Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

(TIỂU LUẬN) TIỂU LUẬN GIỮA kỳ môn LUẬT HIẾN PHÁP khái quát về chính phủ và hoạt động của chính phủ xu hướng và cải cách tổ chức hoạt động của chính phủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.16 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
———————————

TIỂU LUẬN GIỮA KỲ MƠN
LUẬT HIẾN PHÁP
Họ và tên: Vũ Hồng Anh
Mã số sinh viên: 20031008
Lớp: Kép – K13 Luật
Giảng viên: PGS.TS Đặng Minh Tuấn

Tieu luan


Danh mục từ viết tắt
CP

Chính phủ

UBND

Uỷ ban nhân dân

BMNN

Bộ máy nhà nước

UBTVQH

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội


MỞ ĐẦU
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của
Quốc hội.Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Trong thời kỳ đất nước
đang bước vào toàn cầu hóa, cơng nghiệp hóa đất nước, tổ chức và hoạt động của
chính phủ ngày trở nên quan trọng hơn. Vậy nên, người viết chọn đề tài “Tổ chức
và hoạt động của Chính phủ - Những vấn đề thách thức và xu hướng cải cách” để
nghiên cứu vấn đề trên.
Bài viết nhằm nghiên cứu tổ chức và hoạt động của Chính phủ, qua đó đánh
giá được những ưu điểm, hạn chế còn tồn tại trong hoạt động cũng như trong tổ
chức của Chính phủ. Ngày nay, hoạt động của Chính phủ đang trên xu hướng và
cần cải cách thay đổi cho phù hợp với thực tiễn.
Kết cấu:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài còn gồm 2 chương:
Chương 1. Khái quát về Chính phủ và hoạt động của Chính phủ
Chương 2. Xu hướng và cải cách tổ chức hoạt động của Chính phủ.

1

Tieu luan


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ CHÍNH PHỦ VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
CHÍNH PHỦ
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Chính phủ trong lịch sử lập hiến
Việt Nam:
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 để chuẩn bị tốt công tác tiến tới khởi
nghĩa giành chính quyền ,Quốc dân đại hội đã bầu ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng

– tiền thân của CP lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Tại kì họp thứ
nhất (2/3/1946), Quốc hội khóa I đã lập ra CP chính thức bao gồm: Chủ tịch nước,
Phó Chủ tịch nước và nội các (Hiến pháp 1946). Hiến pháp 1959 ra đời, mơ hình
CP có thay đổi nhất định. Sau khi Hiến pháp 1980, 1992 ra đời thì hệ thống cơ
quan quản lí nhà nước có những cải cách phù hợp trong đó có CP.
1.2. Vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ theo
quy định:
1.2.1 Vị trí, tính chất:
CP là cơ quan hành pháp của QH, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
1.2.2 Chức năng:
Thống nhất quản lí chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh
và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương
đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo
đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
1.2.3 Nhiệm vụ và quyền hạn:
Lãnh đạo công tác của các Bộ, các cơ quan ngang bộ và các cơ quan thuộc
CP, UBND các cấp, xây dựng và kiện tồn hệ thống bộ máy hành chính Nhà nước
từ trung ương đến cơ sở; hướng dẫn kiểm tra HĐND thực hiện nhiệm vụ và quyền
hạn theo luật định; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ viên chức Nhà
nước.
2

Tieu luan


Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật trong các cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân; tổ chức và lãnh đạo
công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp, pháp luật cho nhân dân. Trình dự án

luật, pháp lệnh và các dự án khác trước QH, UBTVQH.
Thống nhất quản lí việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân; thực hiện
chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quản lí và đảm bảo sử dụng có hiệu quả tài
sản thuộc sở hữu toàn dân; phát triển văn hóa giá dục, y tế, khoa học cơng nghệ,
thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Ngân sách nhà nước.
Thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm trịn nghĩa vụ của mình,
bảo vệ tài sản, lợi ích của nhà nước và của xã hội; bảo vệ môi trường. Củng cố và
tăng cường nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân; bảo đảm an ninh quốc
phòng và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân; thi
hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và mọi biện pháp cần thiết
khác để bảo vệ đất nước.
Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của nhà nước; công tác thanh
tra và kiểm tra Nhà nước, chống quan liêu tham nhũng trong bộ máy Nhà nước;
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Thống nhất quản lí cơng tác
đối ngoại của Nhà nước; kí kết, tham ra, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh
CP; chỉ đạo các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kí kết
hoặc tham ra; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công
dân Việt Nam ở nước ngồi. Thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc,
chính sách tơn giáo.
Quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương. Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
đoàn thể nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình, tạo điều
kiện để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả.
1.3.Tổ chức Chính phủ theo quy định của pháp luật
Khắc phục những hạn chế trong quy định về CP tại các Hiến pháp trước,
Hiến pháp 1992 kế thừa quy định của Hiến pháp 1959 xây dựng BMNN theo quan
3

