Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

TÌM HIỂU VỀ CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM CỦA TỔ QUỐC. TỪ ĐÓ RÚT RA BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG LĨNH VỰC ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.33 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KHÁCH SẠN - DU LỊCH

------

BÁO CÁO HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU VỀ CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM CỦA TỔ
QUỐC. TỪ ĐÓ RÚT RA BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG LĨNH VỰC ĐỐI
NGOẠI CỦA VIỆT NAM

Nhóm thực hiện

:

Nhóm 8

Giảng viên hướng dẫn :
Mã lớp học phần

:

2260HCMI0131

Hà Nội - 2022


MỤC LỤC


3
LỜI MỞ ĐẦU


Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân Việt
Nam và nhân dân Campuchia có chung khát vọng được sống trong hịa bình, độc lập,
tự do để hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh,
thịnh vượng. Thế nhưng ngay sau khi lên cầm quyền ở Campuchia vào tháng 4-1975,
tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary đã phản bội lại nhân dân Campuchia, phản bội lợi ích dân
tộc, thâu tóm quyền lực, tước đoạt mọi thành quả cách mạng, thi hành hàng loạt chính
sách đối nội, đối ngoại cực kỳ phản động, hiếu chiến và tàn bạo. Ở trong nước, chúng
tước đoạt quyền tự do, dân chủ của nhân dân, biến họ thành những người nô lệ; thi
hành chính sách diệt chủng đối với trí thức, tơn giáo, người dân tộc thiểu số, Việt kiều
và đảng viên, công chức, binh lính khơng đi theo đường lối phản động của chúng...
Trong thời gian Pol Pot cầm quyền, chúng đã giết hại hàng triệu người vô tội, đặt dân
tộc Campuchia bên bờ diệt vong và đe dọa nghiêm trọng an ninh của các nước trên
bán đảo Đông Dương. Đất nước Campuchia xinh đẹp trở thành đống đổ nát, hoang
tàn, biệt lập, chết chóc và đau thương. Khơng những thế, chúng còn lăm le đe dọa xâm
lược biên giới Việt Nam một cách đầy thơ bạo, khiểu khích.
Tuy nước ta kiên trì chủ trương xây dựng đường biên giới hịa bình, hữu nghị,
tìm cách cứu vãn hịa bình, nhiều lần đề nghị đàm phán với Chính phủ Campuchia Dân
chủ nhằm giải quyết những bất đồng. Song, tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary khơng những
cự tuyệt, khước từ mọi thiện chí của ta mà còn đẩy mạnh hoạt động chống phá, xâm
lược Việt Nam. Được nước ngồi hỗ trợ về vũ khí, trang bị và cố vấn quân sự, tập
đoàn Pol Pot-Ieng Sary ráo riết chuẩn bị chiến tranh. Cuối năm 1978, chúng huy động
10 sư đồn cùng vũ khí, trang bị, kỹ thuật về biên giới Tây Nam Việt Nam, chuẩn bị
cho cuộc tổng tiến công xâm lược, đe dọa chủ quyền lãnh thổ nước ta.
Việt Nam giờ đây đứng trước 2 nhiệm vụ to lớn: hoàn thành nhiệm vụ chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc, giữ vững biên cương và chủ quyền quốc gia lãnh thổ, bảo vệ
vững chắc đất đai và cuộc sống hịa bình cho nhân dân vùng biên giới Tây Nam, lập lại
sự ổn định và trật tự vùng biên giới; đồng thời cứu thoát nhân dân Campuchia khỏi
thảm họa diệt chủng, giúp bạn gây dựng lại lực lượng cách mạng, khép lại trang sử
đen tối, đau thương của dân tộc Campuchia, mở ra quá trình giúp bạn làm lại cuộc
cách mạng, thực hiện công cuộc hồi sinh dân tộc và phát triển đất nước Campuchia.



4
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA CHIẾN TRANH
BIÊN GIỚI TÂY NAM
1.1. Bối cảnh lịch sử
Tập đoàn Pôn Pốt đã phản bội lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân
Campuchia và phá hoại truyền thống đoàn kết, hữu nghị của nhân dân hai nước Việt
Nam – Campuchia, thực hiện chính sách diệt chủng ở Campuchia và xâm lược biên
giới Tây Nam của Việt Nam
Từ lâu, nhân dân Việt Nam – Campuchia đã xây dựng tình hữu nghị, đoàn kết
cùng chống kẻ thù chung, đặc biệt đã kề vai sát cánh trong hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược để giành độc lập, tự do cho dân tộc. Tuy
nhiên, do bị các thế lực phản động, thù địch nước ngồi kích động, lợi dụng, từ những
năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ (1970 -1975), quân Pôn Pốt đã tiến hành một số
vụ bắt cóc, giết hại cán bộ, bộ đội Việt Nam hoạt động ở chiến trường Campuchia,
đồng thời gây chia rẽ nội bộ những người cộng sản Campuchia. Chỉ tính riêng 6 tháng
đầu năm 1973, quân Pôn Pốt gây ra 102 vụ, sát hại và làm bị thương 103 bộ đội Việt
Nam, cướp hàng chục tấn lương thực và vũ khí.
Thực hiện âm mưu chiến lược phá hoại mối quan hệ liên minh đoàn kết chiến
đấu giữa 3 nước Campuchia - Việt Nam - Lào nói chung và giữa hai nước Việt Nam Campuchia nói riêng; tháng 4/1975, sau khi lên nắm quyền, tập đồn Pơn Pốt đã phản
bội lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân Campuchia và phá hoại truyền thống đoàn
kết, hữu nghị của nhân dân hai nước, thực hiện chính sách diệt chủng ở Campuchia và
xâm lược biên giới Tây Nam của Việt Nam, cụ thể:
+ Ở trong nước, chúng phạm sai lầm đặc biệt nghiêm trọng, thực thi chính
sách diệt chủng tàn khốc, cưỡng bức lao động khổ sai, tra tấn hành hạ dã man người
dân Campuchia; biến trường học, nhà chùa thành nhà tù, khắp mọi nơi đầy những hố
chôn người tập thể,… Chỉ trong 3 năm 8 tháng và 20 ngày, (từ tháng 4 năm 1975 đến
cuối năm 1978), chế độ Pôn Pốt đã giết hại gần 3 triệu người dân Campuchia vơ tội,
xóa bỏ mọi cơ sở xã hội, xóa bỏ thành thị, xóa bỏ sản xuất cơng nghiệp và thủ cơng

nghiệp, xóa bỏ quan hệ tiền tệ, buôn bán và đẩy Campuchia đứng trước thảm họa diệt
vong. Chế độ hà khắc ban hành đã trùm lên đất nước Campuchia đau
thương: “Không tự do đi lại, không tự do hội họp, không tự do ngôn luận, không tự do
tín ngưỡng, khơng tự do học hành, khơng tự do hôn nhân, không bệnh viện, không tiêu
tiền, không buôn bán, không chùa chiền... và không cả nước mắt để khóc trước cảnh
đau thương của dân tộc. Chỉ cịn căm thù và uất hận”.
+ Đối với Việt Nam, được các thế lực phản động nước ngoài hậu thuẫn, tập
đoàn phản động Pơn Pốt chủ trương phá nát mối quan hệ đồn kết, hữu nghị truyền
thống lâu đời giữa Việt Nam và Campuchia; ra sức vu khống Việt Nam, kích động tư


