Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tìm hiểu về cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam của Tổ quốc và rút ra bài học kinh nghiệm cho lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.75 KB, 21 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KHÁCH SẠN – DU LỊCH
---- ----

BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI
Tìm hiểu về cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam của Tổ quốc và rút
ra bài học kinh nghiệm cho lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam.
GVHD

MỤC LỤC

:

Lớp học phần :

2260HCMI0131

Nhóm thực hiện:

Nhóm 4


2


3


LỜI MỞ ĐẦU
Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân Việt Nam
và nhân dân Cam-pu- chia có chung khát vọng được sống trong hịa bình, độc lập, tự do
để hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, thịnh
vượng. Thế nhưng, ngay sau khi lên cầm quyền ở Campuchia vào tháng 4-1975, tập đoàn
Pol Pot - Iêng Xary đã phản bội lại nhân dân Campuchia, phản bội lợi ích dân tộc, thâu
tóm quyền lực, tước đoạt mọi thành quả cách mạng, thi hành hàng loạt chính sách đối nội,
đối ngoại cực kỳ phản động, hiếu chiến và tàn bạo.
Vậy là mới chỉ được hưởng hịa bình rất ngắn ngủi, nhân dân Việt Nam lại phải bước
vào cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam. Cuộc chiến khơng cịn chỉ là
giành độc lập chủ quyền mà còn biểu hiện cho tinh thần quốc tế cao cả, sự giúp đỡ vơ tư,
chí nghĩa, chí tình của Đảng, Nhà nước, nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam đối với
nhân dân Campuchia.
Thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam đã bảo vệ vững
chắc độc lập dân tộc và giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng. Nhờ đó
quan hệ Việt Nam – Campuchia chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ phát triển hữu nghị và
hợp tác toàn diện. Đồng thời, góp phần giữ vững hịa bình, ổn định ở khu vực Đông Nam
Á và trên thế giới; vạch trần bản chất phản động của tập đoàn Pol Pot- Iêng Xary, cảnh
báo cho nhân loại nguy cơ xuất hiện chủ nghĩa diệt chủng, chủ nghĩa phát xít mới. Những
bài học rút ra từ cuộc chiến tranh đó cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng trong công
cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. Vì vậy
nhóm 4 của chúng em đã chọn đề tài “Tìm hiểu về cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam
của Tổ quốc và rút ra bài học kinh nghiệm cho lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam”


