Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (644.08 KB, 105 trang )

Luận văn thạc


1

Kinh tế TNTN và Mơi
trường

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với bất cứ một quốc gia nào, muốn nền kinh tế phát triển bền vững thì trước
hết Nhà nước luôn luôn phải quan tâm huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước
để đầu tư xây dựng mới, cải tạo mở rộng các cơng trình cơng nghiệp; cơng trình cơ sở
hạ tầng; cơng trình y tế, giáo dục, phúc lợi cơng cộng; cơng trình du lịch, dịch vụ;
cơng trình an ninh, quốc phịng,… theo một quy hoạch tổng thể và định hướng phát
triển kinh tế dài hạn sao cho có hiệu quả cao nhất. Đối với Việt Nam điều đó khơng
phải là ngoại lệ, nhất là nước ta đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu và trải qua thời
gian chiến tranh kéo dài.
Đầu tư phát triển, đặc biệt là đầu tư xây dựng cơ bản có vai trị quyết định trong
việc tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật cho xã hội, là nhân tố quyết định làm thay đổi,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế đất nước theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tốc độ và quy mơ
tăng đầu tư xây dựng cơ bản đã góp phần quan trọng vào tốc độ tăng GDP hàng năm,
tăng cường tiềm lực nền kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân. Nguồn vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước có vai trị chủ đạo,
dẫn dắt, thu hút các nguồn vốn của xã hội vào đầu tư phát triển.
Đầu tư phát triển nói chung và cơng tác đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) nói
riêng ln có một vị trí vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội của mỗi
nước, điều đó mọi người đều khẳng định; song việc đầu tư xây dựng các cơng trình sao
cho có hiệu quả cao lại càng quan trọng hơn. Bản thân mỗi dự án tự nó khơng thể hiện
hiệu quả cao hay thấp, mà chính do con người phải căn cứ vào những đặc điểm riêng


có của sản phẩm xây dựng cơ bản để đề ra các giải pháp quản lý đúng đắn hợp lý, đồng
thời phải thường xuyên hoàn thiện nâng cao các giải pháp quản lý sao cho phù hợp với
từng thời kỳ phát triển kinh tế, ở tất cả các giai đoạn hoạt động đầu tư, nhất là trong
công tác quản lý chi vốn đầu tư phát triển sao cho hiệu quả nhất, tránh lãng phí, thất
thoát vốn vốn đầu tư xây dựng cơ bản.

Học viên: Trương Thị Hương Giang

Lớp CH18 K11


Ở Việt Nam trong những năm qua, quản lý Nhà nước về đầu tư phát triển nói
chung và đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng có một số mặt tiến bộ hơn. Việc sửa đổi, bổ
sung các quy chế về quản lý đầu tư, xây dựng, đấu thầu đã tạo khung pháp lý hoàn
thiện hơn về đầu tư xây dựng cơ bản. Công tác chỉ đạo, điều hành lập, tổ chức thực
hiện quy hoạch, kế hoạch và kiểm tra giám sát được quan tâm. Cơ chế quản lý đầu tư
được cải tiến một bước theo hướng tăng cường phân cơng, phân cấp cho các Bộ, ngành
và địa phương. Tính công khai, minh bạch, công bằng, hợp lý trong việc phân bổ vốn
đầu tư phát triển theo Luật Ngân sách Nhà nước mới (năm 2002) đã được quan tâm
hơn. Những đổi mới này đã giảm thiểu sự bao cấp của ngân sách Nhà nước, nâng cao
ý thức trách nhiệm, mở rộng quyền hạn cho các cấp, các ngành, địa phương trong quản
lý đầu tư và xây dựng.
Tuy nhiên, những kết quả đạt được còn rất khiêm tốn, cơ cấu nền kinh tế cịn
chuyển biến chậm, tình trạng phân tán, lãng phí, kém hiệu quả trong đầu tư xây
dựng thuộc nguồn ngân sách Nhà nước còn khá phổ biến. Hệ thống cơ chế quản lý chi
vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách Nhà nước đã được bổ sung, song chưa
thật phù hợp với sự phát triển nhanh của nền kinh tế thị trường. Mặt khác, việc thực
hiện quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước rất phức tạp và
mang tính chất phân tán rộng, dẫn đến sự lỏng lẻo trong quản lý, tạo điều kiện cho cơ
chế “xin - cho”, lãng phí, tham nhũng tiền của Nhà nước, đồng thời dễ dẫn đến khuynh

hướng quản lý cứng nhắc, máy móc, gây ách tắc, thiếu đồng bộ, làm vốn bị ứ đọng,
thời gian thi công kéo dài, chậm tiến độ, gây lãng phí và kém hiệu quả đầu tư từ nguồn
vốn ngân sách Nhà nước.
Xuất phát từ yêu cầu bức xúc nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Đề xuất một
số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các
dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước” để làm Luận văn
thạc sĩ kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nhận thức những vấn đề lý luận về đầu tư và đầu tư phát triển, đánh
giá thực trạng quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước
cho các dự án đầu tư xây dựng, nghiên cứu đề xuất các giải pháp thiết


thực, hữu hiệu, khả thi góp phần hồn thiện cơ chế quản lý sử dụng vốn ngân sách Nhà
nước cho các dự án đầu tư xây dựng trong thời gian tới.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học như: nghiên
cứu tài liệu, khảo sát thực tiễn, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, dự báo để làm
sáng tỏ những nội dung lý luận và thực tiễn, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp
nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây
dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Đề tài là sự tổng hợp cơ sở lý luận khoa học đã được nghiên cứu và khẳng định
trong cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc
nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
Nghiên cứu của đề tài là một nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho các tổ chức
hoặc cơ quan quản lý vận dụng để quản lý tốt hơn các dự án đầu tư xây dựng được đầu
tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước của đơn vị mình.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề về đầu tư phát triển và

quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân
sách Nhà nước; trong đó tập trung vào nghiên cứu quản lý chi vốn đầu tư phát triển
trong nước giai đoạn từ 2006 - 2010.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng cơ chế quản lý
chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn đầu tư phát triển
từ nguồn vốn trong nước của ngân sách Nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn từ 2006
- 2010, các giải pháp đề xuất giai đoạn 2011 - 2015 và các năm tiếp theo.
6. Kết quả dự kiến đạt được
- Hệ thống hóa và phân tích sáng tỏ nhận thức luận cơ bản về đầu tư phát
triển, vốn đầu tư phát triển và cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển của ngân sách
Nhà nước.


- Tổng hợp và phân tích làm r thực trạng đầu tư, quản lý và cơ chế quản lý
vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng từ nguồn vốn trong nước thuộc
nguồn vốn ngân sách Nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Trên cơ sở phân tích lý nguyên lý chung về đầu tư (qua Luật và các văn bản
Pháp quy khác), tình hình quản lý sử dụng vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn
ngân sách Nhà nước (qua thực tiễn); Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm góp
phần hoàn thiện những vấn đề về lý luận và thực tiễn trong công tác quản lý chi vốn
đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn trong nước của
ngân sách Nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, từ đó góp phần vào việc
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế nói chung.
7. Nội dung của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và tài liệu tham khảo, Luận văn được cấu trúc từ
3 chương nội dung chính:
- Chương 1: Lý luận chung về cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho
các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
- Chương 2: Thực trạng cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự
án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước.

