhận trong các năm trước chủ yếu được
chọn lọc từ các rừng trồng Keo tai tượng hoặc Keo lá tràm bằng các nguồn
giống chưa được cải thiện cao, với nền tảng di truyền tương đối hạn hẹp.


Trong những năm gần đây, các chương trình nghiên cứu cải thiện giống cho
Keo tai tượng và Keo lá tràm đã được tiến hành một cách đồng bộ và bài bản
tạo ra các quần thể chọn giống mới có chất lượng và tính đa dạng di truyền
cao. Trên các quần thể chọn giống này, nhiều cây lai có sinh trưởng nhanh,

hình dạng thân đẹp đã được phát hiện, tuy nhiên chưa được tiến hành nghiên
cứu một cách bài bản.
Vì vậy, nghiên cứu chọn lọc giống Keo lai tự nhiên từ các quần thể
chọn giống Keo tai tượng và Keo lá tràm đã được cải thiện và có tính đa dạng
di truyền cao là việc làm cần thiết nhằm khai thác tối đa tiềm năng của giống
lai.
CHƯƠNG 2:
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát

Xác định được các đặc điểm biến dị của một số tính trạng sinh trưởng,
chất lượng thân cây làm cơ sở cho việc chọn lọc một số dòng vơ tính Keo lai
có sinh trưởng nhanh tại Đồng Nai.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể

Đánh giá được đặc điểm biến dị về các tính trạng sinh trưởng và chỉ
tiêu chất lượng thân cây của các dòng Keo lai tại Đồng Nai.
Chọn lọc được một số dịng vơ tính Keo lai có triển vọng cho trồng
rừng sản xuất tại Đồng Nai cũng như các vùng có điều kiện sinh thái tương tự.
2.2. Vật liệu nghiện cứu

Khóa luận kế thừa nguồn vật liệu nghiên cứu là khảo nghiệm dịng vơ
tính Keo lai, và các giống tham gia xây dựng khảo nghiệm dịng vơ tính Keo
lai tại ấp 5, Thanh Sơn, Định Quán, Đồng Nai thuộc đề tài cấp bộ năm 20172021 “Nghiên cứu chọn tạo giống Keo lai và Keo lá tràm phục vụ trồng rừng


gỗ lớn ở một số vùng sinh thái chính” do TS. Nguyễn Đức Kiên làm chủ
nhiệm đề tài.
Khảo nghiệm dòng vơ tính Keo lai tại ấp 5, Thanh Sơn, Định Qn,

Đồng Nai, gồm 40 cơng thức thí nghiệm, 4 lần lặp lại, 25 cây/cơng thức/lặp,
gồm 38 dịng Keo lai tự nhiên mới chọn lọc và 2 giống đối chứng (BV16,
BV73).
2.3.

Nội dung nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, đề tài sẽ tiến hành triển

khai thực hiện các nội dung nghiên cứu dưới đây:
- Nghiên cứu đặc điểm biến dị về các tính trạng sinh trưởng và chỉ tiêu
chất lượng thân cây của các dịng vơ tính Keo lai
- Chọn lọc dịng vơ tính Keo lai có triển vọng cho trồng rừng sản xuất tại
Đồng Nai.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp kế thừa

Kế thừa tài liệu về điều kiện tự nhiên: khí hậu, thủy văn, thổ nhưỡng,
tài nguyên rừng,... Các tài liệu liên quan về lịch sử khảo nghiệm trong khu
vực nghiên cứu.
Kế thừa và sử dụng hiện trường, số liệu khảo nghiệm các dòng vơ tính
Keo lai tại ấp 5, xã Thanh Sơn, Định Quán, Đồng Nai giai đoạn 12 và 38
tháng tuổi của Viện Nghiên cứu Giống và Công nghệ sinh học Lâm nghiệp.
2.4.2. Phương pháp thu thập số liệu

Các chỉ tiêu sinh trưởng như đường kính ngang ngực (D 1.3), chiều cao
vút ngọn (Hvn), được đo đếm theo các phương pháp thông dụng trong điều tra
rừng của (Vũ Tiến Hinh, Phạm Ngọc Giao 1997) [1] và (TCVN 8761-1:2017)
[22] và đo toàn bộ số cây trong thí nghiệm, cụ thể theo bảng 2.1:
Bảng 2. 1. Các chỉ tiêu đánh giá sinh trưởng khảo nghiệm dịng vơ tính
Keo lai

TChỉ Đ Phương


ơ
n
Ttiêu

vị pháp xác


định

n
h
Đếm số cây
sống.
Tỷ
1

lệ

Tính

theo

cơng thức:

P=
sốn %
.

Nht: Số cây
g
hiện tại (cây)
(P)
Nbđ: số cây
trồng

ban

đầu (cây)
Đo đường
Đư
ờng
kín
h
2 nga c
. ng m
ngự
c
(D1.
)

3

kính

thân

cây ở độ cao
1,3 m bằng

thước

kẹp

hoặc đo chu
vi

bằng

thước dây có
độ chính xác
0,1 cm.
Đo tất cả các
cây
khảo

trong


m

nghiệm.
Đo chiều cao
Chi
ều
cao
3 vút
. ngọ
n
(Hvn

)

từ gốc tới
đỉnh

ngọn

bằng

thước

đo cao có độ
mchính

xác

0,5 m.
Đo tất cả các
cây

trong

khảo
nghiệm.
Các chỉ tiêu chất lượng thân cây được xác định bằng phương pháp cho

điểm theo 5 cấp của (Lê Đình Khả & Dương Mộng Hùng, 2003) [8], (TCVN
8755:2017) [21], (TCVN 8761-1:2017) [22] và đo toàn bộ số cây trong thí
nghiệm, cụ thể được tổng hợp theo bảng 2.2.
Bảng 2. 2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng thân cây của các dịng vơ tính

Keo lai trong khảo nghiệm dịng vơ tính
Trạng thái biểu hiện


đối, lá xanh thẫm: 5 điểm
Từ các phương pháp thu thập số liệu ta xây dựng biểu thu thập số liệu
theo mẫu dưới đây:


Bảng 2. 3. Biểu thu số liệu khảo nghiệm dòng vơ tính
Biểu thu số Khảo nghiệm chứng minh dịng Keo
lai
Địa điểm: Ấp 5, xã Thanh Sơn, Huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai
Ngày trồng: 07/10/2018
Ngày đo: 12/2021
Người trồng: Tùng, Quân, Giang
Người đo: Quân, Tùng
repl
plot
tree seedlot
D13
Hvn Dtt Dnc
1
1
1
20
1
1
2
20

1
1
3
20
1
1
4
20
1
1
5
20
1
1
6
20
1
1
7
20
1
1
8
20
1
1
9
20
1
1

10
20
1
1
11
20
1
1
12
20
1
1
13
20
1
1
14
20
1
1
15
20
1
1
16
20
1
1
17
20

1
1
18
20
1
1
19
20
1
1
20
20
1
1
21
20
1
1
22
20
1
1
23
20
1
1
24
20
1
1

25
20
…………………………………
4
40
1
31
4
40
2
31
4
40
3
31
4
40
4
31
4
40
5
31
4
40
6
31
4
40
7

31

Sk


×