Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Phát huy vai trò của một số công cụ kinh tế và nguồn lực trong quản lý môi trường để phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (782.13 KB, 10 trang )

PHÁT HUY VAI TRỊ CỦA MỘT SỐ CƠNG CỤ KINH TẾ
VÀ NGUỒN LỰC TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG ĐỂ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ XANH, KINH TẾ TUẦN HOÀN
Lại Văn Mạnh, Nguyễn Thị Thanh Huyền, Nguyễn Thế Thơng
Viện Chiến lược, Chính sách tài ngun và Mơi trường
Tóm tắt
Cơng cụ kinh tế đóng vai trị khơng thể thiếu trong tiến trình bảo vệ và cải thiện chất lượng
môi trường. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã bổ sung Chương 11 với các quy định về cơng cụ
kinh tế, chính sách và nguồn lực cho bảo vệ môi trường với nhiều công cụ, chính sách mới được
kỳ vọng sẽ góp phần thực hiện thành công mục tiêu bảo vệ môi trường, phát triển bền vững trong
giai đoạn tiếp theo của đất nước. Đặc biệt, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn được định
hướng là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
2021 - 2030 và cũng là chính sách chung của pháp luật bảo vệ môi trường. Bài viết này góp phần
làm rõ vai trị của cơng cụ kinh tế, đánh giá hiện trạng sử dụng công cụ kinh tế, từ đó đề xuất sử
dụng cơng cụ kinh tế trong quản lý môi trường hướng đến thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế
xanh, kinh tế tuần hồn.
Từ khóa: Cơng cụ kinh tế; Kinh tế xanh; Kinh tế tuần hoàn; Bảo vệ môi trường.
Abstract
Developing the role of some economic tools and resources in environmental management to
develop the green economy, circular economy
Economic instruments play an indispensable role in the process of protecting and improving
the quality of the environment. The Law on Environmental Protection 2020 has supplemented
Chapter 11 with regulations on economic tools, policies and resources for environmental protection
with various economic instruments, and policies, which are expected to effectively support the
goal of environmental protection and sustainable development in the next period of the country.
In particularly, development of green economy and circular economy are oriented as one of the
key tasks in the 10 - year socio - economic development strategy from 2021 to 2030 and the
legislation on environmental protect. This article contributes to clarifying the role of the economic
instruments, evaluates the current status of using economic instruments, thereby proposing the use
of economic instruments in environmental management towards promoting the transformation to
a green economy, a circular economy.


Keywords: Economic instruments; Green economy; Circular economy; Environmental
protection.
1. Mở đầu
Kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là những cách tiếp cận được nhiều quốc gia áp dụng nhằm
giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với môi trường, thực hiện các mục tiêu
phát triển bền vững trong bối cảnh của biến đổi khí hậu. Việt Nam đang đẩy mạnh tiến trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và đơ thị hóa mạnh mẽ dẫn đến các áp lực từ các vấn đề ô nhiễm, suy thối
mơi trường do q trình phát triển ngày càng lớn, biến đổi khí hậu tác động đến mọi mặt của đời
sống kinh tế - xã hội ngày càng rõ nét. Sử dụng các cơng cụ chính sách, đặc biệt là công cụ kinh
tế (CCKT) dựa vào các nguyên tắc, quy luật của kinh tế thị trường kết hợp với các cơng cụ khác
như mệnh lệnh - hành chính, cơng nghệ - kỹ thuật, truyền thông nâng cao nhận thức,… Ngày càng
Hội thảo Quốc gia 2022

175


được sử dụng phổ biến và khẳng định được vai trò trong điều chỉnh hành vi của người sản xuất,
người tiêu dùng nhằm thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Giai đoạn
vừa qua, nhiều CCKT đã được thể chế hóa, áp dụng trong thực tiễn quản lý ở Việt Nam và bước
đầu phát huy được một số vai trò nhất định. Đặc biệt, Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2020
đã bổ sung Chương 11 với các quy định về CCKT, chính sách và nguồn lực cho BVMT với nhiều
cơng cụ, chính sách mới được kỳ vọng sẽ góp phần thực hiện thành cơng mục tiêu BVMT, phát
triển bền vững trong giai đoạn tiếp theo của đất nước.
2. Vai trị của các cơng cụ kinh tế trong quản lý môi trường
2.1. Tổng quan các cơng cụ kinh tế
Ơ nhiễm, suy thối mơi trường là một trong những biểu hiện về khiếm khuyết của nền KTTT
do các nguyên nhân thuộc về quyền sở hữu/quyền tài sản chưa rõ ràng, ngoại ứng, thông tin không
đầy đủ và độc quyền. Ở mỗi giai đoạn khác nhau từ quá trình khai thác, chế biến, sản xuất, phân
phối, tiêu dùng và thải bỏ sẽ có những cơng cụ chính sách khác nhau, có vai trị khác nhau. Các
học giả về chính sách mơi trường như Thomas Sterner, Isao Endo,... Thường phân loại các cơng cụ