- Chương 3: Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý chi
vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước.


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN CHO CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG THUỘC NGUỒN VỐN
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN TỪ NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1.1. Khái niệm về cơ chế

Từ "cơ chế" là chuyển ngữ của từ mécanisme của phương Tây. Từ điển Le
Petit Larousse (1999) giảng nghĩa "mécanisme" nghĩa là cơ chế, là "cách thức hoạt
động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau". Cịn Từ điển Tiếng Việt
(Viện Ngơn ngữ học 1996) giảng nghĩa cơ chế là "cách thức theo đó một q trình
thực hiện".
Từ "cơ chế" được dùng rộng rãi trong lĩnh vực quản lý từ khoảng cuối những
năm 1970, khi chúng ta bắt đầu chú ý nghiên cứu về quản lý và cải tiến quản lý kinh
tế, với nghĩa như là những qui định về quản lý. Nói một cách khác, cơ chế quản lý
một vấn đề gì đó cũng đồng nghĩa với những quy định về quản lý vấn đề đó.
1.1.2. Khái niệm cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư

xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước
Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc
nguồn ngân sách nhà nước được quy định thực hiện thông qua hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật do các cơ quan lập pháp hoặc hành pháp ban hành như Luật, Nghị
định, Nghị quyết, Thông tư, Chỉ thị. Song hành với các văn bản này là bộ máy quản
lý và các bước tiến hành triển khai thực hiện một dự án đầu tư xây dựng, việc quản lý
này lại có liên quan và xuyên suốt tất cả các khâu, bước đi của một dự án, từ chủ

trương quy hoạch, chủ trương đầu tư, lập và ghi kế hoạch vốn, phân bổ vốn, lập báo
cáo đầu tư, quyết định phê duyệt dự án đầu tư xây dựng cơng trình, quyết định phê
duyệt thiết kế - kỹ thuật, dự toán, tổng dự toán, giải phóng mặt


bằng, đấu thầu, tạm ứng, thanh toán đến khâu lập, thẩm tra, phê duyệt quyết tốn dự án
đầu tư hồn thành đưa vào khai thác, sử dụng.
Tóm lại, có thể hiểu một cách chung nhất về quản lý chi vốn đầu tư phát triển
cho các dự án đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước như sau: quản lý chi
vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng từ ngân sách Nhà nước là một bộ
phận của cơ chế quản lý tài chính do Nhà nước ban hành, thông qua hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật và bộ máy quản lý, qua đó quy định các biện pháp cụ thể, cách
thức tổ chức và vận hành có hiệu quả các biện pháp nhằm thực hiện các mục tiêu của
chính sách đầu tư trong một thời kỳ nhất định.
1.1.3. Nội dung, phân loại cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn
ngân sách Nhà nước

Quản lý vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước được chia thành 2 nhóm
cơ chế sau đây:
1.1.2.1. Nhóm cơ chế có liên quan đến việc đảm bảo và sử dụng vốn đầu tư
- Cơ chế huy động vốn ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển.
- Cơ chế phân bổ và phân cấp quản lý vốn ngân sách đầu tư (cơ chế quản lý
chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước).
Nội dung chủ yếu của quy chế, quy trình quản lý đầu tư bao gồm:
- Những chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật của dự án đầu tư, nhất là các tiêu chuẩn
thiết kế, định mức dự tốn phù hợp nhằm vừa hạ thấp được chi phí đầu tư nhưng
vừa đảm bảo chất lượng của dự án.
- Thực hiện thẩm định dự án dầu tư, lựa chọn được phương án khả thi để phê
duyệt. Đây là khâu quyết định mức vốn đầu tư cho cơng trình.
- Xây dựng cơ chế đấu thầu, chọn thầu, khốn gọn góp phần tích cực trong

việc chống thất thốt, lãng phí vốn đầu tư.
- Quản lý các nguồn vốn đầu tư, xây dựng quy trình và quản lý cấp phát,
thanh tốn, quyết toán vốn đầu tư.
- Quy định các thủ tục hành chính trong quản lý đầu tư như: giấy cấp đất,
giấy phép hành nghề, giấy phép xây dựng, hợp đồng xây dựng.
- Quản lý quá trình đầu tư xây dựng cơ bản dự án đảm bảo chất lượng cơng
trình.


- Thẩ
m
định
quyế
t
tốn
vốn
đầu
tư dự
án
hồn
thàn
h,
xác
định
giá
trị tài
sản
hình thành qua đầu tư, bàn giao cho đơn vị sử dụng.
Sự hoạt động của những cơ chế này được dựa trên hàng loại các căn cứ như:
quan điểm, mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch đầu tư 5 năm

và kế hoạch phân kỳ hàng năm đối với nền kinh tế và từng ngành, địa phương, khả
năng thu ngân sách Nhà nước, khả năng vay trong nước và nước ngoài, những quy
định về phân cấp quản lý vốn đầu tư theo Luật Ngân sách Nhà nước. Nguyên tắc
hoạt động của nhóm cơ chế này là đảm bảo cung ứng đủ vốn đầu tư cho nền kinh
tế và đảm bảo tính dân chủ, tập trung, công khai và minh bạch trong phân bổ vốn.
1.1.2.2. Nhóm cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc phạm vi một dự án
Để giúp cho việc điều hành thống nhất, hệ thống cơ chế quản lý vốn đầu tư
thuộc phạm vi một dự án được quy định cụ thể trong Nghị định của Chính phủ ban
hành kèm theo Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng và các Nghị định hướng dẫn Luật
Đấu thầu, Luật Xây dựng.
1.2.3. Nguyên tắc quản lý chi vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước

Việc quản lý chi vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước phải đảm bảo những nguyên
tắc sau:
a. Quản lý, sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước phải tiết kiệm, hiệu
quả.


b. Phân định r chức năng quản lý của Nhà nước và phân cấp quản lý về đầu
tư và xây dựng phù hợp với từng loại nguồn vốn đầu tư và chủ đầu tư.
Phân định r trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước, của
chủ đầu tư, của tổ chức tư vấn và nhà thầu trong quá trình thực hiện dự án
đầu tư xây dựng.
c. Các dự án đầu tư thuộc vốn ngân sách Nhà nước phải được quản lý chặt
chẽ theo trình tự thủ tục đầu tư và xây dựng do Nhà nước ban hành. Các


thủ tục này được ban hành theo hướng tăng cường cải cách thủ tục hành
chính, triệt tiêu cơ chế “xin - cho”.
d. Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong xã hội cùng tham gia