Tieu luan



điểm quyền lực Nhà nước tập trung thống nhất, nhưng cần phải có sự phân cơng,
phân định chức năng trên cơ sở có sự phân hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành
pháp, tư pháp.
Hiến pháp 1992 quy định: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội,cơ
quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”. Với quy định như vậy, CP là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của
Nhà nước chứ khơng phải Quốc hội, có thể hoạt động một cách độc lập tương đối
trong lĩnh vực hành chính nhà nước.
Bên cạnh đó, việc đổi tên Hội đồng Bộ trưởng (Hiến pháp 1980) thành CP
(Hiến pháp 1992) không chỉ có ý nghĩa là việc thay đổi chế độ trách nhiệm, chuyển
dần từ chế độ trách nhiệm tập thể chung sang đề cao trách nhiệm của cá nhân,
tăng cường quyền hạn của Thủ tướng CP, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, đồng thời có thể kết hợp trách nhiệm tập thể.
CP do Quốc hội thành lập ra tại kì họp thứ nhất của mỗi khóa Quốc hội.Theo
quy định tại Điều 110 của Hiến pháp 1992, Điều 3 Luật tổ chức CP năm 2001 thì
“CP bao gồm Thủ tướng, các Phó thủ tướng, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ”. Trong đó Thủ tướng, các thành viên khác của CP không nhất
thiết phải là đại biểu Quốc hội. Đây cũng là điểm rất mới so với Hiến pháp 1980
(Chủ tịch quy định Hội đồng Bộ trưởng là đại biểu Quốc hội, các thành viên khác
chủ yếu được chọn trong số đại biểu Quốc hội). Cách thức thành lập CP theo Hiến
pháp 1992 hoàn toàn khác so với Hiến pháp 1980.
Theo Hiến pháp 1992 chỉ có Thủ tướng CP là do Quốc hội bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước, cịn các Phó thủ tướng, Bộ trưởng và
các thành viên khác của CP do Quốc hội được phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ. Việc Hiến pháp trao
cho Thủ tướng Chính phủ quyền được bổ nhiệm các thành viên khác của CP trình
Quốc hội phê chuẩn, đồng thời cịn có quyền đề nghị Quốc hội miễn nhiệm, cách
chức các thành viên của CP làm nổi bật vai trị của Thủ tướng CP. Có thể nói rằng

đây là một phương pháp hữu hiệu góp phần xây dựng một cơ quan hành chính
nhà nước mạnh mẽ.
4

Tieu luan


Thành viên CP không đồng thời là thành viên Thường vụ Quốc hội. Đây là
quy định kế thừa của Hiến pháp trước, đảm bảo tính khách quan trong hoạt động
giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội với CP.
Trên cơ sở quy định của Hp 1992 và luật tổ chức CP 2001, CP nhiệm kì Quốc
hội khóa XII gồm: Thủ tướng, 5 Phó Thủ tướng, 22 Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ. Cơ cấu CP bao gồm 18 Bộ, 4 cơ quan ngang bộ.
CP nhiệm kì Quốc hội khóa XII nhận nhiệm vụ trong bối cảnh có nhiều thuận
lợi, được kế thừa những thành quả to lớn và kinh nhiệm quý báu của 20 năm đổi
mới, đặc biệt là những kết quả từ nhiệm kì Quốc hội khóa XI. Trong nhiệm kì
này, bộ máy của CP đã được sắp xếp tinh gọn, trên cơ sở sáp nhập một số Bộ chức năng quản lí Nhà nước.
Cơ chế và hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan của CP đã có bước chuyển
biến tích cực, hiệu lực, hiệu quả quản lí Nhà nước của các Bộ và của CP được
tăng cường. Đã khắc phục được tình trạng cơ quan có chức năng quản lí Nhà
nước, nhưng lại khơng có quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về
quản lí Nhà nước. Cùng với việc sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, CP khóa XII đã chú
trọng thể chế hóa trong phân cơng trách nhiệm và phân cơng quản lí theo ngun
tắc quản lí thống nhất, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu và đã khắc phục
nhiều vấn đề chồng chéo, trùng giẫm về chức năng quản lí Nhà nước giữa các Bộ
- Ngành.
1.4. Hình thức hoạt động của Chính phủ theo quy định của pháp luật:
Để thực hiện chức năng là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất, Đ6 Luật
tổ chức CP 2001 quy định: “Hiệu quả hoạt động của CP được đảm bảo bằng hiệu
quả hoạt động của tập thể CP, của Thủ tướng CP và từng thành viên của CP”.