chính sách trong mơi trường thành 03 nhóm cơng cụ được sử dụng để giải quyết các khiếm khuyết
đó gồm: (i) Nhóm các cơng cụ pháp lý; (ii) Các CCKT; (iii) Công cụ tuyên truyền, thuyết phục,
vận động và giáo dục (Hình 1). Nhóm các CCKT hay công cụ dựa vào thị trường là các cơng cụ
chính sách được sử dụng nhằm tác động tới chi phí trong hoạt động của các tổ chức, cá nhân hoạt
động trong nền kinh tế để điều chỉnh hành vi của các tác nhân kinh tế theo hướng có lợi cho môi
trường [2]. Các CCKT trong BVMT rất đa dạng như thuế/phí mơi trường, quỹ mơi trường, hạn
ngạch gây ô nhiễm, ký quỹ môi trường, các hệ thống đặt cọc - hoàn trả, trợ cấp và các cơ chế tài
chính khác [3]. Để thực hiện được mục tiêu BVMT địi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải
phát huy hiệu quả đồng thời của nhiều cơng cụ chính sách khác nhau trong mỗi cơng đoạn khác
nhau của q trình sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng và đồng thời gắn với đặc trưng của mỗi chủ
thể khác nhau trong nền kinh tế.

Hình 1: Những cơng cụ phổ biến trong quản lý môi trường [1]
176

Hội thảo Quốc gia 2022


2.2. Mục đích sử dụng các cơng cụ kinh tế trong quản lý môi trường
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập các hoạt động mua bán, trao đổi diễn ra đều
tuân thủ theo nguyên tắc, quy luật của thị trường. Nhà nước sử dụng các CCKT để khắc phục
những khiếm khuyết của thị trường do tính linh hoạt hơn so với các chính sách mệnh lệnh kiểm
sốt (CAC) mang tính truyền thống bởi một số lý do sau: (i) Các CCKT cho phép lồng ghép các
chi phí thiệt hại về mơi trường vào giá cả hàng hóa trên thị trường; (ii) Các CCKT khuyến khích
người tiêu dùng không tiêu thụ các sản phẩm gây thiệt hại đến mơi trường và khuyến khích các nhà
sản xuất khơng sử dụng các nguyên liệu gây ô nhiễm môi trường; (iii) Các CCKT khuyến khích
các nhà sản xuất, các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ mới, hạn chế tối đa chất thải đưa ra mơi
trường; (iv) Các CCKT góp phần tạo nguồn tài chính mới cho đầu tư vào các hoạt động BVMT,
khuyến khích tn thủ pháp luật mơi trường, hỗ trợ thực hiện các hoạt động khác trong phạm vi kế
hoạch phát triển của nhà nước; (v) Thể chế hóa các ngun tắc “Người gây ơ nhiễm mơi trường và

suy thối tài ngun phải trả chi phí khắc phục và tái tạo”; “Người sử dụng, hưởng lợi từ tài ngun
và mơi trường phải trả tiền” (BPP). Cùng với đó các cơ chế tài chính tạo động lực thị trường để
huy động sự tham gia của các thành phần xã hội vào công tác BVMT.
3. Các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường để chuyển đổi sang kinh tế xanh, kinh
tế tuần hoàn trên thế giới
3.1. Lịch sử phát triển và thực tiễn áp dụng
Từ năm 1970 khi các chính sách mơi trường mới được khởi xướng, giai đoạn đầu việc áp
dụng gặp nhiều khó khăn nhưng về sau ngày càng được công nhận, áp dụng phổ biến và đa dạng.
Đến nay phần lớn các nước trên thế giới có thể chế kinh tế tuần hồn (KTTT) đã sử dụng CCKT, cơ
chế dựa vào thị trường để quản lý mơi trường đem lại hiệu quả. Điển hình như các nước Bắc Mỹ:
Mỹ, Canada; Các nước châu Âu: Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Na Uy, CHLB Đức, Pháp,...;
Các nước Đông Bắc Á: Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước Australia, New Zealand,... Đã có trên 150
loại cơng cụ được áp dụng ở châu Âu và châu Á, trong đó có 10 loại cơng cụ được sử dụng phổ
biến ở các nước trên thế giới [4, 5]. Ở khu vực châu Á, việc áp dụng các CCKT trong lĩnh vực
môi trường được áp dụng đa dạng cho các mục đích BVMT khác nhau, phụ thuộc vào thể chế, đặc
trưng của mỗi nước (Bảng 1). Qua đó cho thấy, các CCKT, đặc biệt là thuế, phí, lệ phí và trợ cấp
được sử dụng khá phổ biến.