5
tưởng dân tộc hẹp hịi; kích động xét lại quan hệ hai nước, đòi hoạch định lại biên giới
Việt Nam - Campuchia, vô cớ coi Việt Nam là kẻ thù số 1 và tiến hành hàng loạt
những cuộc xâm lấn biên giới, giết hại dân thường.
Tháng 01/1976, Đại hội lần thứ IV của Đảng Cộng sản Campuchia (do Pôn Pốt
làm Bí thư) xác định: “Tai họa nhất cần phải chú ý là Việt Nam…”. Trong thời gian
này, được sự giúp đỡ từ bên ngồi, Pơn Pốt càng đẩy mạnh các hoạt động quân sự phá
hoại ta ở vùng biên giới Tây Nam. Cuối tháng 2 đầu tháng 3 năm 1976, qn Pơn Pốt
khiêu khích hai đồn biên phịng số 7 và số 8 ở Bu Prăng (Đắk Lắk). Cuối năm 1976,
chúng tăng cường các hoạt động khiêu khích, lấn chiếm ở vùng biên giới Tây Nam
nước ta. Trên địa bàn Quân khu 7, chúng gây ra 280 vụ khiêu khích, lấn chiếm 20
điểm trên biên giới. Ở địa bàn Quân khu 5 và Quân khu 9, các vụ xâm lấn ngày càng
tăng với tính chất ngày càng nghiêm trọng hơn.
Đi đơi với hành động xâm lược, tập đồn Pơn Pốt ra sức tun truyền, bơi nhọ
hình ảnh Việt Nam, kích động tâm lý chống Việt Nam, coi Việt Nam là “kẻ thù truyền
kiếp”, “kẻ thù số 1”. Lấy cớ làm sạch nội bộ, chúng tiến hành phân loại dân, thực hiện
nhiều cuộc thanh trừng đẫm máu, trong đó tập trung vào số cán bộ trước đây được đào
tạo ở Việt Nam.
Cùng với các hoạt động khiêu khích, xâm lược thơ bạo đến biên giới Tây Nam

của Việt Nam, trong 2 năm (từ 30/4/1975 đến 30/4/1977), Pôn Pốt đã ráo riết chuẩn bị
chiến tranh. Chúng phân chia lại đơn vị hành chính, tổ chức bộ máy chính quyền thơn,
xã, huyện, tỉnh theo kiểu quân sự, thanh trừng những người chống đối, kích động tâm
lý chống Việt Nam; xây dựng lực lượng, phát triển quân chủ lực từ 7 sư đoàn khi mới
giải phóng lên 12 sư đồn qn chính quy với đầy đủ thành phần binh chủng, hàng vạn
quân địa phương, trong đó điều động 41% quân số và trang thiết bị áp sát biên giới
Việt Nam. Trong hai tháng 3 và 4/1977, quân Pôn Pốt liên tiếp mở nhiều cuộc hành
quân diễn tập dọc biên giới với nước ta dưới danh nghĩa “phòng thủ khu vực”, “bảo
đảm an ninh nội địa”, nhưng thực chất đó là các cuộc điều quân ra biên giới. Pôn Pốt
tuyên bố: “Mâu thuẫn Việt Nam - Campuchia là mâu thuẫn chiến lược sống cịn,
khơng thể điều hịa được, cũng khơng thể giải quyết bằng thương lượng mà phải dùng
biện pháp quân sự”. Cuối tháng 4/1977, Pơn Pốt điều động 5 sư đồn và hàng trăm
khẩu pháo, xe tăng áp sát biên giới Việt Nam, thực hiện âm mưu xâm lược quy mô lớn
vào lãnh thổ vùng biên giới Tây Nam của nước ta.
Đêm ngày 30/4/1977, lợi dụng lúc quân và dân ta kỷ niệm hai năm ngày giải
phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất đất nước, tập đồn Pơn Pốt đã mở cuộc tiến
cơng trên tồn tuyến biên giới tỉnh An Giang, chính thức bắt đầu cuộc chiến tranh xâm
lược biên giới Tây Nam của Việt Nam.


6
1.2. Nguyên nhân
Sau chiến thắng năm 1975, nhân dân Việt Nam tha thiết mong muốn hịa bình
để khơi phục và phát triển đất nước. Chúng ta đã thực hiện chủ trương giảm quân
thường trực kể cả các quân khu ở phía Nam để tập trung cho nhiệm vụ hàn gắn vết
thương chiến tranh, khôi phục và xây dựng, phát triển đất nước.
+ Trước hành động khiêu khích, xâm phạm biên giới Tây Nam Việt Nam của
quân Pôn Pốt, Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán quan điểm mong muốn Việt Nam và
Campuchia đàm phán ký kết hiệp ước về biên giới giữa hai nước trên tinh thần tôn
trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tiếp tục phát triển tình đồn kết,

hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Chúng ta thực hiện nghiêm các thỏa thuận tại cuộc
gặp mặt đại diện Việt Nam và Campuchia tại Phnôm Pênh diễn ra vào tháng 4/1976.
+ Kiên trì chủ trương xây dựng đường biên giới hịa bình, hữu nghị với
Campuchia, Quân ủy Trung ương Đảng ta đã chỉ thị cho các quân khu, tỉnh có đường
biên giới với Campuchia tăng cường đoàn kết với nhân dân Campuchia, tránh mọi sự
khiêu khích. Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IV của Đảng, tháng 12/1976, Đảng,
Nhà nước Việt Nam tiếp tục khẳng định lập trường của mình: “Ra sức bảo vệ và phát
triển mối quan hệ đặc biệt giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào và Campuchia,
tăng cường tình đồn kết chiến đấu, lịng tin cậy, sự hợp tác lâu dài và sự giúp đỡ lẫn
nhau về mọi mặt giữa nước ta với hai nước anh em trên nguyên tắc hồn tồn bình
đẳng, tơn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của nhau; tơn trọng lợi ích của
nhau, làm cho ba nước vốn gắn bó với nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ
mãi mãi gắn bó với nhau trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, vì độc lập và
phồn vinh của mỗi nước”.
Bất chấp mọi nỗ lực ngoại giao hòa bình của Việt Nam, tập đồn Pơn Pốt ra sức
tun truyền xuyên tạc lịch sử, chủ động gây ra các vụ xung đột, lấn chiếm biên giới
Tây Nam Việt Nam; huy động phần lớn sức mạnh quân sự, hàng chục sư đoàn chủ lực
và nhiều trung đoàn địa phương tiến hành cuộc chiến tranh xâm chiếm biên giới Tây
Nam Việt Nam. Đi đến đâu, chúng tàn phá làng mạc, giết hại dã man người dân, kể cả
người già, phụ nữ, trẻ em Việt Nam.
Những hành động xâm lược và diệt chủng tàn bạo của tập đồn Pơn Pốt là
khơng thể dung tha. Đáp lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu
nước Campuchia, của nhân dân Campuchia, Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân
Việt Nam đã thực hiện quyền tự vệ chính đáng và thiêng liêng của mình để bảo vệ chủ
quyền, tồn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân; đồng
thời cùng với lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng,
giúp đỡ những người cách mạng chân chính Campuchia làm lại cuộc cách mạng đã bị
phản bội.



7
CHƯƠNG 2: DIỄN BIẾN, KẾT QUẢ, Ý NGHĨA CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN
GIỚI TÂY NAM
2.1. Diễn biến cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam
2.1.1. Giai đoạn 1 (từ ngày 30/4/1977 đến ngày 05/01/1978) của chiến tranh biên
giới Tây Nam
Mở đầu cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, Pôn Pốt tiến hành ba cuộc tiến
công quy mô lớn sang lãnh thổ Việt Nam.
Ngày 30/4/1977, chúng đánh vào 14 trong số 16 xã biên giới thuộc tỉnh An
Giang, tàn phá các bản làng, trường học, cơ sở sản xuất, những nơi đông dân cư ở sát
biên giới và sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Các cuộc tiến cơng và pháo kích của qn
Pơn Pốt đã khiến An Giang chìm trong bể máu. Tính đến ngày 19/5/1977, quân Pôn
Pốt đã giết chết 222 người và làm 614 người dân Việt Nam bị thương, phá nhiều nhà
cửa, tài sản của nhân dân….
Trước hành động xâm lược trắng trợn, giết dân thường dã man của quân Pơn
Pốt, các lực lượng biên phịng và dân qn, du kích các xã Vĩnh Xương, Vĩnh Gia,
Nhân Hưng… đã anh dũng chiến đấu, ngăn chặn địch. Quân đội Việt Nam đã sử dụng
1 trung đoàn (thuộc Sư đoàn 301), 1 trung đoàn tàu thuyền và 2 tiểu đoàn địa phương
An Giang đánh trả, diệt 300 tên, buộc quân Pôn Pốt rút về bên kia biên giới.
Ngày 23/5/1977, Quân ủy Trung ương ra chỉ thị cho lực lượng vũ trang ở phía
Nam: “Kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của ta, không dung thứ bất cứ sự xâm lấn
nào của lực lượng khiêu khích, phản động Campuchia vào lãnh thổ ta; đồng thời tôn
trọng chủ quyền lãnh thổ của Campuchia. Tìm mọi cách làm nhụt tinh thần của bọn
khiêu khích. Tuyên truyền vận động nhân dân bạn và tranh thủ sự đồng tình của dư
luận, tạo điều kiện ổn định một bước biên giới với Campuchia. Đập tan âm mưu chia
rẽ các nước anh em trên bán đảo Đông Dương”.
Thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương, các đơn vị Quân khu 5, Quân khu
7, Quân khu 9, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 tổ chức điều chỉnh lực lượng, phương tiện,
xây dựng phương án, sẵn sàng chiến đấu; các binh chủng Công binh, Pháo binh triển
khai một số đơn vị sẵn sàng đánh địch ở các hướng; mạng thông tin liên lạc từ quân

khu tới các đồn, chốt biên phòng được tăng cường thêm lực lượng và phương tiện.
Từ ngày 25/9/1977, quân Pôn Pốt tập trung 9 sư đoàn chủ lực cùng lực lượng
địa phương mở cuộc tiến công lớn thứ hai sang địa bàn các tỉnh An Giang, Kiên