Khẳng định hiệu quả hoạt động thực tế của CP thể hiện ở 3 hình thức: thơng qua
phiên họp của CP, thơng qua hoạt động của Thủ tướng CP và thông qua hoạt động
của các thành viên CP.
1.4.1 Thơng qua phiên họp Chính phủ
Các phiên họp của CP là hình thức hoạt động quan trọng của CP, có ý nghĩa
quyết định tới tồn bộ hoạt động của CP. Phiên họp là nơi tập trung trí tuệ của cả
5

Tieu luan


tập thể CP, những người trực tiếp nắm quyền quản lí hành chính trên phạm vi một
ngành hoặc một lĩnh vực nhất định đồng thời có sự đóng góp ý kiến của các cơ
quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể khi tham dự phiên họp.
CP họp thường kì mỗi tháng một lần, ngồi ra có thể họp bất thường theo
quyết định của Thủ tướng CP hoặc theo yêu cầu của ít nhất 1/3 tổng số thành viên
CP. Tham dự nhiều phiên họp gồm: thành viên CP, nếu vắng mặt trong phiên họp
thì phải được sự đồng ý của Thủ tướng, Thủ tướng có thể cho phép thành viên
vắng mặt được cử người phó của mình tham dự phiên họp CP. Ngồi các thành
viên của CP, Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của CP khi xét thấy cần
thiết, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Tổng liên đoàn Lao động
Việt Nam và người đứng đầu các tổ chức đồn thể khác có thể được mời tham dự
các phiên họp của CP khi bàn về vấn đề có liên quan. Khi cần thiết CP có thể mời
Thủ trưởng cơ quan thuộc CP. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương tham dự phiên họp của CP.
Các đại biểu được mời dự họp không phải là thành viên CP có quyền phát
biểu ý kiến nhưng khơng có quyền biểu quyết. Thủ tướng CP chủ tọa các phiên
họp của CP, khi được Thủ tướng ủy quyền, một Phó Thủ tướng có thể chủ tọa
phiên họp.

Thành viên tham dự như trên giúp CP vừa tập trung được trí tuệ tập thể của
các thành viên CP, ý kiến của cac đại biểu được mời từ đó góp phần làm cho quyết
định của phiên họp sát với thực tế toàn diện hơn, đồng thời cũng đề cao trách
nhiệm của thành viên CP trong quá trình biểu quyết các vấn dề quan trọng của
CP. Tại phiên họp CP thảo luận và biểu quyết theo đa số.
Khẳng định tính tập thể trong quyết định của phiên họp, theo quy định của
pháp luật: Nghị quyết của phiên họp của CP phải được quá nửa tổng số thành viên
CP biểu quyết tán thành, trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo ý
kiến của Thủ tướng đã biểu quyết. Quy định thể hiện sự kết hợp chặt chẽ chế độ
trách nhiệm cá nhân và tập thể, đề cao vai trò tập thể của CP trong việc quyết định
những vấn đề quan trọng và đặc biệt là đề cao vai trò của thủ tướng CP. Phiên họp
6

Tieu luan


CP là hình thức hoạt động tập thể duy nhất của CP, trên cơ sở bàn bạc dân chủ
công khai.
1.4.2 Thơng qua hoạt động của Thủ tướng Chính phủ
Thủ tướng CP lãnh đạo, điều hành và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của
CP. Khắc phục những hạn chế trong trong quy định quyền hạn của người đứng
đầu CP mà Hiến pháp 1980 đã quy định, Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức CP 2001
có xu hướng đề cao vai trò trách nhiệm của Thủ tướng.
Với vai trò là người đứng đầu CP, Thủ tướng CP có những quyền hạn: triệu
tập, chủ tọa phiên họp CP, quy định chế độ làm việc của Thủ tướng với các thành
viên CP, Thủ trưởng cơ quan thuộc CP, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, lãnh đạo công tác của CP, thành viên của CP, Thủ trưởng cơ quan
thuộc CP, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các cấp đề nghị hoặc bãi bỏ các bộ, cơ quan
ngang bộ trình QH phê chuẩn đề nghị việc bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc cách chức
cho từ chức đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ

trong thời gian QH không họp thì Thủ tướng CP có quyền trình Chủ tịch nước
quyết định tạm đình chỉ cơng tác của Phó Thủ tướng chính phủ, Bộ trưởng và các
thành viên khác của CP; chỉ đạo xây dựng các dự án trình Quốc hội, UBTVQH
các văn bản quy phạm thuộc thẩm quyền của CP và Thủ tướng, thành lập Hội
đồng và Uỷ ban thường xuyên hoặc lâm thời khi cần thiết.
Trong lĩnh vực pháp chế, Thủ tướng CP có các quyền: đình chỉ việc thi hành
hoặc bãi bỏ những quyết định thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ.
Để thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình, thủ tướng CP căn cứ vào HP
,luật, nghị quyết cuả QH, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, quyết định nghị
định của CP, Thủ tướng CP ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thực hiện văn
bản đó. Văn bản của Thủ tướng CP ban hành có hiệu lực thi hành trong phạm vi
cả nước đồng thời Thủ tướng hướng dẫn kiểm tra việc việc thi hành các văn bản
đối với các ngành các địa phương và cơ sở.
Hiến pháp 1992 đã tổ chức lại CP theo hướng tăng cường chế độ thủ trưởng,
tức theo chế độ nội các, thì việc quy định cho người đứng đầu CP có những nhiệm
7