Thương mại giấy phép
Thuế, phí và lệ phí
Trợ cấp
Chính sách hỗn hợp
Cung cấp thơng tin, nhãn mác và các thỏa thuận tự nguyện
Thương mại giấy phép
Thuế, phí và lệ phí

Thái Lan
Mơng Cổ
Việt Nam
Lào

Ma Cao
Nepal
Philippines

Đài Bắc

Cơng cụ kinh tế

Bangladesh
Ấn Độ
Trung Quốc
Malaysia

Bảng 1. Sử dụng các CCKT ở một số quốc gia ở châu Á

Giảm chất thải tại nguồn
x x x
x
x

x x x x
x

x

x
Thu gom chất thải

x


x

x

Hội thảo Quốc gia 2022

177


Trợ cấp
Chính sách hỗn hợp
Cung cấp thơng tin, nhãn mác và các thỏa thuận tự nguyện
Thương mại giấy phép
Thuế, phí và lệ phí
Trợ cấp
Chính sách hỗn hợp
Cung cấp thơng tin, nhãn mác và các thỏa thuận tự nguyện

Thái Lan
Mông Cổ
Việt Nam
Lào
Ma Cao
Nepal
Philippines

Đài Bắc

Bangladesh
Ấn Độ

Trung Quốc
Malaysia

Công cụ kinh tế

x x x
x
x x x
x
x
Xử lý chất thải
x x
x x x x x
x x x x x
x x
x
x
x
x

x

x

x

Nguồn: ADB, 2018

3.2. Đổi mới công cụ kinh tế nhằm điều chỉnh hành vi sản xuất, tiêu dùng thúc đẩy
chuyển đổi sang kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn

Để điều chỉnh hành vi người sản xuất, người tiêu dùng theo hướng phát triển kinh tế xanh,
tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện cải cách hệ thống
thuế/phí và ngân sách theo hướng chuyển đổi từ các loại thuế truyền thống sang thuế/phí mơi
trường để đạt được đa mục tiêu như giảm nghèo, tăng thu cho ngân sách, nâng cao hiệu quả sinh
thái, cải thiện sức khoẻ cộng đồng, cải thiện chất lượng môi trường, phát triển hệ thống cơ sở hạ
tầng bền vững (Hình 2).

Hình 2: Vai trị tái cơ cấu của thuế/phí mơi trường và cải cách ngân sách trong điều chỉnh
hành vi thực hiện kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn [6]
178

Hội thảo Quốc gia 2022


4. Một số cơng cụ kinh tế, chính sách và nguồn lực mới trong Luật Bảo vệ môi trường
năm 2020
Luật BVMT số 72/QH14 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa
XIV thơng qua tại Kỳ họp thứ 10 năm 2020 với sự đổi mới toàn diện về cấu trúc, nguyên tắc, nội
dung của các quy định về BVMT. Các quy định được ban hành đã thể chế hóa tồn diện, thống nhất
và phù hợp với các phương hướng, nhiệm vụ đã được đặt ra trong các văn kiện của Trung ương,
phù hợp với xu hướng áp dụng trên thế giới và thực tiễn trong nước. Đặc biệt, với những quy định
trong Luật cho thấy BVMT đã được đặt ở vị trí trung tâm của các quyết định phát triển như: Kết
luận số 56-KL/TW ngày 23 tháng 8 năm 2019 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết
trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên
và BVMT”. Một trong những điểm đổi mới của Luật là đã bổ sung Chương 11 với các quy định
về CCKT, chính sách và nguồn lực cho BVMT với nhiều cơng cụ, chính sách mới được kỳ vọng
sẽ góp phần thực hiện thành cơng mục tiêu BVMT, phát triển bền vững trong giai đoạn tiếp theo
của đất nước.
Các CCKT, chính sách và nguồn lực cho BVMT được sử dụng hướng đến điều chỉnh hành vi
của các chủ thể trong nền kinh tế theo hướng thân thiện với môi trường, thực hiện các nguyên tắc