đầu tư phát triển nền kinh tế trên cơ sở quy định của pháp luật. Đây chính
là chủ trương xã hội hố đầu tư của Đảng và Nhà nước ta. Thực hiện
nguyên tắc này trên các mặt: vốn ngân sách Nhà nước đóng vai trò là “vốn
mồi” để thu hút vốn của xã hội; Nhà nước mở rộng, đa dạng hố các hình
thức đầu tư, từng bước giao cho thị trường điều tiết một số khâu của quá
trình đầu tư nhằm chống tình trạng “khép kín” trong đầu tư.
e. Việc phân cấp quản lý về đầu tư và xây dựng cũng như sử dụng nguồn vốn
đầu tư cho các cấp, các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư luôn đi đôi với
công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
1.2.4. Đặc điểm và yêu cầu của cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án
đầu tư xây dựng thuộc ngân sách Nhà nước

Là một bộ phận hợp thành của cơ chế quản lý tài chính Nhà nước, trước hết,
quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước chịu sự ràng buộc bởi cơ chế
quản lý tài chính Nhà nước, song mặt khác, nó lại chịu sự chi phối bởi các yếu tố
kinh tế - xã hội, tự nhiên và kỹ thuật, những đặc điểm riêng có trong lĩnh vực đầu tư và
xây dựng. Do bị tác động bởi nhiều yếu tố nêu trên, nên quản lý chi vốn đầu tư phát
triển từ ngân sách Nhà nước có những đặc điểm chính sau đây:
Một là, đối tượng quản lý là nguồn ngân sách rất lớn, chúng được huy động từ
nhiều kênh khác nhau (từ khoản tích luỹ ngân sách Nhà nước, vay trong nước và vay
nước ngoài qua nguồn viện trợ và ODA).
Với đối tượng quản lý rộng lớn nên quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ ngân
sách Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp và rất nhạy cảm đối với tốc độ tăng trưởng nền
kinh tế nói chung, sự phát triển của các ngành, lĩnh vực, vùng và lãnh thổ nói riêng. Từ
đặc điểm trên, yêu cầu đặt ra cho quản lý chi loại nguồn vốn này là phải hết sức chặt
chẽ, tuân thủ Luật Ngân sách Nhà nước, nhưng mặt khác lại phải đảm bảo độ thơng
thống, giải ngân nhanh, cung cấp đủ nguồn và thực hiện, đáp ứng các mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.



Hai là, quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước có liên quan và
được vận hành trên một phạm vi rất rộng, do đó có tính chất phân tán: hiệu lực của cơ
chế phủ khắp từ 18 Bộ và 4 cơ quan ngang Bộ, ngành trung ương đến 63 tỉnh,
thành phố, việc quản lý này lại có liên quan và xuyên suốt tất cả các khâu, bước đi
của một dự án, từ chủ trương quy hoạch, chủ trương đầu tư, lập báo cáo đầu tư, quyết
định phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình, quyết định phê duyệt thiết kế - kỹ
thuật, dự tốn, tổng dự tốn, giải phóng mặt bằng, đấu thầu, tạm ứng, thanh toán đến
khâu lập, thẩm tra, phê duyệt quyết tốn dự án đầu tư hồn thành đưa vào khai thác,
sử dụng.
Gắn liền với những khâu trên là các khoản chi đầu tư. Quá trình thực hiện dự án
đến bước nào thì vốn đầu tư chi ra đến bước đó (thậm chí vốn phải đi trước một bước
trong trường hợp tạm ứng vốn).
Tính phức tạp và phân tán trong vận hành của cơ chế này thường sẽ dẫn tới sự
lỏng lẻo trong quản lý, tạo điều kiện cho cơ chế “xin - cho”, lãng phí, tham
nhũng tiền của Nhà nước, mặt khác cũng có thể dẫn tới khuynh hướng quản lý cứng
nhắc, máy móc, gây ách tắc, thiếu đồng bộ dẫn tới tình trạng “vốn chờ cơng trình”
hoặc “cơng trình chờ vốn”, làm vốn bị ứ đọng, thời gian thi cơng kéo dài, chậm tiến
độ, gây lãng phí và kém hiệu quả trong sử dụng vốn và cơng trình đầu tư.
Từ tính phức tạp và phân tán trong quản lý nêu trên, địi hỏi việc thiết kế mơ
hình quản lý chi đầu tư phát triển phải rất khoa học, theo hướng mở rộng phân cấp
nhưng phải gắn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi cấp, tăng cường thẩm định, kiểm
tra, giám sát ở từng khâu, đồng thời phải thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm, cải
cách thủ tục hành chính, tinh giản bộ máy, giảm bớt các đầu mối quản lý, nhưng vẫn
nâng cao được chất lượng và hiệu quả quản lý chi đầu tư phát triển.
Trong thời gian qua, việc huy động và sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước
đã đóng góp quan trọng vào việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tạo
mơi trường thuận lợi góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, xóa đói giảm nghèo và cải
thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên, do phân cấp quá rộng lại thiếu các biện pháp quản
lý đồng bộ dẫn tới tình trạng phê duyệt quá nhiều dự án vượt quá khả năng cân đối
vốn, kế hoạch đầu tư bị cắt khúc ra từng năm, thời gian thi công



kéo dài, đầu tư dàn trải, hiệu quả đầu tư kém, gây phân tán và lãng phí nguồn lực
của Nhà nước.
1.2. TỔNG QUAN VỀ VỐN ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGUỒN
VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.2.1. Cơ sở lý luận về vốn đầu tư và đầu tư phát triển

1.2.1.1. Cơ sở lý luận về vốn đầu tư
Theo quy định của Luật ngân sách Nhà nước năm 2002 thì ngân sách Nhà nước
là toàn bộ các khoản tiền của Nhà nước, kể cả tiền vay có trên tài khoản của ngân sách
Nhà nước các cấp.
Do khả năng huy động vốn ngân sách có hạn, trong khi nhu cầu vốn đầu từ hàng
năm lại rất lớn, nên vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước ở nước ta trong những năm qua
ở nước ta được cân đối từ nguồn tích luỹ của ngân sách và các khoản vay trong nước
và nước ngoài.
Vốn ngân sách Nhà nước bao gồm vốn trong nước (vốn tích luỹ của Ngân sách
Nhà nước) và vốn nước ngoài (vay nợ, viện trợ). Số tiền này được thanh toán trực tiếp
cho việc thực hiện các dự án, các chương trình mục tiêu quốc gia theo kế hoạch chi
đầu tư phát triển được duyệt hàng năm.
- Vốn trong nước: là phần chênh lệch giữa tổng các khoản thu (không kể vay
nợ) với chi tiêu dùng thường xuyên của ngân sách Nhà nước. Đối với vốn tích luỹ
của ngân sách Nhà nước, áp dụng cơ chế huy động, tiết kiệm triệt để và có hiệu quả
(vừa tăng thu cho ngân sách Nhà nước, vừa ra sức tiết kiệm trong chi tiêu dùng của
ngân sách), ngân sách Nhà nước phải có tích luỹ và tích luỹ ngày càng tăng thì mới
góp phần nâng cao tỷ trọng tích luỹ trong nước cho đầu tư phát triển kinh tế.
- Vốn nước ngoài: gồm các nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) từ
nước ngồi thơng qua vay nợ và viện trợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế
được đưa vào ngân sách Nhà nước. Đây là nguồn quan trọng để bù đắp thiếu hụt
ngân sách và được ưu tiên sử dụng cho những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

Đa số các dự án sử dụng vốn ODA được quản lý theo cơ chế riêng và các điều
khoản cam kết trong hiệp định ký kết.