Tieu luan


vụ quyền hạn như trên mới có thể đảm bảo được quyền lãnh đạo của mình là hồn
tồn hợp lí. Với tất cả những quy định trên, ta thấy quyền hạn của Thủ tướng CP
có thay đổi. Đặc biệt là thẩm quyền ban hành văn bản đã có sự cải thiện đáng kể.
Hơn thế thẩm quyền của Thủ tướng CP đã được quy định rõ ràng và cụ thể tạo
điều kiện thuận lợi cho Thủ tướng CP hoàn thành tốt nhiệm vụ, quyền hạn của
mình là cơ sở cho chính sách của của Đảng và Nhà nước Việt Nam được thực
hiện trên thực tế.
1.4.3 Thông qua hoạt động của Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
Bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ thực hiện chức năng quản lí nhà

nước đối với ngành hoặc lĩnh vực hoặc công tác trong phạm vi cả nước. Bộ trưởng
và thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên CP, lãnh đạo công tác của Bộ và cơ
quan ngang bộ, phụ trách một số công tác của CP, Bộ trưởng chịu trách nhiệm
trước Thủ tướng và trước QH về hoạt động quản lí nhà nước trong phạm vi ngành,
lĩnh vực được phân công.
Trong CP Bộ trưởng được hoạt động với hai tư cách:
Thứ nhất, là thành viên của CP, cùng tập thể CP giải quyết công việc chung
của CP thông qua phiên họp. Thứ hai là người đứng đầu một Bộ, ngành hoặc lĩnh
vực thực hiện lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành hoạt động của Bộ, ngành, lĩnh vực.
Với tư cách là thành viên của CP, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
có nhiệm vụ tham ra cơng việc chung của CP: Tham ra các công việc của CP về
quyền thảo luận và quyền biểu quyết các vấn đề quan trọng của CP, chuẩn bị các
dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác theo sự phân công của CP, trình bày trước
QH, UBTVQH, trả lời chất vấn các đại biểu QH, thực hiện nhiệm vụ khác do CP
ủy nhiệm.
Với tư cách là người đứng đầu một bộ ngành lĩnh vực Bộ trưởng lãnh đạo
quyết định và chịu trách nhiệm về ngành và lĩnh vực mà mình phụ trách như: trình
CP kế hoạch dài hạn ,năm năm hàng năm của ngành, lĩnh vực, tổ chức và chỉ đạo
thực hiện kế hoạch trong phạm vi cả nước,quy định các tiêu chuẩn quy trình, quy
phạm và các định mức kinh tế - kĩ thuật của ngành thuộc thẩm quyền. Đề nghị thủ
8

Tieu luan


tướng bổ nhiệm, miễn nhiệm cách chức Vụ trưởng, Phó vụ trưởng và các chức vụ
tương đương… (Điều 23 Luật tổ chức CP)
Để thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình, theo quy định của pháp luật Bộ
trưởng có quyền ban hành gồm quyết định, chỉ thị, thông tư. Bộ trưởng căn cứ
vào Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của QH, pháp lệnh, Nghị quyết của UBTVQH,

lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, các văn bản của CP, Thủ tướng CP đề ra văn
bản nêu trên và hướng dẫn , kiểm tra việc thi hành các văn bản đó.

CHƯƠNG 2. XU HƯỚNG VÀ CẢI CÁCH TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA
CHÍNH PHỦ
2.1 Tinh gọn cơ cấu tổ chức và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
Chính phủ, xu thế cải cách trên thế giới
Cải cách khu vực công, cải cách hành chính đã trở thành một xu thế của thời
đại nhằm xây dựng nền hành chính thực sự là động lực, là địn bẩy cho phát triển.
Cải cách hành chính, cải cách khu vực công tập trung vào hệ thống hành chính
nhà nước và trọng tâm là đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ. Tinh gọn
bộ máy của Chính phủ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính phủ được
đặt ra trong nỗ lực cải cách ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Ở Mỹ, vấn đề sáng tạo lại Chính phủ với các triết lý: (1) Chính phủ đóng vai
trị xúc tác: Chú trọng vào “lái thuyền” thay vì “chèo thuyền”; (2) Chính phủ dựa
trên cộng đồng: tăng cường quyền năng thay vì trực tiếp phục vụ; (3) Chính phủ
có tính cạnh tranh: tạo cạnh tranh trong các q trình dịch vụ cơng: (4) Chính phủ
hoạt động theo sứ mệnh thúc đẩy: thay đổi những tổ chức nặng về quy chế, thủ
tục hành chính; (5) Chính phủ hoạt động theo định hướng kết quả: khơng cấp kinh
phí trên cơ sở yếu tố đầu vào mà căn cứ vào kết quả đầu ra (6) Chính phủ quan
tâm tới khách hàng: đáp ứng các nhu cầu của tập thể công dân chứ không phải
yêu cầu từ nội tại của bộ máy hành chính; (7) Chính phủ dám mạo hiểm: đầu tư
để tăng thêm nguồn thu chứ không chỉ chi tiêu; (8) Chính phủ biết lường tính:
9