4


5


CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC
CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM
1.1. Bối cảnh của cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam
Từ lâu, nhân dân Việt Nam - Campuchia đã xây dựng tình hữu nghị, đồn kết cùng
chống kẻ thù chung, đặc biệt đã kề vai sát cánh trong hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược giành độc lập và tự do. Tuy nhiên, từ cuối Chiến tranh
Việt Nam, Việt Nam và Campuchia xuất hiện nhiều mâu thuẫn do Campuchia bị các thế
lực phản động nước ngồi kích động, lợi dụng, từ những năm cuối cuộc kháng chiến
chống Mỹ (1970 - 1975), quân Pol Pot đã tiến hành một số vụ tiến cơng, bắt cóc giết hại
cán bộ, bộ đội Việt Nam hoạt động ở chiến trường Campuchia, gây chia rẽ nội bộ những
người cộng sản Campuchia. Năm 1972, nhiều đơn vị của Quân khu 9 sang Campuchia đã
bị Khmer Đỏ giết hại. Một bệnh viện của Sư đoàn 1 tại Takéo cũng bị Pol Pot cho phá
hủy. Tính 6 tháng đầu năm 1972, riêng Quân khu 203 (Quân khu Đông Nam của
Campuchia) đã xảy ra 26 vụ giết bộ đội Việt Nam, 17 vụ cướp vũ khí, 385 vụ bắt cóc, 413
vụ tịch thu hàng hóa. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 1973, quân Pol Pot gây ra 102 vụ,
sát hại và làm bị thương 103 bộ đội Việt Nam, cướp hàng chục tấn lương thực và vũ khí
của quân đội ta. Từ năm 1970 đến 1973, khi Quân đội Nhân dân Việt Nam tập trung lực
lượng đánh Mỹ và chế độ tay sai ở miền Nam thì Khmer Đỏ đã gây ra 174 vụ khiêu
khích, tập kích các hậu cứ, cướp vũ khí, lương thực, giết hơn 600 cán bộ và binh lính của
họ. Tháng 4-1975, sau khi lên nắm quyền, tập đoàn Pol Pot đã phản bội lại sự nghiệp cách
mạng của nhân dân Campuchia và phá hoại truyền thống đoàn kết, hữu nghị của nhân dân
hai nước, cụ thể là:
Ở trong nước, chúng phạm sai lầm đặc biệt nghiêm trọng, thực thi chính sách diệt
chủng tàn khốc, cưỡng bức lao động khổ sai, tra tấn hành hạ dã man người dân
Campuchia; biến trường học, nhà chùa thành nhà tù, khắp mọi nơi đầy những hố chôn
người tập thể… Từ tháng 4-1975 đến cuối năm 1978, chế độ Pol Pot đã giết hại gần 3
triệu người dân Campuchia vơ tội, xóa bỏ mọi cơ sở xã hội, xóa bỏ thành thị, xóa bỏ sản
xuất cơng nghiệp và thủ cơng nghiệp, xóa bỏ quan hệ tiền tệ, bn bán và đẩy Campuchia
đứng trước thảm họa diệt vong.
Đối với Việt Nam, được các thế lực phản động nước ngoài hậu thuẫn, tập đoàn Pol

Pot chủ trương phá hoại quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống lâu đời giữa Việt Nam
và Campuchia; ra sức vu khống Việt Nam, kích động tư tưởng dân tộc hẹp hịi; kích động


6

xét lại quan hệ hai nước, đòi hoạch định lại biên giới Việt Nam - Campuchia và tiến hành
hàng loạt những cuộc xâm lấn biên giới, giết hại dân thường trên biên giới Việt Nam Campuchia.
Năm 1975, khi đất nước ta vừa thống nhất, Pol Pot đã cho quân xâm lược các đảo,
biên giới đất liền Tây Nam nước ta. Ngày 3-5-1975, chúng đánh chiếm đảo Phú Quốc;
ngày 10-5-1975, chúng lại tiếp tục đánh chiếm đảo Thổ Chu, bắt và giết hơn 500 dân
thường. Trên đất liền, chúng khiêu khích bộ đội biên phòng, cho dân di dời cột mốc biên
giới ở một số điểm thuộc các tỉnh Tây Ninh, Kon Tum, Đắk Lắk. Khmer Đỏ tăng cường
xâm lấn vùng tây sông Sa Thầy, nam đường 19 thuộc tỉnh Gia Lai - Kon Tum. Đêm
3/1/1976, Khmer Đỏ tràn sang làng Xộp (xã Mo Ray, huyện Sa Thầy) đốt hết nhà cửa,
cướp phá tài sản và bắt đi 130 dân làng. Đến tháng 6/1976, Khmer Đỏ tăng cường lực
lượng ra sát biên giới, xâm canh lấn đất ở các tỉnh Long An, Bình Phước, Tây Ninh... và
thực hiện các hành động khiêu khích như bắn vào đội tuần tra, uy hiếp nhân dân đang đi
lại làm ăn gần đường biên, tập kích, đốt phá, bắt cóc, gài mìn gây sát thương. Do bị
Khmer Đỏ truy sát, hàng chục ngàn người Campuchia đã chạy trốn sang Lào, Thái Lan,
Việt Nam. Trong 2 năm (1975 - 1976), đã có trên 15.000 người Campuchia chạy sang
Việt Nam. Cuối tháng 4-1977, Pol Pot điều động 5 sư đoàn và hàng trăm khẩu pháo, xe
tăng áp sát biên giới Việt Nam, thực hiện âm mưu xâm lược quy mô lớn vào lãnh thổ
vùng biên giới Tây Nam của nước ta.
1.2.

