Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Nghĩ về đào tạo bậc đại học ngành Tài nguyên và Môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.06 KB, 5 trang )

NGHĨ VỀ ĐÀO TẠO BẬC ĐẠI HỌC
NGÀNH TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
Đặng Hùng Võ1, Vũ Lệ Hà2
1
Hội Trắc địa, Bản đồ và Viễn thám Việt Nam
2
Trường Đại học Tài nguyên và Mơi trường Hà Nội
Tóm tắt
Nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với công nghệ cao là điều kiện duy nhất để tạo ra được
động lực mới cho phát triển kinh tế, nhất là để thoát “bẫy thu nhập trung bình” trở thành quốc gia
có thu nhập cao. Để có được nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với công nghệ cao, phải trông chờ
vào đổi mới của hệ thống đào tạo đại học ở nước ta. Đổi mới toàn diện và triệt để hệ thống đào tạo
đại học hiện nay đã là tâm điểm của Nghị quyết 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(Hội nghị 8 khóa XI). Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội được thành lập từ năm 2010
trên cơ sở trường Cao đẳng chuyên ngành, đến nay vừa tròn 12 năm tổ chức đào tạo ở bậc đại học.
Kinh nghiệm từ đào tạo cũng chưa nhiều, vậy nên khó có thể bình luận về phương pháp đào tạo, chỉ
có thể nhìn từ kinh nghiệm quốc tế và hoàn cảnh thực ở Việt Nam để đưa ra những nhận xét và từ
đó có thể từng bước rút ra những kết luận để thực hiện những đổi mới cần thiết. Bài viết này đưa ra
những bình luận và đề xuất một số định hướng đào tạo bậc đại học ngành tài nguyên và môi trường
nhằm bắt kịp xu hướng phát triển của thời đại khoa học cơng nghệ hiện đại.
Từ khố: Đào tạo nhân lực; Nhân lực ngành tài nguyên và môi trường; Đổi mới của hệ
thống đào tạo đại học.
Abstract
Thinking about university training in natural resources and environmental sector
High - quality human resources associated with high technology are considered as the only
condition that can help create new motivations for economic development, especially to escape
the “middle income trap” to become a high - income country. In order to have high - quality
human resources associated with high technology, we must rely on the innovation of the university
training system in our country. A comprehensive and radical renovation of the university training
system was the focal issue of the Communist Party Central Committee Resolution No 29-NQ/TW
(Conference 8, Term XI). Hanoi University of Natural Resources and Environment was created


based on upgrading a professional college. Until now, it has been 12 years since the time of the
University creation. With its short history, the University is not expected to have much experiences
in training, therefore, it is difficult to comments on its training methodology. In this context, it
is possible only to make comments based on the international experiences and actual situations
of Vietnam. Accordance with these comments, some conclusions can be drawn, step by step, to
implement necessary innovations. This article is to give comments on existing training program
and then to propose a number of training orientations for the natural resources and environment
to catch up with the developed trend of the era of modern science and technology.
Keywords: Human resource training; Human resources in the field of environmental
resources: Innovation of the university training system.
1. Mở đầu
Ở Việt Nam, các ngành chuyên môn thường được sắp xếp theo cấu trúc của bộ máy hành
chính. Có thể ví dụ cụ thể ngay trong ngành tài ngun mơi trường, trước đây bao gồm rất nhiều
340

Hội thảo Quốc gia 2022


ngành học tại các trường đại học chuyên ngành. Chi tiết hơn, có thể thấy ngành tài ngun, mơi
trường hiện giờ bao gồm khá nhiều ngành học theo phân loại quốc tế như quản lý đất đai, địa chất
học, quản lý khống sản, đại dương học, khí tượng học, thủy văn học, bảo vệ môi trường, tai biến
thiên nhiên, biến đổi khí hậu,...
Nói chung, các ngành này đã được quốc tế phân loại có một nhóm thuộc các ngành về
khoa học trái đất (Các ngành khoa học có gốc Geo) như trắc địa và bản đồ (Geodesia), địa chất
học (Geologia), đại dương học (Oceanography), khí tượng học (Meteorology), thủy văn học
(Hydrology); một nhóm ngành về quản lý các tài nguyên thiên nhiên như quản lý đất đai (Land
management), quản lý tài nguyên thiên nhiên (Natural resources management) và một nhóm ngành
về môi trường học (Environment), tai biến thiên nhiên (Natural disaster), biến đổi khí hậu (Climate
changes),...
Trên thực tế phát triển, có nhiều nước đã tách mơi trường và quản lý thành hai cơ quan quản