Tieu luan


phịng ngừa hơn là chữa trị; (9) Chính phủ phân quyền: chuyển từ thứ bậc hành
chính sang tăng cường sự tham gia và cách thức làm việc nhóm; (10) Chính phủ

hoạt động theo định hướng thị trường: vận dụng cơ chế thị trường để tạo động lực
thay đổi.
Mười nguyên tắc trên đặt ra yêu cầu thay đổi trong hệ thống các cơ quan
hành chính, doanh nghiệp nhà nước, thể hiện qua năng lực cạnh tranh, tính hiệu
quả và hiệu suất, sự lựa chọn của khách hàng, trách nhiệm giải trình đối với kết
quả và sự chung tay, tham gia của cộng đồng, xã hội.
Qua hai lần cải cách, bộ máy Chính phủ Nhật Bản được thu gọn đáng kể.
Lần thứ nhất, số bộ giảm từ 23 xuống còn 12; lần thứ hai, giảm xuống cịn 10.
Hiện nay, Chính phủ Nhật Bản bao gồm Văn phòng Nội các và các bộ: Bộ Quản
lý cơng cộng Nội vụ và Bưu chính viễn thơng; Bộ Tư pháp; Bộ Ngoại giao, Bộ
Tài chính; Bộ Giáo dục Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Cơng nghệ; Y tế, Lao
động và Phúc lợi; Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Ngư nghiệp; Bộ Kinh tế,
Thương mại và Công nghiệp; Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng và Vận tải; Bộ Mơi
trường.
Có thể thấy, đa số các bộ nằm trong cơ cấu tổ chức của Chính phủ Nhật Bản
đều là các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Trong đó, Bộ Quản lý cơng cộng,
Nội vụ và Bưu chính viễn thơng cùng với Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng và Vận tải
chính là những “siêu bộ” được hình thành trên cơ sở hợp nhất một số ngành.
Trung Quốc, từ khi lập nước năm 1949 tới nay, Trung Quốc tiến hành tới
hơn 10 lần cải tổ chính phủ. Tính riêng từ khi cải cách mở cửa năm 1982, Trung
Quốc đã tiến hành tới 5 lần cải tổ Chính phủ nhằm giải quyết tình trạng bộ máy
“phình ra”, không hợp lý, hoạt động chưa hiệu quả. Giai đoạn năm 1951 – 1953
sau cải cách còn lại 42 bộ và ủy ban cơ quan ngang bộ nhưng tới năm 1956 lại mở
rộng tới 81 bộ và cơ quan ngang bộ. Năm 1959 giảm xuống còn 60 nhưng năm
1965 lại tổ chức 79 bộ và cơ quan ngang bộ. Năm 1981, Trung Quốc lại có tới
100 bộ và cơ quan ngang bộ. Năm 1993 giảm xuống còn 59 bộ và cơ quan ngang
10

Tieu luan



bộ. Năm 1998, qua cải cách cơ cấu từ 40 bộ và cơ quan ngang bộ giảm xuống còn
29. Năm 2003 tiến hành điều chỉnh lại một số cơ quan nhưỦy ban Kinh tế kế
hoạch nhà nước đổi thành Ủy ban Cải cách và phát triển; năm 2008 thành lập Bộ
Công nghệ tin học.
Từ năm 2008 đến nay, bộ máy chính phủ Trung Quốc đã gọn hơn một cách
đáng kể, với 27 bộ và ủy ban nhà nước. Theo kế hoạch cải cách do Quốc vụ viện
soạn thảo được trình lên Kỳ họp thứ nhất Quốc hội Trung Quốc khóa 13 năm 2018
để thảo luận. Theo đó, Quốc vụ viện sẽ bao gồm 26 bộ và ủy ban, giảm 8 cơ quan
cấp bộ và 7 cơ quan cấp ủy ban.
Một số quốc gia cơ cấu chính phủ cũng có số lượng bộ khơng nhiều như:
Liên bang Nga có 21 bộ, Pháp có 18 bộ, Singapore có 16 bộ, Hoa Kỳ có 15 bộ;
Cộng hịa Liên bang Đức có 14 bộ. Đó là những ví dụ rất điển hình trong cải cách
chính phủ mà Việt Nam có thể tham khảo.
Xu hướng chung của các quốc gia là tổ chức hợp cơ cấu của chính phủ bảo
đảm gọn nhẹ, bao quát các lĩnh vực quản lý, khắc phục sự chồng chéo về chức
năng, nhiệm vụ hoặc cắt khúc các nhiệm vụ mà có sự giao thoa lẫn nhau giữa các
ngành, lĩnh vực. Một bộ thay vì chỉ phụ trách một ngành, một lĩnh vực sẽ đảm
nhiệm, bao quát; đồng thời nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Một Chính phủ khơng
thể năng động và hoạt động hiệu quả nếu bản thân nó cồng kềnh, nặng nề. Muốn
Chính phủ thực sự tinh gọn, tất yếu phải giảm số lượng các bộ đơn ngành, đom
lĩnh vực, tăng cường các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Tổ chức chính phủ
phải gắn với “tam định”: định chức năng, định cơ cấu, định nhân sự mới thực sự
đáp ứng được mục tiêu tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả. Định rõ Chính phủ cần làm
gì, đâu là trọng tâm cần hướng đến của chính phủ để xác định cơ cấu, xác định
mục tiêu hoạt động.
2.2 Định hướng và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ
Việt Nam