Tuy nhiên, trong từng thời kỳ, do nhu cầu đầu tư rất lớn, Chính phủ phải huy
động vốn chi cho đầu tư phát triển bằng cách phát hành Công trái xây dựng tổ quốc,
các loại trái phiếu (trái phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ) là các cơng cụ huy động
vốn để đáp ứng kịp thời yêu cầu đầu tư cho các cơng trình trọng điểm, cấp bách; ngồi
ra, Chính phủ còn huy động vốn bằng phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế. Đây là
những xu hướng tích cực trong phương thức huy động vốn qua kênh ngân sách Nhà
nước.
Như vậy, nguồn vốn chi đầu tư của ngân sách Nhà nước bao gồm nguồn tích luỹ
của ngân sách và bội chi ngân sách Nhà nước được bù đắp bằng nguồn vốn vay trong
nước và ngoài nước được cân đối trong kế hoạch hàng năm của ngân sách Nhà nước.
1.2.1.2. Vai trò của đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước
Đầu tư phát triển là một hoạt động kinh tế có vai trị rất quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế xã hội, là nhân tố quan trọng tác động đến sự tăng trưởng của
nền kinh tế, tạo ra các tác động có lợi cho chính trị xã hội. Một nền kinh tế sẽ khơng
thể tồn tại và phát triển nếu thiếu hoạt động đầu tư. Đầu tư tác động đến tổng cung và
tổng cầu của nền kinh tế, trên góc độ vĩ mơ thơng qua chỉ tiêu GDP đánh giá sự phát
triển của nền kinh tế,
Khi vốn và tỷ trọng vốn được phân bổ vào các ngành, các vùng, các thành phần
kinh tế khác nhau dẫn đến kết quả và hiệu quả khác nhau đối với từng ngành, từng
vùng, từng thành phần kinh tế đó, dẫn đến thay đổi mối quan hệ tương quan giữa các
ngành, các vùng, các thành phần kinh tế. Từ đó dẫn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ,
đưa những vùng kém phát triển thốt khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những
lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của những vùng có khả
năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác phát triển.
Đầu tư phát triển gắn liền với phát triển khoa học công nghệ của đất nước, công

nghệ là trung tâm của hiện đại hóa. Đầu tư là điều kiện tiên quyết tới sự phát


triển nền công nghệ nước ta hiện nay. Đầu tư phát triển đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng
kinh tế và bền vững trên cơ sở tiếp tục chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng,
hiệu quả, sức cạnh tranh và chủ động hội nhập quốc tế.
Từ nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước đã góp phần hồn
thiện cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng trong lĩnh vực kinh tế như giao thông, thủy
lợi, công nhiệp. Trong lĩnh vực xã hội đầu tư phát triển đã góp phần phát triển khoa
học cơng nghệ và tăng nhanh hàm lượng khoa học và công nghệ cao trong sản phẩm,
cải thiện và nâng cao r rệt chất lượng giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người
nghèo, dân tộc thiểu số, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, tăng cường công tác bảo vệ
tài nguyên môi trường và chủ động ứng phó với các tác động của biến đổi khí hậu.
Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để
đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
1.2.1.3. Vốn ngân sách Nhà nước chi cho đầu tư phát triển
Vốn ngân sách Nhà nước chi cho đầu tư phát triển bao gồm: Vốn Ngân sách nhà
nước, vốn Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn Trái phiếu (Chính phủ, Chính
quyền địa phương), vốn Tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn Đầu tư phát triển của các
Tổng Công ty nhà nước, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Nội dung chi cho đầu tư phát triển bao gồm:
- Đầu tư xây dựng các cơng trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội khơng có
khả năng thu hồi vốn do Nhà nước quản lý, các cơng trình đầu tư để phát triển và
phục vụ cho hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước, cụ thể là các Bộ, ngành trung
ương, các địa phương và các tổ chức chính trị - xã hội.
- Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài
chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh

vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước.
- Chi bổ sung dự trữ nhà nước.


- Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
Vốn ngân sách Nhà nước đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật là
các dự án trong các lĩnh vực giao thông (các đường giao thông), các dự án trong lĩnh
vực thuỷ lợi (như các công trình hồ, đập chứa nước); ngồi ra vốn ngân sách Nhà nước
cịn đầu tư cho các cơng trình cho hạ tầng xã hội như các dự án trường học trong
lĩnh vực Giáo dục và đào tạo, các dự án bệnh viện trong lĩnh vực Y tế, các dự án nhà ở
xã hội nhằm hướng tới mục tiêu an sinh xã hội, các cơng trình văn hố mang tính cộng
đồng, các cơng trình cơng cộng. Đây thường là các dự án đầu tư có vốn lớn (đường
giao thơng, hồ, đập thuỷ lợi...) mà tư nhân khơng thể có đủ vốn để đầu tư, hoặc là các
dự án có tỷ suất lợi nhuận không cao (các dự án nhà ở xã hội), nên tư nhân không
muốn đầu tư.
Như vậy, vốn ngân sách Nhà nước sử dụng để đầu tư phát triển theo kế
hoạch của Nhà nước cho các dự án đầu tư xây dựng cơng trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quốc phịng, an ninh thiết yếu, có vốn đầu tư lớn, khơng có khả năng thu hồi
vốn hoặc thu hồi vốn chậm là một nội dung quan trọng trong chi đầu tư phát triển của
ngân sách Nhà nước.
1.2.2. Những đặc trưng của đầu tư và đầu tư phát triển