“Người gây ô nhiễm phải trả tiền”, “Người hưởng lợi, sử dụng các giá trị mơi trường phải trả phí”;
BVMT khơng chỉ là trách nhiệm mà còn là một cơ hội để phát triển những thị trường mới, tạo ra
việc làm cho xã hội, nhiều nguồn lực thơng qua các chính sách thúc đẩy xã hội hóa sẽ được hình
thành góp phần định hướng dòng đầu tư, tiêu dùng theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Do
vậy, với một chương riêng (Chương 11) về CCKT, chính sách và nguồn lực BVMT đã khẳng định
cách tiếp cận mới.
Chương 11 với 3 nhóm nội dung chính lần lượt gồm: (i) CCKT cho BVMT với những quy
định về chính sách thuế, phí về BVMT, ký quỹ BVMT, chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên, tổ chức
và phát triển thị trường carbon, bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sự cố mơi trường; (ii)
Quy định về chính sách ưu đãi, hỗ trợ về BVMT, kinh tế tuần hoàn, phát triển ngành công nghiệp
môi trường, phát triển dịch vụ môi trường, sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường, mua sắm
xanh, khai thác, sử dụng và phát triển vốn tự nhiên; (iii) Về nguồn lực về BVMT với các quy định
về nguồn của Nhà nước, nguồn của chủ dự án đầu tư, cơ sở, tín dụng xanh, trái phiếu xanh, quỹ
BVMT, quy định liên quan đến nghiên cứu khoa học, phát triển cơng nghệ, ứng dụng chuyển giao
cơng nghệ về BVMT. Nhìn chung, trong Chương 11 có những quy định mới, có những quy định
được bổ sung, chỉnh sửa phù hợp hơn với thực tiễn. Bên cạnh những kỳ vọng tích cực mang lại thì
những CCKT, chính sách và nguồn lực trong Luật sẽ có tác động đến các hoạt động kinh tế - xã hội
cần phải được xem xét, việc đưa các quy định đó vào thực tiễn cuộc sống cần tiếp tục được hồn
thiện với lộ trình, giải pháp cụ thể.
Một là, thuế, phí BVMT là hai CCKT phổ biến trên thế giới, đã được quy định trong pháp
luật của Việt Nam nhưng thực tiễn chưa phát huy được vai trò điều chỉnh hành vi người sản xuất,
tiêu dùng theo hướng có lợi cho mơi trường, thực hiện ngun tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
(PBP). Nguyên nhân do đối tượng, phương pháp tính và mức thuế/phí chưa phản ánh đúng bản
chất, thông lệ quốc tế, điều kiện về công nghệ. Luật đã sung thêm đối tượng chịu thuế là chất ô
nhiễm môi trường, bổ sung quy định về trách nhiệm của Bộ, ngành trong việc phối hợp để trình
Chính phủ chi tiết về đối tượng chịu thuế, phương pháp tính thuế, khung thuế, mức thuế phù hợp.
Với đối tượng chịu thuế được mở rộng hơn so với Luật Thuế BVMT là chất ô nhiễm môi trường,
không chỉ phù hợp về khoa học, kinh nghiệm quốc tế mà còn thực hiện chủ trương của Đảng về cơ
Hội thảo Quốc gia 2022


179


cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an tồn, bền vững.
Do vậy, để thuế BVMT có tác dụng điều chỉnh hành vi của đối tượng gây ô nhiễm việc đánh thuế
không chỉ dựa trên khối lượng sản phẩm, hàng hóa như hiện nay mà cần áp dụng vào chất thải gây
ô nhiễm. Theo quy định trong Luật về ngắn hạn các quy định về thuế, phí BVMT khơng bị ảnh
hưởng nhưng về dài hạn khi điều kiện về công nghệ, năng lực tổ chức, quản lý đáp ứng yêu cầu
Việt Nam có thể chuyển đổi một số loại thuế áp dụng trên sản phẩm, hàng hóa sang thuế dựa trên
lượng gây ô nhiễm như bài học của Trung Quốc năm 2018, hướng đến phát huy vai trò điều chỉnh
hành vi, thúc đẩy đổi mới công nghệ, thay đổi trong tiêu dùng của người sản xuất, người tiêu dùng
theo hướng thân thiện với môi trường.
Hai là, ký quỹ BVMT được bổ sung thêm đối tượng phải thực hiện là các tổ chức, cá nhân
thực hiện các hoạt động chôn lấp chất thải và nhập khẩu phế liệu từ nước ngoài làm nguyên liệu
sản xuất. Ký quỹ là công cụ được áp dụng phổ biến trên thế giới để bảo đảm các tổ chức, cá nhân
chịu trách nhiệm phục hồi môi trường, xử lý rủi ro, nguy cơ ô nhiễm môi trường phát sinh. Do vậy,
việc ban hành quy định này là phù hợp, có tác động tích cực về mặt thực hiện mục tiêu BVMT,
nâng cao hiệu quả, bền vững sử dụng tài ngun, giảm nguy cơ suy thối mơi trường, góp phần
loại bỏ những dự án, chủ đầu tư không đủ năng lực thực thi trách nhiệm BVMT, không tạo ra chi
phí phát sinh mới.
Ba là, chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên là một chính sách mới. Bài học thành cơng từ
chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng trong pháp luật Lâm nghiệp cho thấy việc áp dụng
chính sách này là phù hợp với nguyên tắc “Người hưởng lợi/sử dụng các giá trị của mơi trường
phải trả phí”, góp phần đảm bảo cơng bằng trong tiếp cận các nguồn lực do thiên nhiên ban tặng
cho các quốc gia, vùng, miền; Tạo ra nguồn lực để thúc đẩy bảo tồn, phục hồi và phát triển các hệ
sinh thái. Do vậy, Luật mới đã có quy định về chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên. Trong đó, đối
với hệ sinh thái rừng được thống nhất áp dụng theo quy định về chi trả dịch vụ môi trường rừng
theo pháp luật Lâm nghiệp, mở rộng đối với một số loại dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên có tiềm năng
áp dụng khác gồm đất ngập nước, hệ sinh thái biển, hệ sinh thái núi đá, hang động và công viên
địa chất. Như vậy, quy định trong Luật khơng trùng lặp, đúng bản chất, góp phần tạo ra nguồn lực