8
Giang, Long An, Đồng Tháp lên hướng Tây Ninh, gây nhiều tội ác đối với nhân dân
Việt Nam. Riêng ở ba xã thuộc các huyện Tân Biên, Bến Cầu (Tây Ninh), quân Pôn
Pốt đã tàn sát trên 1.000 người dân.
Bộ Tổng Tham mưu quyết định sử dụng một bộ phận lực lượng chủ lực cơ
động của Bộ đánh lui các cuộc tiến công của quân Pôn Pốt ở nhiều khu vực trên biên
giới, giành lại những khu vực bị lấn chiếm, sau đó lui về củng cố lực lượng.
Ngày 15/11/1977, quân Pôn Pốt mở cuộc tiến công mới nhằm đánh chiếm thị
xã Tây Ninh.
Ngày 5/12/1977 đến 05/01/1978, Quân đoàn 4, Quân đoàn 3 và Quân khu 7,
Quân khu 9 tập trung 8 sư đồn mở đợt phản cơng trên các hướng đường 7, đường 1,
đường 2, truy kích qn Pơn Pốt sâu vào đất Campuchia 20 – 30 km; đánh thiệt hại 5
sư đoàn, làm thất bại kế hoạch đánh chiếm thị xã Tây Ninh của địch.
Sau đó, tập đồn Pôn Pốt thực hiện thủ đoạn “vừa ăn cướp, vừa la làng”, đưa
chiến tranh biên giới Tây Nam ra trước dư luận thế giới, vu khống Quân đội Việt Nam
xâm lược Campuchia nhằm cô lập Việt Nam trên trường quốc tế.
Đáp lại lời vu khống trên, ngày 31/12/1977, Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố về
vấn đề biên giới Việt Nam – Campuchia, nêu rõ lập trường và nguyên tắc của ta là:
Kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ mình; ln ln tơn trọng
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia; vạch trần âm mưu thủ đoạn
và những tội ác man rợ của tập đồn Pơn Pốt đối với đồng bào ta ở các tỉnh vùng biên
giới Tây Nam.
Tuy nhiên, mọi nỗ lực ngoại giao nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên
giới của Chính phủ ta đều bị tập đồn Pơn Pốt từ chối. Chúng tiếp tục phát động cuộc
chiến tranh biên giới Tây Nam nước ta.

2.1.2. Giai đoạn 2 (Từ ngày 06/01/1978 đến ngày 07/01/1979) của chiến tranh biên
giới Tây Nam
Tập đồn phản động Pơn Pốt xâm lược trên tồn tuyến biên giới Tây Nam,
Qn tình nguyện Việt Nam mở cuộc tổng phản công và cùng quân dân Campuchia
tiến công đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt.


9
Dù bị đánh cho tơi tả nhưng do vẫn được hỗ trợ về vũ khí, trang bị và cố vấn
quân sự từ bên ngồi, qn Pơn Pốt tiếp tục chuẩn bị lực lượng, tập trung quân về biên
giới Việt Nam. Tháng 1/1978, Pơn Pốt đưa thêm 2 sư đồn ra biên giới, tiếp tục gây
xung đột, liên tục tấn công lấn chiếm, bắn pháo và những nơi đông dân cư, gây nhiều
tội ác với đồng bào ta.
Bộ Tổng Tham mưu điều động Sư đoàn 341 (Quân đoàn 4) tăng cường cho
Quân khu 9, sẵn sàng chiến đấu; đồng thời ra lệnh cho các đơn vị ta trên toàn tuyến
biên giới Tây Nam nâng cao cảnh giác, thực hiện phòng ngự tích cực để hỗ trợ cho
Đảng, Nhà nước ta thực hiện đấu tranh chính trị và ngoại giao.
Ngày 05/01/1978, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra
tuyên bố ba điểm: (1) Chấm dứt mọi hoạt động quân sự, rút lực lượng vũ trang cách
biên giới 5km; (2) Hội đàm tiến tới ký hiệp ước hữu nghị và không xâm lược, ký hiệp
ước về biên giới; (3) Thỏa thuận về một hình thức thích hợp bảo đảm thông lệ quốc tế
và giám sát quốc tế.
Phớt lờ thiện chí và các nỗ lực ngoại giao của ta, quân Pôn Pốt tiếp tục huy động
lực lượng áp sát biên giới và cho quân tiến công, xâm nhập nhiều điểm trên địa phận
nước ta; lực lượng của ta đã kiên quyết đánh trả, giành lại các khu vực bị lấn chiếm.
Từ ngày 26/3/1978, các đơn vị của Quân đội ta chuyển sang tiến công, đẩy
quân Pôn Pốt lùi xa dần biên giới và dồn đối phương vào thế bị động, đối phó. Địn
phản cơng quyết liệt của Việt Nam trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại
giao đã đẩy qn Pơn Pốt vào tình thế khó khăn và tác động lớn đến hình hình chính
trị nội bộ Campuchia; đồng thời hỗ trợ trực tiếp cho phong trào nổi dậy của các lực

lượng cách mạng Campuchia phát triển, đỉnh cao là cuộc nổi dậy từ ngày 26/5/1978 ở
Quân khu Đông, làm suy yếu một bộ phận lực lượng quân Pôn Pốt. Lực lượng cách
mạng Campuchia đã lập được những khu căn cứ du kích có điều kiện thuận lợi về
nhiều mặt, nhất là những khu căn cứ gần Việt Nam, từng bước hình thành sự chỉ đạo
thống nhất.
Ngày 15/6/1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp bàn về chống lại
cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và tình hình căng thẳng ở biên giới phía Bắc,
trong đó quyết định phát động chiến tranh nhân dân, kiên quyết phản công và tiến
công địch một cách chủ động, liên tục bằng mọi lực lượng, với các quy mô nhỏ, vừa
và lớn, đánh địch cả trong và ngoài biên giới, tiêu diệt, tiêu hao và làm tan rã một bộ
phận quan trọng sinh lực địch.


10
Sau cuộc nổi dậy của lực lượng cách mạng Campuchia ở Quân khu Đông ngày
26/5/1978, quân Pôn Pốt vừa ráo riết thanh trừng nội bộ, vừa phải đối phó với lực
lượng cách mạng Campuchia vẫn đang tiếp tục hoạt động ở nhiều nơi. Để hỗ trợ cho
lực lượng cách mạng Campuchia tồn tại và phát triển, tạo thế cho hoạt động của ta vào
mùa khô 1979, từ ngày 14/6 đến ngày 30/9/1978, ta sử dụng Quân đoàn 3, Quân đoàn
4 và 2 sư đoàn (thuộc Quân khu 7), 2 sư đồn (thuộc Qn khu 5) mở tiếp đợt tiến
cơng lớn trên các hướng đường 1, đường 7, vùng giáp biên giới Tây Ninh và đường 19
kéo dài nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, tiến tới làm suy yếu một
bước lực lượng quân Pôn Pốt.
Do bị bất ngờ hồn tồn về thời gian, quy mơ và phương thức hoạt động của ta,
quân Pôn Pốt rơi vào thế bị động, ngay ngày đầu đã bị ta đánh thiệt hại và tê liệt một số
sư đoàn. Cuộc tiến công của ta đã hỗ trợ kịp thời cho lực lượng cách mạng Campuchia ở
Quân khu Đông, buộc quân Pôn Pốt bị động đối phó trên cả hai mặt trận biên giới và nội
địa. Ở nhiều khu vực quan trọng, lực lượng nổi dậy đã lập được căn cứ, dựa vào dân để
phát triển lực lượng. Phối hợp với lực lượng cách mạng Campuchia trong đợt tiến công
này, ta loại khỏi vịng chiến đấu 6 sư đồn, làm suy yếu nghiêm trọng lực lượng chủ lực