11


Tieu luan


Ở Việt Nam, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ đã được đặt ra qua
các thời kỳ. Từ quan niệm: Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ
quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam trong Hiến pháp 1992, đến quan niệm: Chính phủ là cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền
hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội trong Hiến pháp 2013 là một bước
thay đổi lớn trong nhận thức về vai trị của Chính phủ. Điều này đặt ra những yêu
cầu mới trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ.
Trong cuộc Cách mạng cơng nghiệp 4.0 và thời kỳ tồn cầu hóa và hội nhập
quốc tế, cơ hội và thách thức đến với mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam đan xen
nhau. Để phát triển, để bứt phá thì mỗi quốc gia cần có Nhà nước mạnh mà theo
đó Chính phủ cần có sự năng động, nhanh nhạy, chủ động nắm bắt thời cơ, chủ
động xây dựng những kịch bản để ứng phó với những thay đổi, những thách thức.
Chính phủ mạnh có ý nghĩa quan trọng để có một Nhà nước mạnh trong giai
đoạn hiện nay. Vì vậy, việc xây dựng Chính phủ có cơ cấu hợp lý, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả là ưu tiên trọng tâm trong các nỗ lực cải cách khu vực nhà nước.
Đồng thời, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ tác động trực tiếp đến
việc xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, trách nhiệm, minh bạch, hiệu quả,
vì nhân dân phục vụ; bảo đảm tính pháp quyền và dân chủ trong điều hành; nâng
cao năng lực dự báo, ứng phó và giải quyết kịp thời những u cầu thực tiễn phát
triển. Chính phủ tinh gọn, có hiệu lực, hiệu quả sẽ là hình mẫu để chính quyền địa
phương tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của
Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thơng
suốt, hiện đại. Luật hóa cơ cấu, tổ chức của Chính phủ; tổ chức bộ quản lý đa

ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm tinh gọn và hợp lý. Phân cấp mạnh, giao quyền chủ
động hơn nữa cho chính quyền địa phương, nhất là trong việc quyết định về ngân
sách, tài chính, đầu tư nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Trung
12

Tieu luan


ương”[1]. Cụ thể là, phải thực hiện “Cơ cấu lại bộ máy Chính phủ theo hướng giảm
các đầu mối, phù hợp với yêu cầu đổi mới chức năng, nhiệm vụ”.[2] Với tinh thần
đổi mới và nâng cao hiệu lực hiệu quả hoạt động, ngay từ đầu nhiệm kỳ 2016 –
2021, Chính phủ với khẩu hiệu xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo, hành
động phục vụ người dân và doanh nghiệp đã đặt ra những yêu cầu đổi mới mạnh
mẽ tổ chức và hoạt động của Chính phủ. Một Chính phủ tinh gọn, có hiệu lực và
hiệu quả vừa là mục tiêu vừa là giải pháp để thực hiện xây dựng Chính phủ liêm
chính, kiến tạo, hành động, phục vụ người dân và doanh nghiệp.
Qua các nhiệm kỳ, cơ cấu tổ chức của Chính phủ có xu hướng ngày càng
tinh gọn hơn, hoạt động năng động, hiệu lực, hiệu quả hơn. Nếu như nhiệm kỳ
2002-2007, trong cơ cấu tổ chức của Chính phủ có 27 bộ, cơ quan ngang bộ thì
các nhiệm kỳ gần đây, Chính phủ cịn 22 bộ, cơ quan ngang bộ. Hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của Chính phủ ln được quan tâm. Chính phủ đổi mới cơ chế
chính sách, hồn thiện thể chế gắn với tinh thần thượng tôn pháp luật; tháo gỡ
vướng mắc, bất cập về cơ chế, chính sách, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính,
tiết giảm chi phí, cải thiện mơi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, minh bạch,
bình đẳng.
Chính phủ đưa ra những sáng kiến khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng
tạo, khơi dậy niềm tin, tạo động lực sản xuất – kinh doanh, phát triển doanh
nghiệp, huy động mọi nguồn lực cho phát triển đất nước. Kỷ luật, kỷ cương hành
chính tiếp tục được tăng cường, đề cao trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cơ
quan hành chính nhà nước các cấp; đổi mới phương thức quản lý, chỉ đạo, điều

hành bằng những việc làm cụ thể; xây dựng hệ thống cơ quan hành chính liêm
chính, hành động, phục vụ, lấy sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp làm
thước đo hiệu quả hoạt động.
Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức của Chính phủ vẫn cịn có thể được tiếp tục kiện
tồn. Những tồn tại, hạn chế như cơng tác dự báo, tham mưu, đề xuất cơ chế,
chính sách có lĩnh vực, có thời điểm vẫn cịn tồn tại; trong một số trường hợp
phản ứng chính sách chưa kịp thời; việc khắc phục cơ chế, chính sách, pháp luật
13