1.2.2.1. Những đặc trưng của đầu tư
Hoạt động đầu tư được hiểu là việc bỏ vốn ra hôm nay để mong nhận được một
kết quả lớn hơn trong tương lai. Hoạt động đầu tư có đặc trưng cơ bản là:
- Khi thực hiện công việc đầu tư phải bỏ vốn ban đầu.
- Mục tiêu của đầu tư là hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội hoặc hiệu quả kinh
tế - xã hội. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất là loại đầu tư điển hình thể hiện sự gắn
kết giữa hiệu quả kinh tế và xã hội khi xác định mục tiêu đầu tư.
Ở mọi quốc gia, nguồn vốn đầu tư trước hết và chủ yếu là từ tích luỹ của nền
kinh tế, tức phần tiết kiệm sau khi tiêu dùng (gồm tiêu dùng của cá nhân và tiêu dùng

của Chính phủ) từ GDP. Nguồn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, xét về lâu dài là nguồn
bảo đảm cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách ổn định, là điều kiện đảm
bảo tính độc lập và tự chủ của đất nước trong lĩnh vực kinh tế cũng như


các lĩnh vực khác. Ngồi nguồn vốn tích luỹ từ trong nước, các quốc gia cịn có thể và
cần huy động vốn đầu tư từ nước ngoài để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Từ đây, có thể thấy các nguồn vốn chính cho đầu tư phát triển, bao gồm:
- Nguồn trong nước: bao gồm tích luỹ từ Ngân sách Nhà nước, vốn tích luỹ
của các doanh nghiệp, tiết kiệm của dân cư, vốn tự có, vốn liên doanh, liên kết.
- Nguồn vốn từ nước ngoài: bao gồm đầu tư trực tiếp (FDI), đầu tư gián tiếp
(ODA) ....
Trong các nguồn vốn trên thì vốn huy động từ nước ngồi đóng vai trị quan
trọng trong những bước đi đầu tiên, là những cú “huých” cho sự phát triển, tạo tích luỹ
cho nền kinh tế để phát triển đất nước. Nhưng xét về lâu dài, nguồn vốn đảm bảo cho
sự tăng trưởng kinh tế một cách bền vững, đưa đất nước đến sự phồn thịnh một cách
chắc chắn và không phụ thuộc lại là nguồn vốn trong nước. Đây chính là nền tảng để
tiếp thu và phát huy tác dụng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
1.2.2.2. Những đặc trưng của đầu tư phát triển
Một là, đầu tư phát triển là hoạt động bỏ vốn. Do vậy quyết định đầu tư thường
là và trước hết là quyết định tài chính. Các khía cạnh về tài chính như: Tổng mức đầu
tư là bao nhiêu, nguồn hình thành từ đâu, cơ cấu tài chính ra sao, khả năng, thời gian
hồn vốn như thế nào, cần phải được phân tích xem xét rất kỹ lưỡng. Vì vậy, nhiều dự
án đầu tư có thể khả thi ở các phương diện khác (kinh tế, xã hội), nhưng không khả thi
trên phương diện tài chính thì cũng cần được xem xét lại.
Hai là, đầu tư phát triển là hoạt động có tính lâu dài, có những dự án đầu tư kéo
dài hàng chục năm. Đây là một đặc điểm khác biệt của đầu tư phát triển so với các
hình thức đầu tư khác. Do tính chất lâu dài, nên mọi sự trù liệu đều phải tính tốn, dự
phịng sự thay đổi trong q trình thực hiện dự án.
Ba là, sản phẩm của các dự án đầu tư phát triển thường có tính đơn chiếc. Do

vậy ngay cả 2 cơng trình ở liền kề nhau, nhưng chi phí xây dựng thực tế của mỗi cơng
trình cũng khác nhau. Đây là một đặc điểm cần được lưu ý trong quá trình quản lý vốn
đầu tư.


Bốn là, hoạt động đầu tư phát triển luôn cần sự cân nhắc giữa lợi ích trước mắt
và lợi ích trong tương lai. R ràng rằng, nhà đầu tư mong muốn và chấp nhận đầu tư
chỉ trong điều kiện lợi ích thu được trong tương lai lớn hơn lợi ích hiện tại mà họ
tạm thời phải hy sinh. Hay nói cách khác, mục đích tối cao của đầu tư là hiệu quả.
Hiệu quả vừa là mục tiêu, động lực và phương tiện của hoạt động đầu tư.
Năm là, đầu tư phát triển là hoạt động mang nặng tính rủi ro. Các đặc trưng nêu
trên cho thấy hoạt động đầu tư nói chung, đầu tư phát triển nói riêng chứa đựng nhiều
yếu tố rủi ro. Bản chất của sự đánh đổi lợi ích giữa trước mắt và lâu dài, hơn nữa hoạt
động đầu tư thường kéo dài đã làm thay đổi những dự định của nhà đầu tư so với tính
tốn ban đầu. Vì vậy, chấp nhận rủi ro như là bản năng của nhà đầu tư. Việc nghiên
cứu đặc điểm này để tìm biện pháp ngăn ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất khả năng rủi
ro khi thực hiện dự án.
Ngoài 5 đặc điểm chung nêu trên, các dự án đầu phát triển kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội từ nguồn ngân sách Nhà nước cịn có 2 đặc điểm có tính đặc thù sau:
Một là, vốn đầu tư lớn: đây là một đặc trưng rất quan trọng của vốn đầu tư phát
triển từ ngân sách Nhà nước. Bởi vì các cơng trình được đầu tư xây dựng từ nguồn vốn
này đa số là các cơng trình lớn, có tầm quan trọng đối với sự phát triển của toàn bộ nền
kinh tế, nên cần một lượng vốn đầu tư tương đối lớn, thậm chí là rất lớn như xây dựng
hệ thống giao thông, hồ đập, thuỷ điện, cải tạo phòng chống thiên tai, bệnh viện,
trường đại học.
Hai là, khả năng thu hồi vốn: có thể nói rằng, mặc dù tất cả các cơng trình kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước đều là những
cơng trình rất quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, song khả năng thu hồi
vốn của chúng lại rất thấp hoặc khơng có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Do vậy, các
thành phần kinh tế khác hầu như không muốn tham gia xây dựng các cơng trình này.

Nói cách khác, đây là các cơng trình được đầu tư xây dựng trong các lĩnh vực mà các
thành phần khác không được phép đầu tư (an ninh, quốc phịng), khơng muốn đầu tư
như xây dựng đê biển, đầu tư thuỷ lợi lớn, hoặc khơng thể đầu tư như dự án Thuỷ
điện Hồ Bình, Thuỷ điện Trị An, Thuỷ điện IALY,


Thuỷ điện Sơn La, dự án Đường Hồ Chí Minh, khu cơng nghiệp khí điện đạm Cà Mau,
nhà máy lọc dầu Dung Quất,…là những dự án địi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư rất
lớn, song khả năng hoàn vốn lại rất khó xác định.
1.2.3. Dự án đầu tư xây dựng và hiệu quả đầu tư