quân Pôn Pốt, đẩy lùi hầu hết quân Pôn Pốt ra khỏi đất Việt Nam.
Trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 11/1978, Việt Nam đã giúp lực lượng vũ
trang cách mạng Campuchia phát triển được 15 tiểu đồn, 5 khung tiểu đồn, 24 đội
cơng tác, xây dựng được các tổ chức đảng, chuẩn bị thành lập mặt trận và bộ máy lãnh
đạo. Với sự giúp đỡ của Việt Nam, ngày 02/12/1978, tại vùng giải phóng thuộc xã
Chơng Th’nu, huyện Snuol, tỉnh Kratié (Campuchia), Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu
nước Campuchia ra mắt nhân dân Campuchia, công bố cương lĩnh cách mạng 11 điểm,
trong đó nêu rõ quyết tâm đồn kết, tập hợp mọi lực lượng yêu nước nổi dậy đánh đổ
tập đoàn phản động Pơn Pốt, xóa bỏ chế độ diệt chủng tàn ác, thiết lập chế độ dân chủ
nhân dân; khẳng định tăng cường tình đồn kết với nhân dân Việt Nam và nhân dân
u chuộng hịa bình, cơng lý trên thế giới; kêu gọi chính phủ các nước, các tổ chức
quốc tế giúp đỡ mọi mặt cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Campuchia.
Phát hiện qn Pơn Pốt có ý định tập trung 5 sư đoàn và 4 trung đồn tiến cơng
đánh chiếm Tây Ninh, sau đó sẽ mở rộng địa bàn đánh chiếm lãnh thổ Việt Nam, ngày
06 và 07 tháng 12/1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua quyết tâm
tổng phản công – tiến cơng chiến lược tiêu diệt qn địch, hồn thành cuộc chiến tranh
bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc; đồng thời sẵn sàng hỗ trợ lực lượng vũ trang
cách mạng Campuchia nổi dậy đánh đổ tập đồn Pơn Pốt diệt chủng, giành chính
quyền về tay nhân dân.


11
Phát hiện sự chuẩn bị của ta, quân Pôn Pốt tập trung phần lớn lực lượng chủ lực
bố trí dọc biên giới với Việt Nam, tồn bộ phía sau hầu như trống rỗng. Ngày
23/12/1978, quân Pôn Pốt huy động 10 trong số 19 sư đồn đang bố trí ở biên giới mở
cuộc tiến cơng trên tồn tuyến biên giới Tây Nam nước ta.
Trước hành động xâm lược của quân Pôn Pốt và đáp lời kêu gọi khẩn thiết của
Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, ngày 23/12/1978, Quân tình nguyện
Việt Nam cùng với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia mở cuộc tổng phản công
– tiến công trên toàn tuyến biên giới.

Cuối tháng 12/1978, toàn bộ hệ thống phịng thủ vịng ngồi của qn Pơn Pốt
bị phá vỡ. Đến ngày 31/12/1978, quân và dân ta đã hoàn thành nhiệm vụ đánh đuổi
qn Pơn Pốt, thu hồi tồn bộ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc bị kẻ thù lấn chiếm.
Ngày 02/01/1979, ba cụm quân chủ lực của Pôn Pốt, mỗi cụm 5 sư đoàn, án
ngữ các trục đường tiến về Phnôm Pênh (đường 1, đường 7 và đường 2) cơ bản bị tiêu
diệt và tan rã. Ngày 05 và 06 tháng 01/1979, trên tất cả các hướng, quân Pơn Pốt
khơng cản được Qn tình nguyện Việt Nam truy kích và tiến sát Thủ đơ Phnơm Pênh.
Ngày 06/01/1979, Qn tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang của Mặt
trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia bắt đầu cuộc tổng cơng kích vào Thủ đơ
Phnơm Pênh. Sau 2 ngày tổng cơng kích, ngày 07/01/1979, Thủ đơ Phnơm Pênh hồn
tồn được giải phóng.
Ngày 08/01/1979, Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia được thành lập và
ra tuyên bố: Xóa bỏ hồn tồn chế độ diệt chủng của tập đồn Pơn Pốt, thành lập chế
độ Cộng hòa nhân dân Campuchia. Việt Nam cùng nhiều nước đã cơng nhận nước
Cộng hịa nhân dân Campuchia.
Ngày 17/01/1979, toàn bộ đất nước Campuchia được giải phóng; phần lớn lực
lượng Pơn Pốt bị tiêu diệt và tan rã, số còn lại lẩn trốn vào rừng trên tuyến biên giới
phía Tây, Tây Bắc Campuchia.
Từ ngày 23/12/1978 đến 17/01/1979, Quân tình nguyện Việt Nam cùng với lực
lượng vũ trang cách mạng Campuchia đã tiêu diệt và làm tan rã 18 sư đồn qn Pơn
Pốt, diệt 12 nghìn tên, bắt 8.800 tên, gọi hàng 3.200 tên và làm tan rã tại chỗ 44 nghìn
tên; giải phóng trên 4 triệu dân Campuchia, thu hồi toàn bộ cơ sở vật chất và phương
tiện kỹ thuật quân sự của quân Pôn Pốt; đập tan bộ máy thống trị của tập đoàn phản
động Pôn Pốt từ trung ương đến cơ sở. Chiến tranh biên giới Tây Nam kết thúc.


12
Trong thời gian gần hai năm chiến tranh biên giới Tây Nam, quân Pôn Pốt giết
hại và bắt hơn 30.000 dân thường tại các xã biên giới của Việt Nam, 400.000 người
dân mất nhà cửa, trên 3.000 nhà bị bỏ hoang; nhiều nhà thờ, trường học, chùa chiền bị

chúng đốt phá…
2.2. Kết quả cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam
Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia được sự
giúp đỡ, phối hợp và hỗ trợ giữa quân Việt Nam và Campuchia đã đập tan được chính
quyền phản động Pơn Pốt từ trung ương đến cơ sở.
Ngày 7-1-1979, sau 2 ngày tổng cơng kích, thủ đơ Phnơm Pênh hồn tồn được giải
phóng. Ngày 8-1-1979, Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia được thành lập ra tun
bố: Xóa bỏ hồn tồn chế độ diệt chủng của tập tồn Pơn Pốt, thành lập chế độ Cộng hịa
nhân dân Campuchia. Việt Nam cùng nhiều nước đã công nhận Nhà nước Campuchia.
Như vậy, từ ngày 23-12-1978 đến 17-1-1979, Quân tình nguyện Việt Nam cùng
với lực lượng vũ trang cách mạng 10 Thông tin tuyên truyền tháng 1 - 2019 Campuchia
đã tiêu diệt và làm tan rã 18 sư đoàn quân Pôn Pốt, diệt 12.000 tên, bắt 8.800 tên, gọi
hàng 3.200 tên và làm tan rã tại chỗ 44.000 tên; giải phóng trên 4 triệu dân Campuchia,
đập tan bộ máy thống trị của tập đồn phản động Pơn Pốt từ trung ương đến cơ sở.
2.3. Ý nghĩa cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam
Sau thất bại của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, các
nước lớn ra sức gây ảnh hưởng đến khu vực Đông Nam Á. Hồn cảnh lịch sử đó đã
tạo nên bất ổn ở khu vực. Điển hình là thế lực phản động nước ngoài đã tiếp tay gây
dựng nên tập đoàn phản động Pôn Pốt – Iêng Xary, đi ngược lại tiến trình phát triển
của nhân loại. Những người đứng đầu nhà nước Campuchia dân chủ đã thiết lập một
chế độ độc tài, phá vỡ mọi quan hệ sản xuất, thiết chế xã hội, ra sức khủng bố, tàn sát,
thanh trừng có hệ thống, biến đất nước Chùa Tháp “thành một lò sát sinh khổng lồ.
Một địa ngục trần gian chìm trong máu và nước mắt”.
Về đối ngoại, chính quyền Campuchia Dân chủ khơng ngừng kích động tư
tưởng thù hằn dân tộc với các quốc gia láng giềng, phủ nhận trắng trợn lịch sử và
truyền thống đoàn kết, hữu nghị của nhân dân Việt Nam - người anh em đã kề vai sát
cánh cùng họ trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Cơng
khai địi hoạch định lại biên giới Việt Nam – Campuchia với những yêu sách vơ lý.
Ngay từ tháng 5/1975, phía Campuchia dân chủ đã tiến hành đánh chiếm một số đảo