lý nhà nước khác biệt vì khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường là hai đối tượng quản lý có tính
ngược chiều nhau. Khai thác tài nguyên và phát triển công nghiệp làm hủy hoại mơi trường, cịn
để bảo vệ mơi trường cần giảm khai thác tài nguyên và phát triển các công nghiệp thân thiện môi
trường. Các ngành khoa học đều không thuộc hệ thống quản lý của Nhà nước mà được thành lập
riêng các viện nghiên cứu của Nhà nước.
Như vậy, trong một thời gian tới, liệu có xảy ra việc cấu trúc lại hệ thống quản lý của Chính
phủ ở Việt Nam hay không? và liệu hệ thống đào tạo đại học có thay đổi theo hay khơng? Như
kinh nghiệm của nhiều nước khác, để tạo dựng được một trường đại học có thương hiệu, người ta
phải tính đến đơn vị thời gian “trăm năm”. Việc thay đổi các trường đại học nhiều sẽ làm cho hệ
thống giáo dục thiếu ổn định.
Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội được nâng cấp thành trường Đại học từ
năm 2010 trên cơ sở là Trường Cao đẳng, đến nay vừa được tròn 12 năm trường tổ chức đào tạo
ở bậc đại học. Kinh nghiệm từ đào tạo cũng chưa nhiều, vậy nên khó có thể bình luận về phương
pháp đào tạo, chỉ có thể nhìn từ kinh nghiệm quốc tế và hoàn cảnh thực ở Việt Nam để đưa ra
những nhận xét để thử nghiệm và từ đó có thể từng bước rút ra những kết luận để thực hiện những
đổi mới cần thiết. Q trình phát triển cịn cần thêm thời gian để tiếp tục rút ra các kinh nghiệm.
2. Định hướng phương thức đào tạo liên ngành
Lĩnh vực tài nguyên và môi trường cũng là một lĩnh vực quan trọng trong quá trình phát triển
đất nước, cần thiết một ngành đào tạo đại học riêng không phải thay đổi gì trong tương lai. Mặt
khác, việc đào tạo mơi trường và khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên cũng là yếu tố mới,
đòi hỏi các cán bộ quản lý phải có trình độ cao hơn trước sự thay đổi nhận thức của con người về
phát triển.
Chúng ta đều biết rằng vào năm 1992, Hội nghị Thượng đỉnh toàn cầu về vấn đề môi trường
và phát triển bền vững đã được tổ chức tại Rio De Janeiro (Brasil). Tại đây, nguyên thủ các nước
đều có tiếng nói và đồng thuận với nhau rằng loài người cần phải thay đổi các biện pháp phát triển
sao cho vẫn phát triển mạnh nhưng phải bảo vệ được hành tinh của loài người. Từ Hội nghị này,
hàng loạt vấn đề mới được đặt ra trước loài người như phát triển bền vững, biến đổi khí hậu, phát
triển khơng phát thải, bảo vệ mơi trường, phát triển xanh và hàng loạt yếu tố mới (môn học mới)
được xem xét đưa vào đào tạo trong những ngành học cũ.
Mặt khác, Việt Nam là một nước có diện tích và dân số ngang với các quốc gia được coi là

cỡ trung bình trên thế giới. Ở mức độ này, cầu về nguồn nhân lực cho phát triển không phải là quá
Hội thảo Quốc gia 2022