tài chính bền vững để bảo tồn, phục hồi hệ sinh thái tự nhiên, thực hiện nguyên tắc “Người hưởng
lợi/sử dụng tài nguyên phải trả phí”.
5. Sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường ở Việt Nam
5.1. Chủ trương, chính sách
Quan điểm về áp dụng CCKT trong quản lý môi trường đã sớm được Trung ương đề cập
trong nhiều văn bản như: Định hướng về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa [7]; Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT
[8]; Cơ cấu lại ngân sách, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính an tồn, bền vững [9]; Một
số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mơ hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng
tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế [10]; Hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa [11],... Bên cạnh đó, một số chiến lược quốc gia được ban
hành thời gian qua cũng đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp phát huy vai trị của các CCKT trong quản
lý mơi trường như: Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020; Chiến lược
BVMT quốc gia; Chiến lược tăng trưởng xanh; Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu,…
5.2. Kết quả đạt được
Trong thực tiễn, pháp luật về môi trường hiện hành đã và đang triển khai các CCKT như:
Thuế, phí BVMT; Ký quỹ cải tạo, phục hồi mơi trường trong khai thác khống sản; Ký quỹ nhập
180

Hội thảo Quốc gia 2022


khẩu phế liệu; Nhãn sinh thái, mua sắm công xanh; Quỹ BVMT, các cơ chế phát triển sạch, cơ chế
tín chỉ chung trong giảm nhẹ phát thải khí nhà kính,... Qua rà sốt, đánh giá áp dụng các CCKT,
có thể nhận thấy: (i) Thuế, phí, lệ phí, chi trả dịch vụ môi trường,… Không chỉ là công cụ bảo đảm
nguồn thu cho ngân sách; (ii) CCKT Ở các lĩnh vực BVMT đã được hoàn thiện theo hướng ngày
càng phù hợp, đúng bản chất hơn của kinh tế thị trường cũng như thực thi các nguyên tắc về người
gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP) và người hưởng lợi, sử dụng giá trị mơi trường phải trả phí (BPP)
trong BVMT; (iii) Các chính sách ưu đãi đã được quy định rõ trong các văn bản và triển khai trên
thực tiễn đã góp phần huy động sự tham gia của doanh nghiệp, người dân và các tổ chức trong

BVMT và ứng phó với biến đổi khí hậu; (iv) Thu - chi ngân sách nhà nước đối với các hoạt động
BVMT từng bước được đổi mới, hoàn thiện và đa dạng hơn.
Một số kết quả thực tiễn trong sử dụng các CCKT trong quản lý môi trường ở Việt Nam
như sau:
- Thuế môi trường: Hàng năm Việt Nam thu được một khoản thu ngân sách khá lớn từ Thuế
BVMT. Mức thu thuế và tỷ lệ thu thuế BVMT trên tổng thu ngân sách được chỉ ra ở Hình 3. Như
vậy, mức thu thuế BVMT dao động trong khoảng 10.521 tỷ đến 12.676 tỷ đồng trong giai đoạn
2010 - 2014 và có sự tăng mạnh đột biến kể từ năm 2015. Mức thu thuế BVMT tăng liên tục trong
giai đoạn 2015 - 2019 (chiếm tỷ trọng khá trong tổng thu ngân sách nhà nước), tuy nhiên có thể lý
giải là do sự thay đổi thuế suất dẫn tới mức tăng mạnh này, sau đó mức tăng được cho rằng sẽ ổn
định hơn. Kết quả thu thuế BVMT đảm bảo việc tổ chức quản lý thu thuế BVMT đang theo đúng
định hướng Chiến lược cải cách thuế đến năm 2020.

Hình 3: Tình hình thu thuế bảo vệ môi trường giai đoạn 2010 - 2020 [9]
- Phí, lệ phí mơi trường: Theo tính tốn từ Bộ Tài chính, số thu phí BVMT đối với khai thác
khống sản hàng năm đã góp phần tích cực để địa phương bổ sung nguồn đầu tư cho BVMT tại nơi
khai thác. Cụ thể, số thu phí năm 2017 là 3.029 tỷ đồng; Năm 2018 là 3.448 tỷ đồng; Năm 2019 là
3.737 tỷ đồng; Năm 2020 là 3.576 tỷ đồng [10]. Phí BVMT đối với khai thác khống sản, khơng kể
dầu thơ và khí thiên nhiên, khí than là khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100 %, được quản
lý và sử dụng theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Phí BVMT đối với dầu thơ, khí thiên
nhiên, khí than là khoản thu ngân sách Trung ương hưởng 100 % được quản lý, sử dụng theo quy
định của Luật Ngân sách nhà nước.
- Quỹ BVMT: Về những hỗ trợ, ưu đãi trong lĩnh vực môi trường, hiện nay, Việt Nam đã hình
thành được hệ thống các quỹ BVMT từ Trung ương đến địa phương với 01 Quỹ BVMT Việt Nam
(trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường) và 46 Quỹ BVMT của các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương nhằm hỗ trợ nguồn vốn đầu tư cho hoạt động BVMT thông qua hỗ trợ vay ưu đãi,
vay vốn dài hạn với lãi suất thấp hơn lãi suất hiện hành trên thị trường, tài trợ khơng hồn lại,…
Hội thảo Quốc gia 2022