13
và nhiều điểm nằm sâu trong nội địa Việt Nam. Với tinh thần hữu nghị, Việt Nam đã
chủ động đề xuất các biện pháp nhằm giải quyết những xung đột, xây dựng đường
biên giới hịa bình, hữu nghị, nhưng đã bị nhà nước Campuchia dân chủ khước từ, đơn
phương cắt đứt quan hệ ngoại giao, vu cáo Việt Nam xâm lược, tiến hành các cuộc tiến
công vũ trang với quy mô và cường độ ngày càng tăng, gây nên nhiều vụ thảm sát dã
man với dân thường vô tội. Đây là một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn vào
toàn bộ lãnh thổ vùng biên giới Tây Nam của Việt Nam, với nhiều tham vọng của tập
đồn Pơn Pốt – Iêng Xary, được các thế lực phản động nước ngoài giúp sức. Trước
chiều hướng leo thang chiến tranh của tập đồn phản động Pơn Pốt – Iêng Xary, nhân
dân và các lực lượng vũ trang Việt Nam buộc phải giáng trả thích đáng, đánh đuổi tồn
bộ qn xâm lược ra khỏi lãnh thổ của mình, tạo điều kiện giúp nhân dân Campuchia
thoát khỏi họa diệt chủng.
Như vậy, cuộc chiến đấu chống lại quân Pôn Pốt xâm lược là hành động tự vệ
hồn tồn chính đáng và cần thiết của nhân dân Việt Nam. Đó là cuộc chiến tranh
chống xâm lược do Campuchia dân chủ gây ra có sự tác động của Trung Quốc. Đồng
thời, đáp ứng lời kêu gọi của những người cách mạng chân chính Campuchia, Việt
Nam đã giúp đỡ nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, cứu dân tộc
Chùa Tháp khỏi diệt vong – đó là hành động phù hợp pháp lý, vì nghĩa tình quốc tế
cao cả. Tuy vậy, khơng ít thế lực với cách nhìn thiển cận, phi lịch sử và thái độ hằn học
đã xuyên tạc vấn đề này. Nhưng cả thế giới văn minh, cả loài người tiến bộ đã thừa
nhận, đã ủng hộ nghĩa cử cao đẹp của Việt Nam, lên án chế độ diệt chủng tàn bạo ở
Campuchia do Pơn Pốt cầm đầu. Diễn trình của phiên tòa xét xử tội ác của những
người đứng đầu chế độ Campuchia dân chủ đã khẳng định rõ điều đó.
Tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở Biên giới Tây Nam, nhân dân Việt
Nam đã hoàn thành nghĩa vụ quốc tế cao cả. Với sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của
qn tình nguyện Việt Nam, nhân dân Campuchia mà đại diện là lực lượng vũ trang
Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đã đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt
- Iêng Xari, chế độ độc tài tàn bạo nhất trong lịch sử Campuchia cũng như lịch sử nhân

loại; từng bước đưa đất nước Campuchia hồi sinh, phát triển và có những đóng góp
xứng đáng vào việc gìn giữ hịa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.
Chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng quân,
dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng có ý nghĩa lớn lao không chỉ với Việt
Nam và Campuchia mà với cả khu vực cũng như thế giới.
+ Đối với Việt Nam


14
Thắng lợi cuộc đấu tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc một lần nữa
khẳng định nhân dân Việt Nam với ý chí độc lập, tự chủ và tinh thần đại đoàn kết dân
tộc, đoàn kết quốc tế trong sáng, sẵn sàng đập tan bất kỳ âm mưu và hành động chống
phá của các thế lực phản động, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc; đồng thời thể hiện tinh thần quốc tế cao cả, mối quan hệ truyền thống
gắn bó thủy chung, lâu đời, sự giúp đỡ trong sáng, chí nghĩa, chí tình của Đảng, Nhà
nước, qn đội Việt Nam đối với nhân dân Campuchia.
+ Đối với nhân dân Campuchia
Chiến thắng ngày 7-1- 1979 có ý nghĩa lịch sử đặc biệt to lớn đối với vận mệnh
đất nước và dân tộc Campuchia: Đã xóa bỏ hồn tồn chế độ diệt chủng của tập đồn
Pơn Pốt, thành lập chế độ Cộng hòa nhân dân Campuchia; cứu nhân dân Campuchia ra
khỏi thảm họa diệt chủng, giành lại quyền được sống, quyền làm người và bước vào
kỷ nguyên độc lập, tự do thật sự, hồi sinh đất nước và dân tộc, xây dựng cuộc sống hịa
bình, tươi đẹp.
+ Đối với quốc tế
Thắng lợi vĩ đại ngày 7-1-1979 là thắng lợi chung của nhân dân hai nước Việt
Nam - Campuchia, thể hiện sức mạnh của tinh thần đoàn kết quốc tế, sự thủy chung,
trọn nghĩa vẹn tình giữa hai dân tộc Việt Nam - Campuchia.
Với thắng lợi này, quan hệ giữa hai nước chuyển sang thời kỳ khơi phục, vun
đắp tình đồn kết, hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa hai nước trên
ngun tắc hịa bình, tơn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của nhau, tơn

trọng lợi ích chính đáng vì sự phát triển và phồn vinh mỗi nước.
Chiến thắng chế độ diệt chủng Pôn Pốt đã góp phần giữ vững hịa bình, ổn định
ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới; đấu tranh vạch trần bản chất của chế độ phân
biệt chủng tộc, sắc tộc, chế độ độc tài và cảnh báo cho nhân loại luôn cảnh giác trước
nguy cơ của chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi và chủ nghĩa phát xít mới.
Phát huy tinh thần đồn kết, gắn bó giữa hai đất nước, sau khi giành được độc
lập, Việt Nam và Campuchia tiếp tục tăng cường mối quan hệ “láng giềng tốt đẹp, hữu
nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” và đã đạt nhiều kết quả tích
cực trên nhiều lĩnh vực.


15
CHƯƠNG 3: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NƯỚC TA NĂM 1975 – 1979 VÀ
BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY
NAM TRONG LĨNH VỰC ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM
3.1. Chính sách đối ngoại của nước ta năm 1975 - 1979
Sau thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ mùa xuân năm 1975,
một trang mới trong lịch sử dân tộc được mở ra, hịa bình được lập lại trên toàn vẹn
lãnh thổ. Cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với khí thế của một dân tộc vừa giành được
thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống lại kẻ thù mạnh nhất lúc đó - Đế quốc
Mỹ. Với thắng lợi của Việt Nam và các nước Đơng Dương, có thể nói hệ thống xã hội
chủ nghĩa trên phạm vi tồn thế giới đã khơng ngừng được mở rộng, phong trào cách
mạng thế giới phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Tranh thủ tình hình quốc tế thuận lợi với Việt Nam sau chiến tranh, Đảng và
nhà nước đã mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác kinh tế với nước ngoài nhằm thu
hút vốn, thiết bị kỹ thuật phục vụ công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng
lại đất nước. Để phòng tránh nguy cơ mất độc lập, tự chủ về tư duy và đường lối đối
ngoại, trong những năm 1976-1979, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương ra sức tranh
thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi nhất để nhanh chóng hàn gắn những vết thương
chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, khoa học, kỹ thuật,

củng cố quốc phòng, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đồng
thời, mở rộng quan hệ đối ngoại, phát triển quan hệ với các nước Đông Dương, các
nước xã hội chủ nghĩa và các nước tư bản phát triển. Bên cạnh đó, cần đặt mình vào
đúng dịng chảy của thời đại, hóa giải nguy cơ, tranh thủ thời cơ, khai thác tối đa
những lợi thế so sánh giữa Việt Nam với các nước về các mặt, tận dụng những khả
năng sẵn có, đánh thức những tiềm năng của đất nước, lấy “cái mạnh” của thế giới về
nguồn vốn dồi dào, khoa học công nghệ cao, trình độ quản lý hiện đại, nguồn nguyên
nhiên liệu phong phú, thị trường rộng lớn và đa dạng để bổ sung và tăng sức mạnh cho
mình, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giải phóng và phát
triển mạnh mẽ sức sản xuất, hồn thành tốt nhất yêu cầu của đất nước. Tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IV (12-1976), Đảng ta xác định nhiệm vụ đối ngoại là “ra sức
tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương
chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, khoa học kỹ thuật,
củng cố quốc phòng, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước
ta”. Trong quan hệ với các nước, Đại hội IV chủ trương củng cố và tăng cường tình
đồn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và
phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào – Campuchia; sẵn sàng thiết lập, phát


16
triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng
quan hệ bình thường giữa Việt Nam với tất cả các nước trên cơ sở tơn trọng độc lập
chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
Ngày 5/7/1976, để từng bước xóa tan mối lo ngại từ phía các nước ASEAN, trả
lời phỏng vấn Thông tấn xã Việt Nam, Ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Duy Trinh đã
cơng bố chính sách bốn điểm của nước ta đối với các nước Đông Nam Á, Nội dung
bốn điểm đó là:
1. Thiết lập quan hệ hữu nghị láng giềng thân thiện, hợp tác kinh tế, văn hố
tồn diện trên cơ sở công bằng và tôn trọng lẫn nhau;
2. Nỗ lực phát triển hợp tác vì sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh theo