341


cao, nhưng cũng không phải là quá thấp. Với các đất nước cỡ tương đương như Việt Nam, người
ta thường khơng lựa chọn mơ hình đào tạo thật chun sâu, vì như vậy sẽ khó sử dụng có hiệu quả
đầu ra của các trường đại học. Người ta thường lựa chọn mơ hình đào tạo rộng để có thể sử dụng
vào nhiều vị trí khác nhau trên thực tế.
Trên thực tế phát triển hiện nay, các ngành học đã mở rộng đến mức nhìn rõ phần giao nhau
giữa các ngành. Tác giả Đặng Hùng Võ của báo cáo này được mọi người biết đến với ý tưởng về
sự thành công dễ gặt hái trên ranh giới giữa các ngành khoa học (bài trả lời phỏng vấn Báo Nhân
dân cách đây 20 năm). Hiện nay, nhiều trường đại học lớn đã mở các ngành đào tạo liên ngành (Đại
học Quốc gia Hà Nội). Ngành liên ngành là một tư duy khác của việc khai thác miền ranh giới giữa
các khoa học. Cách đào tạo này phù hợp với các nước có diện tích và dân số cỡ trung bình như Việt
Nam. Người được đào tạo ra có thể tiếp nhận cơng việc ở nhiều nơi, hơn nữa dễ tạo ra các sáng tạo
khi các kiến thức của ngành này có thể giúp tìm ra giải pháp cho ngành khác.
Nếu đứng trên hệ quy chiếu của một ngành, cũng có thể xem xét việc đưa thêm kiến thức
của các ngành khác vào các môn do sinh viên lựa chọn hoặc các buổi nghe thuyết giảng (seminar)
bổ sung. Nói chung, khai thác phần ranh giới của các ngành là “miền đất hứa” cho sản xuất nguồn
nhân lực chất lượng cao.
Vậy câu hỏi được đặt ra là những liên ngành nào có thể được xem xét trong lĩnh vực tài
nguyên và môi trường? Theo những suy nghĩ đầu tiên, nhóm tác giả cho rằng có thể đặt vấn đề về
đào tạo các ngành học chuyên ngành dưới đây:
(1). Phát triển bền vững
Đây là một khoa học liên ngành được xuất hiện sau Hội nghị Thượng đỉnh tồn cầu về mơi
trường vào năm 1992. Khoa học này tập trung vào việc nghiên cứu bền vững xã hội và bền vững
mơi trường trong q trình thực hiện cơng nghiệp hóa và phát triển kỷ ngun thơng tin hậu công
nghiệp. Các vấn đề được xem xét gồm cả sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường, phải bảo đảm

việc đánh giá được các tác động xã hội và tác động môi trường của đầu tư phát triển. Rộng hơn,
nội dung phát triển bền vững cũng bao gồm lý thuyết phát triển xanh và phát triển thông minh.
(2). Biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu là một hiện tượng đã được chỉ ra từ 1992 tại Hội nghị Thượng đỉnh toàn
cầu về phát triển bền vững. Đến nay, các nghiên cứu chi tiết đã có nhiều nhưng từ thực tế cho thấy
“biến đổi khí hậu” đã đến nhanh hơn dự kiến của con người. Biến đổi khí hậu khơng chỉ làm thay
đổi các quy luật khí hậu thơng thường, mà cịn tạo ra những tai biến thiên nhiên ngày càng bất
thường và tác động mạnh mẽ hơn. Rõ ràng, “biến đổi khí hậu” là hệ quả của việc con người tàn
phá thiên nhiên quá nhiều phục vụ đầu tư phát triển. Đến giờ, con người phải nhận lại những hậu
quả khôn lường. Nội dung đào tạo của biến đổi khí hậu chỉ có phần nhỏ là lý thuyết về khí hậu học
và các tác động gây ra biến đổi khí hậu, cịn lại là các nghiên cứu về thiên tai và “nhân tai”, đều
do con người làm ra hoặc có tác động lớn tạo ra. Cuối cùng trong ngành học này là các biện pháp
đánh giá biến đổi khí hậu và giải pháp ứng phó.
(3). Quy hoạch phát triển
Đầu tư phát triển là nhu cầu chính đáng của con người, những đầu tư như thế nào để không
phát sinh ô nhiễm môi trường, tạo ra biến đổi khí hậu, gây thiếu bền vững,... Tất cả những vấn đề
đặt ra đều là những yêu cầu của quy hoạch phát triển và quy hoạch các không gian dân cư. Những
yếu tố mới xuất hiện đã tạo nên luồng tư duy mới cho công tác quy hoạch. Trước đây, quy hoạch
chỉ đơn thuần dựa vào các yếu tố gắn với các yếu tố địa lý như địa kinh tế, địa nhân văn, tiềm năng
342