1.2.3.1. Dự án đầu tư xây dựng
Khác với các hoạt động đầu tư kinh tế, thương mại thông thường, đầu tư phát
triển là một loại hình hoạt động phức tạp có nhiều nét đặc thù, như: thời gian thi công
kéo dài, độ rủi ro lớn, vốn đầu tư lớn, chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố (tự nhiên, kinh
tế, chính trị, xã hội). Do vậy, hoạt động đầu tư phát triển thường được thực hiện thông
qua các dự án đầu tư xây dựng công trình.
Theo quy định tại Luật Xây dựng Việt Nam 2003 thì: dự án đầu tư xây dựng
cơng trình là tập hợp các đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để xây dựng mới, mở
rộng hoặc cải tạo những cơng trình xây dựng nhằm mục đích phát triển, duy trì, nâng
cao chất lượng cơng trình hoặc sản phẩm, dịch vụ trong một thời hạn nhất định.
Dự án đầu tư xây dựng cơng trình bao gồm phần thuyết minh và phần thiết kế cơ sở.
Từ định nghĩa trên cho thấy, yêu cầu của một dự án đầu tư xây dựng là phải
phản ảnh toàn diện các mặt của hoạt động đầu tư. Một dự án đầu tư xây dựng thường
có những nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, cơ sở pháp lý của dự án đầu tư: nội dung này nhằm phản ảnh những căn
cứ cho phép để thực hiện dự án đầu tư, như sự phù hợp về pháp luật, về chủ trương,
quy hoạch ngành và lãnh thổ; tư cách pháp nhân, năng lực và khả năng tài chính của
chủ đầu tư, các quy định, chế độ khuyến khích, ưu đãi đầu tư.
Hai là, về mặt công nghệ kỹ thuật: nội dung này quy định các đề xuất về mặt kỹ

thuật, công nghệ để thực hiện dự án đầu tư, bao gồm việc sử dụng công nghệ, thiết bị,
các tiêu chuẩn quy phạm kỹ thuật, vấn đề sử dụng đất đai, tài nguyên.
Ba là, về kinh tế tài chính: nội dung này quy định các vấn đề về thị trường, quy
mô đầu tư, thời gian đầu tư, thời gian hoạt động, khả năng đảm bảo các nguồn vốn, cơ
cấu chi phí và đặc biệt phản ảnh hiệu quả kinh tế, tài chính của dự án.


Bốn là, về tổ chức thực hiện, vận hành: nội dung này quy định các giải pháp rất
cụ thể để thực hiện dự án như khả năng đáp ứng các yếu tố đầu vào, đầu ra của dự án,
vấn đề tổ chức bộ máy điều hành, chuyển giao công nghệ.
- Phân loại dự án đầu tư:
Có nhiều cách phân loại dự án đầu tư. Tuy nhiên, để phù hợp với đối tượng
nghiên cứu và những quy định hiện hành (theo Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày
10/2/2009 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng cơng trình) có thể phân
loại các dự án đầu tư thành các nhóm sau đây:
Thứ nhất, căn cứ vào quy mô (quy mô về vốn) và tính chất (tính chất quan
trọng), dự án đầu tư được phân thành: dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội thông
qua chủ trương và cho phép đầu tư; các dự án còn lại được phân thành 3 nhóm A, B,
C.
Thứ hai, theo nguồn vốn đầu tư dự án đầu tư xây dựng cơng trình được phân
thành:
+ Dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước;
+ Dự án sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước;
+ Dự án sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước;
+ Dự án sử dụng vốn khác bao gồm cả vốn tư nhân hoặc sử dụng hỗn hợp nhiều
nguồn vốn.
Thứ ba, theo hình thức đầu tư: theo tiêu chí này, các dự án đầu tư có thể
được chia thành 2 nhóm:
+ Dự án đầu tư thuộc nguồn vốn trong nước: thuộc nhóm này là các dự án được

đầu tư bằng các nguồn vốn ngân sách Nhà nước, tín dụng nhà nước, tín dụng thương
mại, vốn đầu tư thuộc doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu tư thuộc khu vực dân doanh.
+ Dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngồi nước: thuộc nhóm này là các dự án được
đầu tư bằng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) hoặc ODA.


Do các dự án đầu tư thường có quy mơ vốn lớn, nên theo xu thế hiện nay, các
dự án này được đầu tư bằng các nguồn vốn hỗn hợp: giữa vốn ngân sách Nhà nước với
vốn vay; giữa vốn trong nước với vốn ngoài nước…
Thứ tư, theo phương thức thực hiện đầu tư: các dự án đầu tư được thực hiện
bằng các hình thức như tự đầu tư, liên doanh; 100% vốn nước ngoài; BOT; BTO;
BT…
Thứ năm, theo lĩnh vực đầu tư: các dự án đầu tư có thể được chia thành dự án
đầu tư thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ, kết cấu hạ tầng, văn hoá, y tế, xã
hội.
2.2.3.2. Hiệu quả đầu tư
1. Khái niệm về hiệu quả đầu tư
Khơng thể nói đến đầu tư mà khơng nói tới hiệu quả đầu tư vì hiệu quả đầu tư
là mục đích cuối cùng của đầu tư. Hiệu quả đầu tư được thể hiện trong mối quan hệ
giữa lợi ích thu được do đầu tư mang lại và chi phí bỏ ra để thực hiện đầu tư. Do mục
đích đầu tư khác nhau nên tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả đầu tư ở mỗi thời kỳ phát triển
và mỗi giai đoạn của quá trình đầu tư cũng khác nhau. Có hoạt động đầu tư mang lại
hiệu quả kinh tế (trồng cây thuốc phiện, phá rừng, nhà máy hố chất xây dựng ở khu
vực đơng dân cư) nhưng lại khơng mang lại hiệu quả xã hội. Có hoạt động đầu tư tuy
hiệu quả kinh tế thấp, hoặc không có hiệu quả kinh tế trước mắt những lại có hiệu quả
về mặt xã hội lâu dài (trồng rừng, xử lý rác thải công nghiệp, xây dựng trường học,
bệnh viện). Các doanh nghiệp thường đầu tư vào các dự án có hiệu quả kinh tế, cịn
các dự án có hiệu quả xã hội thì Nhà nước phải đầu tư.
Đối với vốn ngân sách Nhà nước, mục đích đầu tư khơng chỉ vì lợi ích kinh tế
trước mắt mà là vì lợi ích kinh tế - xã hội lâu dài. Do đó đối tượng sử dụng vốn ngân

sách Nhà nước để đầu tư là những dự án mang lại lợi ích trực tiếp hoặc mang lại lợi ích
cho tồn xã hội, nhưng thơng thường có sự kết hợp hài hồ giữa lợi ích kinh tế và lợi
ích xã hội. Điều đó cho ta một kết luận rằng, trong khi nguồn vốn ngân sách Nhà
nước hạn hẹp thì Nhà nước chỉ nên đầu tư vào những dự án nào mà