điều kiện riêng của mỗi nước vì lợi ích độc lập dân tộc, hịa bình, trung lập thực sự ở
Đơng Nam Á
3. Khơng để lãnh thổ nước mình cho bất kì nước ngồi nào sử dụng làm căn cứ
xâm lược và can thiệp vào công cuộc nội bộ và hợp tác khu vực Đông Nam Á;
4. Nguyên tắc quan trọng nhất là tôn trọng chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, khơng
can thiệp vào cơng việc nội bộ, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi và chung sống hồ bình.
Sau khi cơng bố chính sách bốn điểm này, Việt Nam nhanh chóng đã thiết lập
quan hệ ngoại giao với Philippin ngày 12/7/1976, với Thái Lan ngày 6/8/1976. Nếu
tính cả Indonesia đã có quan hệ ngoại giao với ta từ 1964, Malaysia và Singapore đã
có quan hệ với ta từ năm 1973 sau khi Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết, thì ta
đã có quan hệ ngoại giao với cả 5 nước ASEAN (khi đó chưa có Brunei). Các cuộc
viếng thăm các nước ASEAN của Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh cuối năm 1976 và
đầu năm 1977, của Thủ tướng Phạm Văn Đồng tháng 9 và tháng 10/1978 đã giúp các
nước ASEAN hiểu rõ hơn chính sách hữu nghị và hợp tác của Việt Nam, làm tăng
thêm hứa hẹn về tương lai quan hệ giữa các nước trong khu vực.
Tuy nhiên, công cuộc xây dựng tiến hành chưa được bao lâu thì quan hệ giữa
Việt Nam và các nước láng giềng có chung biên giới xuất hiện nhiều trắc trở và phát
triển theo chiều hướng ngày càng phức tạp. Từ 1975-1978, tin vào sự hậu thuẫn của
chính quyền Trung Quốc, chính quyền Khmer Đỏ đã nhiều lần tấn công biên giới Tây
Nam Việt Nam, tàn sát dân thường, đánh phá các cơ sở kinh tế và quân sự dọc biên
giới với mục đích làm kiệt quệ đối phương. Những hành động này, cùng với làn sóng
di tản của người Campuchia chạy trốn chính quyền Khmer Đỏ đã làm quan hệ giữa
Việt Nam và Campuchia đổ vỡ hoàn toàn. Ngày 25/12/1978, bộ đội chủ lực Việt Nam
tổ chức phản công đáp lại lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước
Campuchia, và tới ngày 7 tháng 1 năm 1979 họ đã tiến quân vào thủ đô Phnôm Pênh,
chấm dứt sự thống trị của Khmer đỏ.


17
Các nước ASEAN lo ngại chiến tranh có thể lan rộng sang Thái Lan và có thể

kéo họ vào cuộc xung đột khu vực nên dẫn đến những căng thẳng và đối đầu trong
quan hệ giữa các nước ASEAN và Việt Nam kéo dài hơn một thập kỷ về vấn đề
Campuchia. Cho đến bây giờ,vẫn còn rất nhiều phản ứng đa chiều của quốc tế vì hành
động Việt Nam đưa qn sang đất Campuchia đánh đuổi qn Pơn-Pốt, giải phóng Thủ
đơ Phnom-Pênh. Tuy nhiên, chính sách đối ngoại của Việt Nam từ sau năm 1975 đối
với các nước ASEAN vẫn là hữu nghị, hoà hảo, mong muốn mở rộng các mối quan hệ
và hợp tác để cùng phát triển. Kể cả đến khi mối quan hệ của Việt Nam với các nước
bị đẩy lên căng thẳng vào cuộc họp với Đại hội đồng Liên Hợp Quốc vào ngày
11/1/1979, Việt Nam vẫn duy trì chính sách đối ngoại giải quyết vấn đề bằng phương
pháp ngoại giao.
Khi Trung Quốc lấy cái cớ Việt Nam tấn công Khmer Đỏ để phát hành cuộc
xâm lược biên giới Việt Nam (2/1979), Trung Quốc đồng thời cắt đứt viện trợ và quan
hệ quốc tế hai nước trở nên căng thẳng. Việt Nam thiết lập quan hệ gần gũi hơn với
Liên Xô bằng cách tham gia Hội đồng Tương trợ Kinh tế (6/1978), ký Hiệp ước với
Liên Xơ (11/1978).
Nhận thấy những hạn chế, thiếu sót trong hoạch định và thực hiện chủ trương
đối ngoại, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã từng bước khắc phục đường lối đối ngoại
“nhất biên đảo”, tăng cường mở rộng quan hệ với tất cả các nước trong khu vực và thế
giới. Bởi vậy, từ năm 1975 đến năm 1977, Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với
23 nước, trong đó có nhiều nước tư bản phát triển. Từ năm 1976 đến trước khi xảy ra
vấn đề Campuchia, nhiều đoàn cấp cao của Việt Nam đi thăm các nước Tây Âu, Bắc
Âu, Nhật Bản... mở ra quan hệ kinh tế, thương mại, văn hóa, khoa học kỹ thuật với các
nước thuộc khu vực này. Đây là khoảng thời gian Việt Nam tranh thủ được nhiều
nguồn viện trợ, thiết bị kỹ thuật từ các nước tư bản phương Tây. Trong những năm
1976-1979, Việt Nam đã tranh thủ được từ các nước tư bản khoảng 2,263 đơla mỹ,
trong đó 54% là cho vay, 46% là viện trợ khơng hồn lại. Từ năm 1975 đến cuối 1978,
riêng các nước Bắc Âu đã dành cho Việt Nam 612 triệu đơla Mỹ, trong đó 91% là viện
trợ khơng hồn lại. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng ký kết nhiều hiệp định hợp tác về
kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật với các nước Tây Âu, Bắc Âu như Pháp, Bỉ, Thụy
Điển, Đức, Italia, góp phần xây dựng và phát triển đất nước.

3.2. Bài học kinh nghiệm trong lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam
Vào những năm trước thời kỳ đổi mới (1975 – 1979) là một trong những
khoảng thời gian Việt Nam tiến hành công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước sau
chiến tranh. Bên cạnh những thuận lợi sau khi giành được độc lập, thống nhất Tổ quốc,
Việt Nam cũng phải đối diện với nhiều thách thức, khó khăn mà một phần do chính
sách đối ngoại tạo ra. Đảng và nhà nước vẫn sử dụng những chính sách đối ngoại năm


18
1975 – 1979 cho đến năm 1986. Từ năm 1986 đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam thực
hiện đổi mới bằng việc chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đoàn
kết hữu nghị, hợp tác với các nước XHCN anh em, thúc đẩy quan hệ đặc biệt với các
nước Đông Dương, mở rộng quan hệ đối ngoại với tất cả các nước trong khu vực và
thế giới vì hịa bình, độc lập và tiến bộ xã hội. Q trình đó đã để lại một số kinh
nghiệm quý báu, mang giá trị thời đại và thực tiễn:
Một là, cần phải đánh giá đúng sự biến đổi của bối cảnh quốc tế, khu vực; bám
sát thực tiễn đất nước, kịp thời điều chỉnh chủ trương, chính sách đối ngoại
Đánh giá đúng tình hình, nắm bắt chuẩn xác quy luật vận động trong quan hệ
quốc tế là vấn đề mang tính nguyên tắc, tạo nên hiệu quả đối ngoại của mỗi quốc gia.
Với Việt Nam, vấn đề này có ý nghĩa vơ cùng quan trọng, quyết định chủ trương,
chính sách đối ngoại với từng quốc gia, trong từng hoàn cảnh cụ thể. Tuy nhiên, trong
những năm 1975 - 1979, Việt Nam chưa làm tốt cơng tác dự báo tình hình, nhận diện
chưa đúng về mối quan hệ phức tạp giữa các nước lớn. Vì thế, một số chủ trương,
chính sách đối ngoại mang tính cứng nhắc, giáo điều, đánh giá chủ quan, dẫn đến
những sai lầm nghiêm trọng. Điều này được thể rõ nhất trong việc nhận diện tình hình
thế giới:
Trước hết là, nhìn nhận chưa thấu đáo về Mỹ và sức mạnh của Mỹ trong khu
vực. Việt Nam cho rằng, chiến thắng mùa Xuân 1975 đã “đẩy Mỹ vào tình thế khó
khăn chưa từng có”, đánh dấu bước ngoặt đi xuống của Mỹ, làm Mỹ bị suy yếu
nghiêm trọng, buộc phải rút lui khỏi một số địa bàn ở châu Á. Song trên thực tế, Mỹ