Hội thảo Quốc gia 2022


tài chính,… để xem xét kịch bản phát triển. Hiện nay, bài tốn quy hoạch cịn phải quan tâm đến
tất cả các yếu tố mới xuất hiện như ô nhiễm môi trường, phát triển bền vững, đất đai và tài nguyên
thiên nhiên, tai biến thiên nhiên, biến đổi khí hậu. Tất nhiên, có hai loại quy hoạch là quy hoạch
phân vùng và quy hoạch điểm dân cư (quy hoạch đô thị và quy hoạch nơng thơn).
Ngồi những ví dụ nêu trên, chúng ta có thể suy nghĩ sâu để tìm ra và dự báo những liên
ngành sẽ được hình thành trong quá trình phát triển.

3. Đào tạo theo dự báo xu thế phát triển
Trong suốt gần chục năm gần đây, người ta hay nói về thời đại 4.0, được cụ thể hóa bằng
cơng nghệ trí tuệ nhân tạo (AI - Artificial Intelligence) và mạng kết nối vạn vật (IoT - Internet of
Things). Đây là một cách dự báo phát triển theo các giai đoạn phát triển công nghệ của diễn đàn
kinh tế thế giới. Nếu nói là sai thì chưa chính xác, nhưng có thể nói rằng đó là thiếu hợp lý vì cơng
nghệ khơng thể tự thân phát triển được mà cơng nghệ phát triển dựa vào trí tuệ của con người sao
cho công nghệ phục vụ mọi nhu cầu do con người đặt ra.
Chúng ta lưu ý trong thời gian từ trước 1970 cho tới 1990, nhà tương lai học người Mỹ Alvin
Toffer đã xuất bản 3 cuốn sách về dự báo cho kỷ nguyên hậu công nghiệp, đó là các cuốn sách (1)
Cú sốc tương lai (Future Shock - 1970); (2) Làn sóng thứ ba (The Third Wave - 1980) và (3) Thăng
trầm quyền lực (Power Shift - 1990).
Ba cuốn sách này nói rằng lồi người đã trải qua một thời kỳ khá dài phát triển dựa vào kinh
tế nông nghiệp, con người phát triển bằng lao động chân tay. Từng bước, con người đã phát minh
ra các máy móc cơ khí để thay thế lao động chân tay bằng máy móc. Đây là q trình thực hiện
cơng nghiệp hóa để tạo ra các sản phẩm cơng nghiệp có giá trị cao hơn các sản phẩm nơng nghiệp.
Trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, các sản phẩm nơng nghiệp cũng có giá trị gia tăng cao hơn nhiều
so với cùng các nông sản ấy được sản xuất trong thời kỳ nơng nghiệp. Từ đó, Alvin Toffler đã dự
đốn rằng hết thời kỳ cơng nghiệp, máy móc thơng tin sẽ trợ giúp lao động trí óc của con người
và hình thành thời kỳ thơng tin, tạo nên giá trị gia tăng cao hơn cho cả sản phẩm công nghiệp và
nông nghiệp.
Hiện nay, yêu cầu phát triển thời kỳ thông tin được đặt ra vấn đề máy móc thơng tin phải
đóng vai trợ giúp phần lớn lao động trí óc của con người. Chính vì vậy mà người ta gọi là q trình
chuyển đổi số để phát triển thơng minh (Smart development). Lúc đó, mọi thứ trong khơng gian
con người đang sinh sống đều được dựng thành mơ hình số, kể cả mọi hoạt động của con người, để
các máy móc xử lý thơng tin sẽ giúp con người quy hoạch phát triển và ra các quyết định.
Tất nhiên, bên cạnh triết lý phát triển thông minh, con người vẫn phải giữ nguyên triết lý phát
triển xanh để bảo vệ hành tinh Trái đất.
Đến nay, dự báo phát triển của lồi người như nói trên đã được thế giới cơng nhận là đúng.
Ở Việt Nam, tiến trình phát triển có chậm hơn các nước công nghiệp trên thế giới. Việt Nam mới
đang thực hiện quá trình chuyển đổi số và quảng bá các triết lý phát triển xanh và phát triển thơng

minh để đi đúng hướng.
Trong q trình phát triển, các nước cơng nghiệp mới (Cơng nghiệp hóa thành cơng) đã rút
ra kinh nghiệm rằng q trình cơng nghiệp hóa chỉ có thể thành cơng khi biết dựa vào nguồn nhân
lực chất lượng cao gắn với công nghệ, không thể dựa vào sự giàu có của tài nguyên thiên nhiên.
Điều này đã thấy rõ cơng nghiệp hóa đã thành cơng tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore,
Hồng Kông,… là những nơi hầu như khơng có tài ngun thiên nhiên. Những thực tế phát triển
này hoàn toàn phù hợp với dự báo của Alvin Toffer.
Hội thảo Quốc gia 2022