các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế khác khơng đầu tư (vì nó nghiêng về hiệu
quả xã hội), hoặc khơng đủ khả năng để đầu tư (vì vốn đầu tư lớn).
Mục tiêu của hoạt động đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cho nhà đầu tư
và cho nền kinh tế quốc dân cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Để nâng cao hiệu quả kinh tế,
xã hội, trong hoạt động đầu tư, cần coi trọng việc hoàn thiện các cơ chế quản lý và
sử dụng nói chung và cơ chế quản lý tài chính nói riêng ở các khâu của quá trình đầu
tư ở cả tầm vĩ mơ và vi mơ.
- Trên góc độ quản lý vĩ mơ: để hoạt động đầu tư có hiệu quả cần có chiến
lược đầu tư dài hạn đúng và ổn định. Trên cơ sở đó có quy hoạch hợp lý (quy hoạch
tổng thể, quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, quy hoạch đô thị và nông thôn, quy
hoạch xây dựng) phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của đất
nước. Căn cứ vào quy hoạch được phê duyệt để xác định bước đi phù hợp với mục
tiêu chiến lược để sắp xếp, bố trí kế hoạch đầu tư cho các dự án theo ngành và theo
vùng đảm bảo cân đối, hợp lý với khả năng vốn cho phép. Chất lượng và hiệu quả
các nội dung trên phụ thuộc nhiều vào việc xác định quyền hạn, trách nhiệm các
cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân từ Trung ương đến địa phương trong việc tạo
ra các quyết định liên quan đến chủ trương đầu tư, cơ chế quản lý và điều hành hoạt
động đầu tư như: huy động vốn đầu tư; thẩm định và ra quyết định đầu tư; phê
duyệt thiết kế và tổng dự toán, dự toán; phân cấp và kế hoạch; cơ chế giao thầu, giải
ngân và quyết toán đảm bảo thống nhất.
- Trên góc độ quản lý vi mơ: hiệu quả hoạt động đầu tư được quyết định bởi
công tác quản lý cụ thể trong từng khâu quản lý và nghiệp vụ quản lý. Để nâng cao
hiệu quả hoạt động đầu tư ở cấp vi mô cần phân định r trách nhiệm (nhiệm vụ và
nội dung công việc, giới hạn công việc, trách nhiệm và quyền hạn) từng khâu công

tác. Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp quản lý cụ thể cho từng khâu để thực hiện các
mục tiêu cụ thể, mối quan hệ phối kết hợp giữa các cá nhân, tập thể, tổ chức trong
quá trình điều hành và quản lý vốn đầu tư cũng như hoạt động đầu tư.
2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của đầu tư
Hiện nay, hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh đang
được các cấp, các ngành đặc biệt chú ý, trên bình diện quốc gia nó cịn là


những chỉ tiêu phản ánh lợi thế của mỗi quốc gia nhằm phản ánh khả năng cạnh tranh
về kinh tế cũng như thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong các nhân tố tác động tới
tăng trưởng kinh tế (lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên, công nghệ,…) ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay thì yếu tố vốn được coi là nhân tố quan trọng nhất.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của đầu tư thường được biểu hiện dưới
dạng tỷ số so sánh giữa kết quả đầu tư (đầu ra) với chi phí đầu tư (đầu vào). Vì đầu
vào, đầu ra được đo lường bằng nhiều cách khác nhau nên cũng có nhiều chỉ tiêu phản
ánh hiệu quả đầu tư.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nền kinh tế người ta thường sử
dụng hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio - Tỷ số vốn/sản lượng tăng thêm).
+ Hệ số ICOR (k) là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của vốn đầu tư, nó được xác
định theo cơng thức:

k
Trong đó:

ΔK
ΔY

(1.1)

- K mức thay đổi vốn sản xuất, K = Kt – Kt-1

- Y là mức thay đổi về kết quả sản xuất và Y = Yt – Yt-1, ở đây t chỉ năm
nghiên cứu và t - 1 chỉ năm trước năm nghiên cứu.
Hệ số ICOR có ý nghĩa là để tạo thêm được một đơn vị kết quả sản xuất thì cần
tăng thêm bao nhiêu đơn vị vốn sản xuất. Hay nói cách khác, k là “giá” phải trả thêm
cho việc tạo thêm một đơn vị kết quả sản xuất. Hệ số ICOR càng lớn chứng tỏ chi phí
cho kết quả tăng trưởng càng cao nó phụ thuộc vào mức độ khan hiếm nguồn dự trữ
và tính chất của cơng nghệ sản xuất; ở các nước phát triển hệ số ICOR thường cao hơn
ở các nước đang phát triển và ở mỗi nước thì hệ số ICOR ln có xu hướng tăng lên
tức là khi kinh tế càng phát triển thì để tăng thêm một đơn vị kết quả sản xuất cần
nhiều hơn về nguồn lực sản xuất nói chung và nhân tố vốn nói riêng và khi đó đường
sản lượng thực tế gần tiệm cận với đường sản lượng tiềm năng. Từ quan hệ trên ta,
chúng ta có thể rút ra được hai điểm cơ bản sau:


Một là: xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho thời kỳ mới khi xác định
được khả năng tiết kiệm của nền kinh tế thời kỳ gốc và dự báo hệ số ICOR thời kỳ kế
hoạch là một trong những căn cứ quan trọng đối với các nhà hoạch định trong xây
dựng chiến lược phát triển kinh tế, xã hội.
Hai là: khi đứng trước một mục tiêu tăng trưởng do yêu cầu của các cấp lãnh
đạo đặt ra, mô hình cho phép chúng ta xác định được nhu cầu tích luỹ cần có để đạt
được mục tiêu đó. Là căn cứ để đánh giá khả năng đạt mục tiêu đã đề ra.
Để đánh giá hiệu quả kinh tế, tài chính của một dự án đầu tư người ta
thường sử dụng một số hệ thống các chỉ tiêu sau đây:
+ Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư: là quãng thời gian cần thiết để các
khoản thu từ dự án đầu tư (khấu hao và lợi nhuận sau thuế) đủ để bù đắp vốn đầu tư đã
bỏ ra. Có thể gọi chỉ tiêu này là thời gian cần thiết để ngân sách tự chi trả cho chính
bản thân nó.
+ Chỉ tiêu thời gian hoàn trả vốn vay: là quãng thời gian cần thiết để các khoản
thu nhập từ dự án (lợi nhuận trước thuế và lãi vay, khấu hao tài sản cố định đủ để trả
nợ vay gồm gốc và lãi).

+ Giá trị hiện tại ròng (NPV – Net Present Value): một trong những đặc trưng
của vốn đầu tư là có giá trị về mặt thời gian. Vốn đầu tư phải bỏ ra hôm nay nhưng các
khoản thu lại xảy ra trong tương lai. Do vậy, để đánh giá chính xác hiệu quả kinh tế
đầu tư, người ta thường đưa tất cả các khoản thu, chi gắn với một dự án về cùng một
thời điểm để so sánh. Thời điểm thường được chọn là thời điểm hiện tại. Chênh lệch
giữa giá trị hiện tại của các khoản thu với giá trị hiện tại của các khoản chi gọi là giá trị
hiện tại ròng. Chỉ tiêu này đo lường trực tiếp giá trị tăng thêm do vốn đầu tư tạo ra có
tính tới sự tác động về mặt thời gian của tiền vốn, do vậy cho phép người ra quyết định
đầu tư nhìn nhận hiệu quả đầu tư chính xác hơn.
Chỉ tiêu NPV được xác định theo công thức:

(1.2)