Tieu luan


còn bất cập, chưa đạt yêu cầu. Một số bộ, ngành chưa chủ động, kịp thời trong
việc rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật. Chưa chú
trong nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng, tồn diện tác động của chính sách.
2.3 Cơ cấu tổ chức của Chính phủ cần tiếp tục được kiện tồn theo hướng
tinh gọn hơn.
Các hoạt động quản trị quốc gia của Chính phủ cần phải có hiệu lực, hiệu
quả cao hơn. Điều này địi hỏi cần phải có những tiếp cận mới trong tổ chức và
hoạt động của Chính phủ:
Thứ nhất, Chính phủ cần thực hiện nhất quán nguyên tắc một việc chỉ giao
một cơ quan chủ trì chịu trách nhiệm chính, những việc có liên quan đến cơ quan
khác thì xác định rõ cơ quan phối hợp thực hiện, khắc phục chồng chéo và chia
cắt về chức năng, nhiệm vụ. Điều này góp phần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ
của từng cơ quan chính phủ.
Thứ hai, cần tiếp tục kiên định với giải pháp xây dựng bộ quản lý đa ngành,
đa lĩnh vực, giảm bớt đầu mối trực thuộc Chính phủ, đưa một cơ quan làm chức
năng quản lý nhà nước thuộc Chính phủ về các bộ quản lý. Có thể sáp nhập các
bộ tương đồng và gần nhau về chức năng nhiệm vụ, như các lĩnh vực kế hoạch,
đầu tư, tài chính; giao thơng vận tải và xây dựng: khoa học công nghệ, giáo dục

và đào tạo, văn hóa, thể thao và du lịch, nội vụ và lao động… để có cơ cấu tổ chức
các bộ tinh gọn, có phạm vi hoạt động rộng hơn, bao quát hơn, tránh sự cắt khúc
không cần thiết.
Về chức năng, nhiệm vụ, Bộ tập trung làm tốt chức năng trọng yếu và chủ
yếu là xây dựng thể chế, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch,kế hoạch phát
triển đối với ngành, lĩnh vực; tổ chức chỉ đạo việc thực hiện và đơn đốc kiểm
tra,thanh tra việc chấp hành. Bộ có trách nhiệm quản lý ngành lĩnh vực, không
làm thay cho các chủ thể thực hiện. Cũng cần nhận thức, việc xây dựng bộ đa
ngành, đa lĩnh vực không phải là mục tiêu của việc xây dựng Chính phủ tinh gọn
mà là phương tiện để có Chính phủ tinh gọn.
14

Tieu luan


Việc xây dựng bộ đa ngành, đa lĩnh vực cần bảo đảm cơ chế vận hành thông
suốt, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý ngành, lĩnh vực, không để tình trạng bỏ
lĩnh vực quản lý hoặc cơ chế vận hành thiếu thông suốt, bộ đa ngành, đa lĩnh vực
nhưng cơ cấu tổ chức nhiều tầng nấc và cơ chế quản lý tiếp tục duy trì theo ngành
như một thực thể độc lập trong bộ. Cùng với việc xây dựng cơ cấu các bộ, cần
phải “xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức của các
bộ, cơ quan ngang bộ; khắc phục tình trạng bỏ trống hoặc trùng lặp về chức năng,
nhiệm vụ giữa các bộ, ngành”[3]
Thứ ba, cần phải đổi mới nhận thức về vai trị, trách nhiệm của Chính phủ.
Bộ máy Chính phủ khơng thể thốt khỏi tình trạng cồng kềnh nặng nề nếu bản
thân Chính phủ phải ơm đồm q nhiều việc, đặc biệt là các cơng việc sự vụ cụ
thể.
Chính phủ là chủ thể thực hiện nhiệm vụ quản trị quốc gia, nghĩa là Chính
phủ cần phải tập trung những nhiệm vụ mang tính vĩ mơ. Chính phủ cần làm tốt
nhiệm vụ xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển, xây dựng và vận

hành hệ thống thể chế, tạo “luật chơi” hay còn gọi là kiến tạo thể chế cho phát
triển, bảo đảm các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mơ, dự báo để ứng phó với
những thay đổi,những thách thức, nắm bắt cơ hội để phát triển; đồng thời, tăng
cường hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra để các mục tiêu phát triển đi đúng lộ
trình.
Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Chính phủ khơng được bảo đảm nếu thể
chế được Chính phủ ban hành không được thực hiện nghiêm, không được thực
hiện đầy đủ. Vì vậy, thể chế kiểm tra, thanh tra của Chính phủ cần được phát huy
mạnh mẽ hơn nữa trong công tác quản lý, điều hành, phát hiện kịp thời những sai
sót và kịp thời tổng kết những mơ hình phát triển, xây dựng thành thể chế phát
triển chung cho quốc gia.
Thứ tư, phát huy vai trò, trách nhiệm tập thể đồng thời, đề cao trách nhiệm
cá nhân của người đứng đầu Chính phủ và trách nhiệm của các thành viên Chính
15