343


Như vậy, q trình cơng nghiệp hóa ở mỗi quốc gia đều phải dựa vào chất lượng sản phẩm
đào tạo ra của hệ thống các trường đại học. Nói cách khác, các trường đại học phải đổi mới phương
thức đào tạo để con người mình đào tạo ra là phù hợp với xu hướng phát triển đang và sẽ cần trên
thực tế. Nói cụ thể hơn, nội dung đào tạo phải ln mới, gắn với sự địi hỏi của thực tế phát triển
hiện nay và ngày mai.
Nói cụ thể hơn, nội dung đào tạo của khá nhiều ngành tại các trường đại học chuyên ngành,
trong đó có Đại học Tài nguyên và Môi trường bổ sung nhanh các nội dung học về kỷ ngun
thơng tin, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, mạng kết nối vạn vật, phát triển thông minh. Đây là cách
thức duy nhất để cơ sở đào tạo đứng vững trên thị trường nhờ đầu ra của mình hữu dụng trong quá
trình phát triển.
Trên thế giới hiện nay, khơng có trường đại học nào được đứng n vì đứng yên sẽ bị quá
trình phát triển loại bỏ. Trong các trường đại học, hình thức phát triển tốt nhất là định hướng phát
triển thông qua các seminar khoa học, từ đó có thể thay nhiều mơn học đã cũ bằng các mơn học
mới.
4. Hình thức đào tạo gắn với sự phát triển hàng ngày
Về thực chất, trình độ đại học chỉ yêu cầu có kiến thức nền tảng thật tốt để biết tìm nguồn
sách vở viết về một vấn đề thực tế đang quan tâm. Người tốt nghiệp trình độ đại học chưa yêu cầu
những nghiên cứu sâu, chỉ cần biết kết nối những kiến thức mình thu nhận ở trường với thực tế

cuộc sống. Như vậy, việc đào tạo ở trường không được phát triển theo hướng nhồi nhét kiến thức
cho người học mà người đó khơng biết cuộc sống bên ngoài đang diễn ra như thế nào.
Đây không phải là những vấn đề mới mà đã trở thành nguyên tắc đào tạo đại học trên thế
giới. Ở Việt Nam, nhiều trường đại học vẫn rơi vào tình trạng dạy sinh viên những gì giáo viên
biết, chứ khơng phải giáo viên dạy sinh viên những gì sinh viên cần phải biết. Mặt khác, hoạt động
của các trường đại học khơng thể tự mình đóng kín, cần kết nối chặt chẽ giữa hoạt động đào tạo
đại học với nhu cầu thực tế ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Giáo viên cũng phải từng bước
trao cho sinh viên tính chủ động giải quyết nhiều vấn đề thực tế.
5. Kết luận
Theo các Nghị quyết của Đảng, hơn 20 năm tới Việt Nam phải trở thành nước cơng nghiệp
có thu nhập cao. Điều này có nghĩa là Việt Nam phải vượt qua “bẫy thu nhập trung bình” càng sớm
càng tốt. Thế giới vẫn cho rằng “vượt bẫy thu nhập trung bình” khơng hề dễ dàng, cần phải tạo ra
được những động lực mới để có được những sản phẩm mới mang đặc thù riêng. Nguồn nhân lực
chất lượng cao gắn với công nghệ cao là điều kiện duy nhất để tạo ra được động lực mới. Để có
được nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với công nghệ cao, phải trông chờ vào đổi mới của hệ
thống đào tạo đại học ở nước ta. Chúng ta cần đổi mới toàn diện và triệt để hệ thống đào tạo đại
học nước ta.
BBT nhận bài: 30/6/2022; Chấp nhận đăng: 31/10/2022

344

Hội thảo Quốc gia 2022



×