Trong đó:
Bt – Thu nhập tăng thêm tại thời gian t (bao gồm doanh thu, vốn lưu động ở
cuối dự án).
Ct - Chi phí ở năm thứ t (bao gồm vốn đầu tư, chi phí vận hành khơng có
khấu hao cơ bản).
H – Giá trị thu hồi khi kết thúc dự án.
t - Thời gian tính dịng tiền
n - tổng thời gian thực hiện dự án
r - tỉ lệ chiết khấu (hay còn gọi là lãi suất chiết khấu)
Điều kiện phương án tốt nhất trong số các phương án là NPV = max
* Ưu nhược điểm của phương pháp tính NPV:
- Ưu điểm: có tính đến sự biến động của chỉ tiêu thời gian, tính tốn cho cả vịng
đời của dự án, có tính đến giá trị tiền tệ theo thời gian, có thể tính đến nhân tố trượt giá
và lạm phát thông qua việc điều chỉnh các chỉ tiêu Bt, Ct và r, là xuất phát điểm để tính
nhiều chỉ tiêu khác.
- Nhược điểm: phương pháp dùng chỉ tiêu NPV chỉ chính xác trong thị

trường vốn hồn hảo. Chỉ tiêu NPV phụ thuộc nhiều vào hệ số chiết khấu.
Hệ quả: Từ chỉ tiêu NPV có thể xác định thời hạn thu hồi vốn đầu tư theo kiểu
động.
+ Tỷ suất doanh lợi nội bộ (IRR – Internal Rate of Return): tỷ suất doanh lợi
nội bộ hay còn gọi là tỷ suất hồn vốn nội bộ, là một lãi suất đóng vai trò như một tỷ
lệ chiết khấu làm cân bằng giá trị hiện tại của các khoản thu với giá trị hiện tại của các
khoản chi. Chỉ tiêu cho phép ta so sánh giữa tỷ lệ sinh lời (đầu vào) với chi phí sử
dụng vốn bình qn dự án (đầu ra), thấy được mối liên hệ giữa việc huy động vốn và
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Chỉ tiêu IRR được xác định theo công thức:

IRR  r  (r  r
)
1

Trong đó:

2
1

NPV1
NPV1 
NPV2

(1.3)


IRR: Hệ số hoàn vốn nội bộ cận nội suy (%)
r1 < r2, NPV1 > NPV2
r1: Tỷ suất chiết khấu thấp hơn tại đó NPV 1 > 0 gần sát 0 nhất

r2: Tỷ suất chiết khấu cao hơn tại đó NPV 2 < 0 gần sát 0 nhất.
NPV: Giá trị hiện tại rịng
IRR cần tìm (ứng với NPV = 0) sẽ nằm giữa r1 và r2
+ Chỉ số sinh lời của vốn đầu tư: đây là một chỉ tiêu dựa vào giá trị thời gian
của tiền tệ để tính tốn. Nó phản ánh một đồng giá trị hiện tại của vốn đầu tư tạo ra
mấy đồng giá trị hiện tại thu nhập thuần của dự án.
+ Phân tích độ nhạy của dự án: độ nhạy của dự án phản ánh sự biến động
của các yếu tố (vốn đầu tư, sản lượng tiêu thụ, giá cả một sản phẩm, giá thành một sản
phẩm,...) tới kết quả cuối cùng. Để xác định mức độ giao động của yếu tố nào đó, ta
cho yếu tố đó biến động cịn các yếu tố khác cố định. Phân tích độ nhạy của dự án cho
biết giới hạn an tồn của dự án khi có sự biến động của các yếu tố đầu vào và đầu ra,
giúp nhà quản lý có những điều chỉnh cần thiết trong q trình thực hiện dự án.
+ Phân tích điểm hịa vốn: điểm hồ vốn là điểm tại đó doanh thu bằng chi phí.
Xác định điểm hồ vốn cho biết cần sản xuất và tiêu thụ một sản lượng sản phẩm là
bao nhiêu để khơng bị lỗ vốn. Phân tích điểm hồ vốn cịn cho biết thời gian hồ
vốn, cơng suất hoà vốn, doanh thu hoà vốn của dự án. Dựa vào điểm hoà vốn mà xác
định được thời điểm hợp lý chấm dứt hoạt động của dự án, khối lượng lợi nhuận đạt
được cả đời dự án và còn là cơ sở để phân tích độ nhạy của dự án.
Các phương pháp đánh giá hiệu quả trên đây thường được áp dụng đối vối
dự án đầu tư có tính chất sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp; còn đối với
các dự án đầu tư sử dụng vốn ngân sách Nhà nước thường được đánh giá bằng hiệu
quả xã hội, hoặc hiệu quả kinh tế - xã hội (như dự án đó tạo bao nhiêu việc làm, nhờ có
dự án đó có bao nhiêu người dân được hưởng lợi…) thì khó đánh giá khi áp dụng các
phương pháp trên.


1.2.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn ngân sách Nhà nước
để chi cho đầu tư phát triển
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố
như: nhóm nhân tố về chính trị, kinh tế, xã hội; về thu nhập và tiết kiệm; về định

hướng chiến lược và quy hoạch phát triển; về thị trường vốn; về con người; về cơ chế
đầu tư. Việc nghiên cứu đầy đủ các nhân tố tác động đến quá trình này cho phép các
nhà hoạch định chính sách, các chủ đầu tư lựa chọn phương thức huy động và sử dụng
vốn tối ưu để đầu tư đạt mục tiêu và mang lại hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, cũng như
đối với dự án đầu tư, dự án đầu tư xây dựng cơ bản thuộc ngân sách Nhà nước ln là
sự lựa chọn khó khăn, phức tạp cho các chủ đầu tư và các nhà quản lý, vì nó khơng chỉ
đáp ứng những mục tiêu kinh tế đơn thuần mà phải đảm bảo lợi ích của toàn xã hội.
Nghĩa là ngoài hiệu quả kinh tế thì đầu tư cơng cộng phải đạt được mục tiêu làm sao
dự án tạo lợi ích cho người này và cũng tạo ra điều kiện tốt cho người kia hoặc khơng
làm phương hại đến lợi ích của người kia.
Một là, các nhân tố về kinh tế:
- Mức độ phát triển của nền kinh tế thị trường: đây là nhân tố tác động có
tính chất bao trùm đến cả cơng tác huy động và quản lý sử dụng vốn ngân sách Nhà
nước cho đầu tư phát triển; cụ thể:
+ Kinh tế phát triển mạnh làm cho quy mô GDP ngày càng lớn. Từ đó, tạo khả
năng nâng cao mức tích luỹ nội bộ của cả khu vực Nhà nước và khu vực phi Nhà nước
dành cho đầu tư. Sự phát triển các hoạt động của nền kinh tế đặt ra nhu cầu tăng cường
đầu tư vốn phát triển cho tương ứng để phục vụ tốt nhu cầu vận chuyển, đi lại đặt ra.
Như vậy, từ nhu cầu đầu tư kích thích mạnh mẽ việc tìm kiếm và khai thác tích cực các
nguồn vốn.
+ Kinh tế thị trường phát triển cũng có nghĩa là trong nền kinh tế sẽ có nhiều
thành phần kinh tế có thể cùng trực tiếp tham gia đầu tư và quản lý tốt hơn vốn đầu tư
phát triển.
- Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường vốn với nhiều công cụ được sử dụng
linh hoạt thúc đẩy sự lưu chuyển nhanh của các luồng vốn, tạo điều kiện thuận lợi


×