không rơi vào “tình thế khó khăn chưa từng có”, mặc dù uy tín có giảm sút, nhưng Mỹ
chưa hề đánh mất vị trí siêu cường và khi cần thiết Mỹ có thể sử dụng sức mạnh đó
liên kết với các nước khác thực hiện các chính sách chống phá Việt Nam. Việt Nam
cũng chưa nắm bắt được những tính tốn của Mỹ trong mối bang giao với các nước
cùng khu vực. Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ và cơ hội
tháo gỡ nút thắt trong quan hệ đối ngoại của mình. Bên cạnh đó, do chưa nắm bắt
chuẩn xác về sự thay đổi trong tam giác chiến lược Mỹ - Xô - Trung nên Việt Nam
cũng chưa có những đối sách phù hợp, nhất là với Trung Quốc.
Xuất phát từ tư duy giáo điều, cách nhìn xơ cứng về xã hội chủ nghĩa hiện thực,
đánh giá quá cao sức mạnh của hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa so với thực tế và có phần
ảo tưởng trước thực tại khách quan, nên Việt Nam đã khơng lường hết những khó khăn
và dấu hiệu khủng hoảng trong nội bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, Việt Nam
vẫn tin rằng: “Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã và đang lớn mạnh khơng
ngừng”, có khả năng phát triển mạnh mẽ chưa từng có. Hơn nữa, do bị chế định bởi tư
duy ý thức hệ và khơng khí Chiến tranh lạnh nên Việt Nam vẫn còn nhận thức cứng


19
nhắc về các nước tư bản Tây Âu, chưa đánh giá đúng về chiều hướng đối ngoại của
các nước này, do đó chưa thiết lập được quan hệ đối ngoại với họ.
Việt Nam vẫn còn chậm trễ trong nhận thức về các vấn đề của khu vực, nhất là
những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, Nhật Bản và các nước
trong ASEAN. Vì thế, chưa thực sự nỗ lực thúc đẩy, phát triển quan hệ hợp tác song
phương, đa phương.
Việt Nam đánh giá thiếu chính xác về thế và lực của đất nước. Sau Đại thắng
mùa Xuân năm 1975, uy tín và vị thế của Việt Nam đã được nâng cao, song với tư thế
là người chiến thắng, Việt Nam đã thiếu tỉnh táo, đánh giá quá cao thời kỳ sau Việt
Nam, đồng thời, thỏa mãn với nhận định của một số học giả nước ngoài và tự nhận
thấy đánh được Mỹ thì khơng có gì khơng làm được. Điều đó dẫn đến tư tưởng chủ
quan, tư duy nơn nóng, phiêu lưu. Với những nhận thức chưa chuẩn xác thế và lực của

đất nước, đánh giá chưa đúng những chuyển động của tình hình thế giới, thiếu nhạy
bén, Việt Nam đã nghiêng hẳn về phía Liên Xơ, coi Liên Xơ là “hịn đá tảng” trong
chính sách đối ngoại. Điều này khiến Việt Nam phụ thuộc nhiều vào Liên Xô, tự đẩy
đất nước vào thế đối đầu với Trung Quốc. Hơn nữa, Việt Nam vẫn còn sai lầm khi tự
nhận diện về sứ mệnh mới: “chống chủ nghĩa bành trướng, bá quyền” trong phong trào
cách mạng thế giới, “vì nghĩa vụ quốc tế cao cả”.
Có thể thấy, tư tưởng giáo điều, không nhạy bén trước sự vận động của thế giới
và khu vực đã khiến quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong những năm 1975 - 1986
gặp nhiều khó khăn, chưa phát huy được thế mạnh của đất nước sau thống nhất, độc
lập.
Hai là, cần thường xuyên phòng tránh nguy cơ mất độc lập, tự chủ về tư duy và
đường lối đối ngoại, coi trọng công tác nghiên cứu chiến lược, tổng kết thực tiễn và
dự báo quốc tế
Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, độc lập, tự chủ luôn
là một trong những yêu cầu hàng đầu; đồng thời, là một trong những điều kiện bảo vệ
chủ quyền quốc gia dân tộc, là cơ sở vững chắc cho quyền tự quyết dân tộc, là đòn bẩy
đưa đất nước hội nhập với quốc tế. Để phòng tránh nguy cơ mất độc lập, tự chủ về tư
duy và đường lối đối ngoại, trong những năm 1975 - 1979, Đảng Cộng sản Việt Nam
chủ trương “ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi nhất để nhanh chóng
hàn gắn những vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn
hóa, khoa học, kỹ thuật, củng cố quốc phịng, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, mở rộng quan hệ đối ngoại, phát triển quan hệ với các
nước Đông Dương, các nước xã hội chủ nghĩa và các nước tư bản phát triển. Bên cạnh
đó, cần đặt mình vào đúng dịng chảy của thời đại, hóa giải nguy cơ, tranh thủ thời cơ,
khai thác tối đa những lợi thế so sánh giữa Việt Nam với các nước về các mặt, tận


20
dụng những khả năng sẵn có, đánh thức những tiềm năng của đất nước, lấy “cái mạnh”
của thế giới về nguồn vốn dồi dào, khoa học cơng nghệ cao, trình độ quản lý hiện đại,

nguồn nguyên nhiên liệu phong phú, thị trường rộng lớn và đa dạng để bổ sung và tăng
sức mạnh cho mình, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giải
phóng và phát triển mạnh mẽ sức sản xuất, hoàn thành tốt nhất yêu cầu của đất nước.
Bên cạnh việc phòng tránh nguy cơ mất độc lập, tự chủ về tư duy và đường lối
đối ngoại, coi trọng công tác nghiên cứu chiến lược, tổng kết thực tiễn và dự báo quốc
tế cũng là kinh nghiệm quý báu trong lãnh đạo hoạt động đối ngoại của Đảng Cộng
sản Việt Nam những năm 1975 - 1979. Nghiên cứu chiến lược và tổng kết thực tiễn có
mối quan hệ biện chứng với nhau. Bởi lẽ, tổng kết thực tiễn là để tìm ra những điểm
mạnh, điểm yếu, những bài học kinh nghiệm và các giải pháp tích cực, hạn chế tiêu
cực nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong hoạt động đối ngoại. Đồng thời, tổng kết thực
tiễn cũng là cơ sở để đề ra đường lối, chính sách đối ngoại phù hợp với tình hình mới.
Bên cạnh đó, cần làm tốt cơng tác dự báo quốc tế để kịp thời xử lý các vướng mắc
trong quan hệ đối ngoại, đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế trong tương lai.
Ba là, chủ động khắc phục đường lối đối ngoại “nhất biên đảo”, tích cực xác
lập các mối quan hệ quốc tế đa dạng, đa phương.
Đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ quốc tế là vũ khí sắc bén giúp
Việt Nam phá vỡ thế bao vây, cấm vận, đưa đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng với
khu vực và thế giới. Đồng thời, đem lại những lợi ích kinh tế rõ ràng, nâng cao uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế và là phòng tuyến đầu tiên giúp Việt Nam bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Hơn nữa, ngoại giao đa phương
còn giúp Việt Nam độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế, qua đó nhận được sự ủng hộ
rộng rãi của dư luận và bạn bè quốc tế. Mặc dù, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã có tầm
nhìn chiến lược về mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa
trên cơ sở tơn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, hợp tác bình đẳng, cùng
có lợi.
Tuy nhiên, những năm 1975 - 1979, Việt Nam quá chú trọng, đề cao Liên Xô và
nhất quán nhấn mạnh quan hệ thủy chung với Liên Xơ là “hịn đá tảng” trong chính
sách đối ngoại của mình, do đó Việt Nam đã rơi trạng thái cô lập, đối đầu với các nước
lớn khác. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng từ sự kiện Campuchia nên chủ trương mở rộng
quan hệ đối ngoại với các nước trong khu vực và thế giới chưa được hiện thực hóa một

cách trọn vẹn, dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong việc xác lập các mối quan
hệ quốc tế. Nhận thấy những hạn chế, thiếu sót trong hoạch định và thực hiện chủ
trương đối ngoại, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã từng bước khắc phục đường lối đối
ngoại “nhất biên đảo”, tăng cường mở rộng quan hệ với tất cả các nước trong khu vực
và thế giới bằng cách thiết lập quan hệ ngoại giao với 23 nước và nhận được nhiều