181



Với tổng nguồn vốn hoạt động đạt hơn 3.000 tỷ đồng. Tính đến năm 2019, Quỹ đã cho vay 293
dự án; Tài trợ cho 68 dự án và hoạt động BVMT; Hỗ trợ giá điện gió nối lưới cho 05 dự án; Hỗ
trợ hoạt động và dự án Cơ chế phát triển sạch (CDM); Trợ giá sản phẩm CDM; Thu lệ phí bán/
chuyển chứng chỉ giảm phát thải khí nhà kính được chứng nhận (CERs); Vận động tài trợ và chi
hỗ trợ từ nguồn vận động tài trợ. Năm 2020, Quỹ đã thực hiện cho vay 338.519 triệu đồng, đạt
98 % chỉ tiêu kế hoạch; Thu hồi vốn cho vay đạt 224.946 triệu đồng, đạt 104 % chỉ tiêu kế hoạch;
Thu lãi cho vay đạt 101 % chỉ tiêu kế hoạch. Công tác ký quỹ phục hồi trong khai thác khoáng sản
đạt 24,785 triệu đồng, đạt 124 % kế hoạch năm. Từ năm 2016 đến nay, Quỹ đã mở rộng lĩnh vực
ưu tiên cho vay từ 5 lên 8 lĩnh vực ưu tiên nhằm đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư BVMT cho nhiều đối
tượng khách hàng, đồng thời mở rộng phạm vi hỗ trợ tài chính. Theo đó, lãi suất hỗ trợ cho vay của
Quỹ cũng giảm dần từ 3,6 %/năm xuống còn 2,6 %/năm, các điều kiện về đảm bảo tiền vay, thời
gian vay, quy trình và các thủ tục cho vay cũng được điều chỉnh theo hướng tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp dễ tiếp cận với nguồn vốn ưu đãi. Năm 2021, Quỹ BVMT Việt Nam đã triển khai
chương trình cho vay ưu đãi, tài trợ. Theo đó, các doanh nghiệp có dự án BVMT được vay tối đa
70 % tổng mức đầu tư dự án, lãi suất cho vay từ 2,6 - 3,6 %/năm cố định trong suốt thời gian vay;
Thời gian vay tối đa 10 năm.
- Tín dụng xanh: Tín dụng xanh có thể hiểu là các khoản tín dụng được ngân hàng cấp cho
các dự án sản xuất kinh doanh “xanh” không gây rủi ro cho mơi trường, ứng phó với những thách
thức về mơi trường và xã hội. Tại Việt Nam, tín dụng xanh đã được triển khai trong những năm
gần đây nằm trong khuôn khổ chung về trách nhiệm đối với mơi trường và xã hội mang tính tồn
cầu. Theo số liệu của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, đến ngày 30/6/2022, dư nợ tín dụng đối với
các dự án xanh là hơn 474.000 tỷ đồng, chiếm 4,1 % tổng dự nợ toàn nền kinh tế, tăng 7,08 % so
với năm 2021, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp xanh (42 %), năng lượng tái tạo, năng
lượng sạch (47 %),… Tỷ trọng tín dụng xanh cũng tăng mạnh từ 1,5 % lên 4,1 % tổng dư nợ toàn
nền kinh tế [11]. Nếu so sánh với nhu cầu 30,6 tỷ USD tài chính xanh đến năm 2020, thì đây đã là
nguồn vốn trong nước đáng kể cho tăng trưởng xanh của Việt Nam. Việc xanh hố đáng kể dịng
tín dụng sẽ góp phần quyết định tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển
bền vững.

- Trái phiếu xanh: Năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1191/QĐTTg ngày 14/8/2017 phê duyệt lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017 - 2020, tầm
nhìn đến năm 2030, đây được coi là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động phát triển của thị
trường trái phiếu xanh ở Việt Nam. Trong thời gian qua, nhiều biện pháp hỗ trợ thị trường trái
phiếu xanh đã được các Bộ, ngành đồng loạt triển khai như: Hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện
công bố thông tin và minh bạch hóa các hoạt động về tài chính xanh; Khuyến khích các doanh
nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khốn thực hiện báo cáo tài chính, báo cáo thường niên đề
cập đến phát triển bền vững, phát triển xanh. Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) và Sở Giao
dịch chứng khốn Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) đã và đang tích cực xây dựng các biện pháp
để hiện thực hóa việc thu hút vốn đầu tư vào thị trường trái phiếu xanh Việt Nam. Đồng thời, Việt
Nam cũng chủ động phối hợp với một số tổ chức quốc tế phát hành thí điểm trái phiếu xanh. Đến
năm 2018, theo thống kê sơ bộ, Thành phố Hồ Chí Minh đã phát hành 3.000 tỷ đồng trái phiếu
xanh cho 34 dự án; Bà Rịa - Vũng Tàu phát hành 500 tỷ đồng trái phiếu xanh với kỳ hạn 5 năm
cho 8 dự án. Theo trang thông tin điện tử Tổng hợp của Ban Kinh tế Trung ương, tại Việt Nam, đến
đầu năm 2021, trái phiếu xanh có quy mô phát hành ở mức 284 triệu USD và phần lớn nguồn vốn
thu được từ phát hành trái phiếu được sử dụng cho năng lượng tái tạo - ngành chính được các bên
liên quan của Việt Nam quan tâm, cùng với ngành chất thải và nông nghiệp. Đến thời điểm hiện
tại, về cơ sở pháp lý, Chính phủ mới chỉ ban hành các văn bản mang tính định hướng, phát triển
182