Tieu luan


phủ trong công tác chỉ đạo điều hành. Phân định rõ ràng hơn nữa giữa quyền hạn
của Thủ tướng Chính phủ với Bộ trưởng, tập thể chính phủ với cá nhân các bộ
trưởng. Điều này cho phép nâng cao sự năng động, sự quyết liệt trong công tác
lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành.
Thứ năm, phát triển chính phủ điện tử, chính phủ số. Sự phát triển của cơng
nghệ, của chính phủ điện tử, chính phủ số cho phép mở rộng phạm vi quản lý,
tăng cường kết nối, chia sẻ dữ liệu, sự phối hợp dọc và phối hợp ngang theo ngành
và lãnh thổ. Việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông mở
ra cơ hội lớn để tổ chức chính phủ tinh gọn hơn, thơng suốt hơn, nhanh hơn theo
thời gian thực. Tuy nhiên, để xây dựng chính phủ điện tử chúng ta cần phải vượt
qua những khó khăn về hạ tầng, nhân lực, thể chế, chính sách, sự sẵn sàng của
cán bộ, công chức và của cả người dân. Xây dựng chính phủ điện từ cần phải có

lộ trình với những mục tiêu cột mốc để đo lường đánh giá, đồng thời tạo động lực
cho việc triển khai lâu dài.
Thứ sáu, đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của Chính phủ gắn với yêu
cầu đẩy mạnh phân cấp, phân quyền quản lý đối với chính quyền địa phương. Sự
phát triển của chính quyền địa phương, xu hướng phân cấp quản lý tạo ra sự thay
đổi về vai trị, trách nhiệm của Chính phủ trong hệ thống hành chính. Những
nhiệm vụ mà địa phương có thể làm tốt cần giao cho chính quyền địa phương thực
hiện.
Trong điều kiện hiện nay, cùng với cắt giảm mạnh nhiệm vụ của Chính phủ,
của bộ, gắn với đẩy mạnh phân cấp cho chính quyền địa phương sẽ là điều kiện
tiên quyết để tổ chức hiệu quả bộ đa ngành, đa lĩnh vực. Chỉ có giảm bớt nhiệm
vụ của Chính phủ và bộ thì mới khắc phục được tình trạng quá tải về công việc,
giảm số lượng công việc ở các đầu mối của các bộ đa ngành hiện nay. Quá trình
phân cấp quản lý song hành với kiểm tra, giám sát, thanh tra để địa phương năng
động nhưng bảo đảm không đi ra khỏi thể chế chung, không phá vỡ nguyên tắc
quản lý thống nhất của trung ương, không vì lợi ích địa phương mà ảnh hưởng
đến lợi ích chung của toàn vùng và của quốc gia.
16

Tieu luan


Đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ là một quá trình mà mục tiêu
cốt yếu hướng đến tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Khơng có mẫu hình chung cho
quá trình đổi mới, sự đổi mới về tổ chức và hoạt động của Chính phủ cần gắn với
mục tiêu quản trị quốc gia, thúc đẩy sự phát triển về kinh tế và xã hội. Quán triệt
tinh thần lãnh đạo của Đảng, lắng nghe tiếng nói từ yêu cầu phát triển đất nước,
từ kỳ vọng của nhân dân, từ khát vọng vươn lên của đất nước, từ yêu cầu của q
trình hội nhập và tồn cầu hóa là cơ sở đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính
phủ đi đúng hướng đích tinh gọn, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả.

KẾT LUẬN
Chính Phủ là cơ quan hành pháp của Quốc hội và là cơ quan hành chính
cao nhất cả nước. Với chức năng quản lý, kinh tế chính trị xã, quản lý các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Do vậy cơ cấu và hoạt động của chính phủ vơ cùng
quan trọng. Ln ln kiểm sốt sát xao các hoạt động trong cả nước, kịp thời
đôn đốc các đơn vị hoạt động không đúng. Để phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn
hiện nay của đất nước cũng như thế giới đòi hỏi tổ chức và hoạt động của Chính
Phủ ln ln phải sáng tạo, cải cách theo cái mới để có chính sách quản lý
hành chính phù hợp.

17

Tieu luan


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1],[2.] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006 tr.126 – 127, 254
[3.] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 249
1. Chính phủ: Báo cáo kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ năm
2018
2. David Osborn và Ted Gaebler: Sáng tạo lại chính phủ (bản dịch) Viện Nghiên
cứu Quản lý kinh tế Trung ương, 1997.

18

Tieu luan




×