21
viện trợ. Có thể thấy, những điều chỉnh trong đường lối đối ngoại của Đảng giai đoạn
này đã giúp Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại với nhiều nước, tranh thủ nguồn
vốn, viện trợ từ nước ngồi để khơi phục và phát triển kinh tế. Đồng thời, chủ động
khắc phục đường lối đối ngoại “nhất biên đảo”, tích cực xác lập các mối quan hệ quốc
tế đa dạng, đa phương đã giúp Việt Nam có nhiều cơ hội tham gia vào các tổ chức khu
vực và quốc tế, tạo nền tảng thúc đẩy Việt Nam bình thường hóa quan hệ với các nước
lớn.
Bốn là, cần xác định đúng đắn, kịp thời tầm quan trọng quan hệ của nước ta
với các nước lớn và các nước láng giềng cùng khu vực
Việt Nam giữ vị trí chiến lược quan trọng trên bản đồ địa chính trị khu vực, là
cầu nối giữa đất liền và hải đảo, là trung tâm thương mại của khu vực, đồng thời cũng
là cửa khẩu đi vào hệ thống giao thông đường bộ trên đất liền của các quốc gia Đơng
Nam Á và châu Á. Do đó, ngay từ rất sớm, Việt Nam đã trở thành thuộc địa kiểu mới
của các nước đế quốc. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, Việt Nam đã khéo léo lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, cân bằng quan hệ
giữa các cường quốc. Đồng thời, tranh thủ sự ủng hộ của các nước lớn trong khối Xã
Hội Chủ Nghĩa để hoàn thành sự nghiệp bảo vệ, giữ vững độc lập, tự do của Tổ quốc.
Có thể thấy, trước năm 1975, Việt Nam đã thực hiện thành công “chiến lược cân bằng”
trong đối ngoại với các nước lớn, coi trọng quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng,
góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, trong những năm 1975 - 1979, do tác động, chi phối bởi những yếu
tố chủ quan, khách quan khác nhau nên Việt Nam đã nghiêng hẳn về phía Liên Xơ, đối

đầu với Trung Quốc và coi Liên Xơ đây là “hịn đá tảng” trong chính sách đối ngoại
của mình. Đồng thời, nhấn mạnh thắt chặt tình đồn kết với Liên Xơ là vấn đề cần
thiết và quan trọng. Điều đó thể hiện sự mất cân bằng trong quan hệ với các nước lớn,
đẩy ngoại giao Việt Nam rơi vào “thế kẹt” trong những năm trước thời kỳ đổi mới.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn dè chừng, cảnh giác trong quan hệ với Mỹ, Nhật do cách
nhìn nhận, đánh giá cịn chủ quan. Việt Nam cho rằng Nhật vừa giữ quan hệ với ta,
vừa tranh thủ các nước các nước ASEAN, vừa phối hợp với Mỹ và Bắc Kinh chống ba
nước Đông Dương. Cịn Mỹ đang tìm cách gắn chặt với các nước Đông Nam Á nhằm
tranh thủ lực lượng để ngăn Liên Xơ ở phía Đơng; đồng thời phối hợp với các thế lực
phản động chống phá ba nước Đơng Dương. Vì vậy, Việt Nam bỏ lỡ cơ hội bình
thường hóa quan hệ với Mỹ, tiếp tục đẩy quan hệ Việt - Mỹ rơi vào tình trạng đối đầu
căng thẳng. Cũng bởi vì khơng giữ được thế cân bằng trong quan hệ với các nước lớn
nên thời gian này đối ngoại Việt Nam gặp phải rất nhiều khó khăn, thách thức. Một
mặt, Việt Nam chèo chống với nước láng giềng lớn Trung Quốc đầy tham vọng. Mặt


22
khác, phải chèo chống với sự bao vây, cấm vận của các nước lớn, khiến Việt Nam bị
cô lập với khu vực và quốc tế.
Trong quan hệ với các nước láng giềng cùng khu vực, Việt Nam luôn coi trọng
và ra sức củng cố tình đồn kết chiến đấu của ba nước Đơng Dương, coi đó là quy luật
phát triển cách mạng của ba nước, là điều có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của
cả ba quốc gia. Có thể thấy, xác định đúng đắn, kịp thời tầm quan trọng của quan hệ
với các nước lớn và các nước láng giềng cùng khu vực là vấn đề mang tính chiến lược
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa. Trước
những chuyển biến sâu sắc trong quan hệ quốc tế, Việt Nam cần đánh giá đúng bản
chất mối quan hệ đối ngoại với tất cả các nước. Đặc biệt, tránh đối đầu hoặc lập liên
minh để đối đầu, gây chiến tranh với các nước láng giềng cùng khu vực, chủ động tạo
dựng mơi trường hịa bình, ổn định, thực hiện chủ trương “khép lại quá khứ, hướng tới
tương lai” là yếu tố quan trọng giúp Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại.



23
KẾT LUẬN
Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam năm 1979 là 1 trong 23 cuộc
chiến lớn trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, chính nghĩa và tất
thắng. Bởi đó vẫn là chiến tranh Nhân dân với nghệ thuật quân sự truyền thống theo
lối đánh dựa vào thế núi sông bờ cõi để làm chủ chiến trường, tiêu diệt sinh lực địch,
giữ gìn từng tấc đất giang sơn Tổ quốc cả đất liền và biển đảo.
Chúng ta ôn lại những trang sử hào hùng, vẻ vang của quân và dân ta trong
cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc ở biên giới Tây
Nam và giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, hồi sinh đất nước, để mà
tự hào, biết ơn công lao và sự hy sinh to lớn của các thế hệ cha anh. Chúng ta phải
luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc mọi diễn biến của tình hình,
xác định rõ đối tượng, đối tác của cách mạng, tăng cường xây dựng, củng cố lực lượng
và thế trận QPTD, gắn với thế trận an ninh nhân dân, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu,
thủ đoạn xâm phạm độc lập, chủ quyền của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam XHCN. Đồng thời tiếp tục xây dựng, củng cố và tăng cường mối quan
hệ “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”
giữa Việt Nam và Campuchia vì hịa bình, độc lập dân tộc và sự ổn định, phát triển
trong khu vực và trên thế giới.
Vì thời gian và kiến thức cịn hạn chế, bài thảo luận của nhóm 08 vẫn cịn nhiều
khiếm khuyết, nhóm rất mong nhận về những nhận xét, đóng góp từ cơ và các bạn để
rút kinh nghiệm cho bài nghiên cứu tiếp theo.
Nhóm 08 xin chân thành cảm ơn!


24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. VOV.VN (2014), Hai lý do để Việt Nam đưa quân tình nguyện vào Campuchia,

/>2. Báo Người lao động (2021), "Bóng hồng" đối ngoại: "Nữ Đại sứ đập bàn" và cuộc
đấu tranh ở Liên Hiệp Quốc của Việt Nam, />3. Kênh thông tin Học viện Ngoại giao (2012), Số 19 - Asean: Con đường ba mươi
năm, />4. />5. />%20T1%20sua%20moi%202-1.pdf
6. />

25
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BIÊN BẢN HỌP NHÓM
(Học phần Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam)
Lần họp thứ nhất
1. Thông tin chung
Tên nhóm: Nhóm 08 - 2260HCMI0131
Thời gian họp: 20 giờ - 21 giờ, thứ 7 ngày 05 tháng 11 năm 2022
Địa điểm: Họp online qua Zoom
Số lượng tham gia: 11/11
Vắng: 0
2. Mục đích cuộc họp
Xây dựng đề cương bài thảo luận và phân chia nhiệm vụ cho từng thành viên.
3. Nội dung công việc
3.1. Xây dựng đề cương bài thảo luận
Cả nhóm góp ý và thống nhất làm theo đề cương mà nhóm trưởng đã đề ra.
3.2. Phân chia nhiệm vụ
- Phạm Thị Kiều Oanh: Làm phần 2.2 và 2.3
- Cao Thị Phương: Thuyết trình
- Nguyễn Thị Phương: Làm phần 1.1 và 1.2
- Nguyễn Duy Quang: Làm phần mở đầu và kết luận
- Cao Thị Diễm Quỳnh: Thuyết trình
- Ngô Thị Như Quỳnh: Làm phần 2.1.1
- Vũ Thị Quỳnh: Làm phần 2.1.2

- Đỗ Phương Thảo: Làm powerpoint
- Nguyễn Thu Thảo: Tổng hợp word
- Vũ Lâm Thảo: Làm phần 3.1
- Ngô Duy Mạnh: Làm phần 3.2
4. Đánh giá chung
Các thành viên tham gia đầy đủ đúng giờ, tích cực đóng góp ý kiến cho nhóm.
Cuộc họp diễn ra sơi nổi và đạt được mục đích của cuộc họp.
Trưởng nhóm
Quỳnh
Cao Thị Diễm Quỳnh
Hà Nội, ngày 05 tháng 11 năm 2022

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc


×