Hội thảo Quốc gia 2022


chung cho thị trường vốn xanh mà chưa có những văn bản pháp lý hướng dẫn cụ thể về thị trường
trái phiếu xanh, đặc biệt là tiêu chí về trái phiếu xanh trong nước, cơ chế giám sát, quản lý sử dụng
nguồn vốn xanh huy động từ trái phiếu xanh, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan,…
5.3. Những vấn đề đặt ra
Bên cạnh những điểm ưu điểm, thành tựu ở trên thì vẫn tồn tại một số vấn đề đặt ra trong áp
dụng CCKT ở Việt Nam như sau: (i) Thuế BVMT vẫn tập trung chủ yếu tập trung vào mục tiêu
gia tăng nguồn thu cho ngân sách hơn là tạo điều chỉnh hành vi người sản xuất, người tiêu dùng
theo hướng thân thiện với môi trường; Đối tượng chịu thuế, mức thuế áp dụng chưa phù hợp, chưa

phản ánh đầy đủ chi phí thiệt hại biên để tăng hiệu quả của thuế; (ii) Phương pháp tính phí, mức
phí BVMT được áp dụng tương đối thấp, chưa bao hàm đầy đủ các chi phí cung cấp dịch vụ và
thiệt hại mơi trường; (iii) Các chính sách ưu đãi, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào
các hoạt động BVMT cịn thiếu rõ ràng, khó áp dụng, nên chưa tạo ra đột phá để huy động sự tham
gia của xã hội vào công tác BVMT; (iv) Một số công cụ như chứng nhận sản phẩm thân thiện môi
trường, ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường; Đặt cọc - hoàn trả đã được quy định nhưng triển khai
cịn bất cập; (v) Nhiều cơng cụ mới đã xuất hiện và được đánh giá có tiềm năng như tín dụng xanh,
trái phiếu xanh, tiêu dùng xanh, kinh tế tuần hoàn,… nhưng lại thiếu cơ sở pháp lý; (vi) Các CCKT
vẫn sử dụng độc lập mà chưa chú trọng đến việc phát huy đồng thời của nhiều công cụ chính sách
khác nhau, theo từng giai đoạn và chủ thể khác nhau của nền kinh tế.
6. Đề xuất giải pháp phát huy vai trị của các cơng cụ kinh tế trong quản lý môi trường
để thúc đẩy chuyển đổi sang kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam
Để phát huy được vai trò của các CCKT trong quản lý môi trường phù hợp với bối cảnh phát
triển kinh tế - xã hội giai đoạn tới, một số đề xuất như sau:
Thứ nhất, xây dựng lộ trình, giải pháp tổng thể áp dụng các CCKT ở Việt Nam phù hợp với
chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công đảm bảo nền tài chính quốc
gia an tồn, bền vững. Trong đó cần có lộ trình cụ thể chuyển đổi một số loại phí BVMT sang thuế
BVMT phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, điều kiện công nghệ, năng lực quản trị môi trường
của đất nước ở từng giai đoạn để phát huy sức mạnh của thuế. Cùng với đó, nghiên cứu đề xuất
hồn thiện hệ thống pháp luật khác có liên quan để đảm bảo tính đồng bộ, hiệu quả trong việc điều
chỉnh hành vi của các chủ thể trong nền kinh tế nhằm thúc đẩy chuyển đổi sang kinh tế xanh, kinh
tế tuần hoàn như hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật để tạo thuận lợi cho các hàng hóa,
sản phẩm và dịch vụ thân thiện mơi trường; Pháp luật về thuế giá trị gia tăng đối với các sản phẩm
tái chế, tái sử dụng, pháp luật về đầu tư để thúc đẩy mua sắm công xanh,…
Thứ hai, hoàn thiện và bổ sung các quy định về CCKT cụ thể đã được quy định trong pháp
luật BVMT phù hợp với thực tiễn để tạo động lực, thay đổi hành vi của tổ chức, cá nhân:
- Bổ sung, chỉnh sửa các CCKT đã có: (i) Xây dựng lộ trình chuyển đổi một số loại phí chất
thải sang thuế dựa vào chất thải và có lộ trình áp dụng thuế carbon đối với các ngành, lĩnh vực, cơ
sở phù hợp với điều kiện phát triển công nghệ, thông tin dữ liệu, nhân lực,… (ii) Áp dụng đồng
bộ cơ chế đặt cọc - hoàn trả linh hoạt, phù hợp với vòng đời, đặc trưng về phân phối của từng loại

sản phẩm; (iii) Mở rộng đối tượng áp dụng đối với ký quỹ phục hồi mơi trường như sản xuất hóa
chất độc hại; khai thác tài nguyên nước; các dự án tác động đến môi trường đất; (iv) Áp dụng chi
trả dịch vụ hệ sinh thái với một số hệ sinh thái có tiềm năng để đảm bảo cơng bằng, tạo nguồn lực
để duy trì, phục hồi và phát triển nguồn vốn tự nhiên; (v) Tăng cường hiệu quả thực tiễn công tác
tổ chức, kiểm tra, giám sát, chứng nhận việc cấp nhãn sinh thái.
- Bổ sung các CCKT mới có tiềm năng như: (i) Chính sách về tiêu dùng xanh, đặc biệt là chi
tiêu cơng xanh để khuyến khích phát triển thị trường các sản phẩm thân thiện môi trường; (ii) Tín
Hội thảo Quốc gia 2022

183


dụng xanh, trái phiếu xanh để phát triển loại hình các sản phẩm tài chính tiềm năng này góp phần
huy động nguồn lực, giảm thiểu rủi ro về môi trường từ ngay trong quá trình vay vốn của các dự
án, thúc đẩy đầu tư vào các hoạt động BVMT.
Thứ ba, ứng dụng mạnh thành tựu của cách mạng công nghiệp lần thứ 4, kỷ nguyên kinh tế
số vào trong công tác quản lý, quan trắc, giám sát, đánh giá, thu thập thông tin việc chấp hành các
quy định pháp luật về BVMT ở Việt Nam.
Thứ tư, kết hợp hiệu quả, đồng bộ trong sử dụng CCKT với các công cụ khác như thanh tra,
kiểm tra, xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật về BVMT.
Thứ năm, tăng cường liên kết, cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành, giữa Trung ương
và địa phương, các tổ chức chính trị xã hội trong xây dựng, thực thi, giám sát, đánh giá các chính
sách trong BVMT nhằm phát huy tính hiệu lực, hiệu quả trong điều chỉnh hành vi của các chủ thể
kinh tế theo hướng thân thiện với môi trường.
7. Kết luận
Để hiện thực hóa định hướng phát triển nhanh và bền vững thì tiếp cận chuyển đổi sang nền
kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là phù hợp nhất để giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế với mơi
trường trong bối cảnh của BĐKH. Trong đó, chuyển đổi hành vi của người sản xuất, người tiêu
dùng trong nền kinh tế đóng vai trị quan trọng để điều chỉnh hành vi theo hướng thân thiện với môi
trường, thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hồn. Sử dụng CCKT kết hợp với

các cơng cụ chính sách khác là giải pháp quan trọng để tạo ra các hiệu ứng tích cực cả về kinh tế xã hội và môi trường đồng thời phù hợp với chủ trương hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Do vậy, trong thời gian tới, trên cơ sở các quy định hiện
hành về CCKT, để có thể chuyển đổi theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế carbon
thấp và thực hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vững, cần tiếp tục nghiên cứu, xây dựng
lộ trình, giải pháp tổng thể áp dụng các CCKT phù hợp với cơ chế, chính sách phát triển ngành
kinh tế môi trường dựa trên tiếp cận dựa vào thị trường, tạo nguồn lực cho BVMT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Isao Endo (2018). Overview of the report on market - Based approaches to environmental management
in Asia. Sustainable development and climate change department Asian Development Bank.
[2]. Nguyễn Thế Chinh (2003). Giáo trình Kinh tế và Quản lý môi trường. Nxb. Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
[3]. Thomas Sterner (Đặng Minh Phương dịch) (2012). Cơng cụ chính sách cho quản lý tài ngun và mơi
trường. Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
[4]. OECD (2017). OECD Policy instruments for the environment. />[5]. Phùng Thanh Bình (2019). Cơng cụ kinh tế trong quản lý mơi trường. Thành phố Hồ Chí Minh. Tài liệu
Hội thảo góp ý cho dự thảo Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi, bổ sung.
[6]. UNESCAP (2008). Greening Growth in Asia and Pacific. UNESCAP.
[7]. Bộ Chính trị (2004). Bảo vệ mơi trường trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
[8]. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013). Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 13 tháng 6 năm 2013 về chủ
động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài ngun, bảo vệ mơi trường.
[9]. Bộ Chính trị (2016). Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại
ngân sách nhà nước, quản lý nợ cơng để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững.
[10]. Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (2016). Nghị quyết số 05/NQ-TW ngày 1/11/2016, Hội nghị
lần thứ tư về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mơ hình tăng trưởng, nâng cao chất
lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
[11]. Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (2017). Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017 tại Hội
nghị lần thứ 5 về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

BBT nhận bài: 26/9/2022; Chấp nhận đăng: 31/10/2022
184

Hội thảo Quốc gia 2022




×