Nguyên nhân của cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam

Cuộc chiến có nguyên nhân từ các hoạt động quân sự của quân Khmer Đỏ tấn công
vào lãnh thổ Việt Nam, giết chóc người dân và đốt phá làng mạc Việt Nam trong những

năm 1975–1978. Việc đánh đổ Khmer Đỏ đã được thực hiện xong từ năm 1979, tuy nhiên
tàn quân Khmer Đỏ vẫn còn tồn tại và đe dọa chính phủ mới tại Campuchia dẫn tới việc
Việt Nam đóng quân ở lại Campuchia trong suốt 10 năm tiếp theo.
Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Việt Nam buộc phải đứng lên thực hiện
quyền tự vệ chính đáng của mình, đập tan hành động xâm lược của kẻ thù, bảo vệ biên
giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng quân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pol
Pot.
Trước hành động khiêu khích, xâm phạm biên giới Tây Nam Việt Nam của quân Pol
Pot, Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán quan điểm mong muốn Việt Nam và Campuchia
đàm phán ký kết hiệp ước về biên giới giữa hai nước trên tinh thần tôn trọng độc lập, chủ


7

quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tiếp tục phát triển tình đồn kết, hữu nghị giữa nhân
dân hai nước.
Bất chấp mọi nỗ lực ngoại giao hịa bình của Việt Nam, tập đoàn Pol Pot ra sức
tuyên truyền xuyên tạc lịch sử, chủ động gây ra các vụ xung đột, lấn chiếm biên giới Tây
Nam Việt Nam; huy động phần lớn sức mạnh quân sự, hàng chục sư đoàn chủ lực và
nhiều trung đoàn địa phương tiến hành cuộc chiến tranh xâm chiếm biên giới Tây Nam
Việt Nam. Đi đến đâu chúng cũng tàn phá làng mạc, giết hại dã man người dân, kể cả
người già, phụ nữ, trẻ em Việt Nam.
Đáp lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, của
nhân dân Campuchia, Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Việt Nam đã thực hiện
quyền tự vệ chính đáng và thiêng liêng của mình để bảo vệ chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ
Tổ quốc, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân; đồng thời cùng với lực lượng vũ trang
và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng, giúp đỡ những người cách mạng chân
chính Campuchia.

CHƯƠNG 2: DIỄN BIẾN, KẾT QUẢ VÀ Ý NGHĨA CUỘC CHIẾN

TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM
2.1 Diễn biến cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam
2.1.1. Giai đoạn 1 (từ ngày 30/4/1977 đến ngày 05/01/1978) của chiến tranh biên giới
Tây Nam
Mở đầu cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, Pol Pot tiến hành ba cuộc tiến công
quy mô lớn sang lãnh thổ Việt Nam.
Ngày 30/4/1977, chúng đánh vào 14 trong số 16 xã biên giới thuộc tỉnh An Giang,
tàn phá các bản làng, trường học, cơ sở sản xuất, những nơi đông dân cư ở sát biên giới và
sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Các cuộc tiến cơng và pháo kích của qn Pol Pot đã khiến
An Giang chìm trong bể máu. Tính đến ngày 19/5/1977, quân Pol Pot đã giết chết 222
người và làm 614 người dân Việt Nam bị thương, phá nhiều nhà cửa, tài sản của nhân
dân….
Trước hành động xâm lược trắng trợn, giết dân thường dã man của quân Pol Pot, các
lực lượng biên phịng và dân qn, du kích các xã Vĩnh Xương, Vĩnh Gia, Nhân Hưng…


8

đã anh dũng chiến đấu, ngăn chặn địch. Quân đội Việt Nam đã sử dụng 1 trung đoàn
(thuộc Sư đoàn 301), 1 trung đoàn tàu thuyền và 2 tiểu đoàn địa phương An Giang đánh
trả, diệt 300 tên, buộc quân Pol Pot rút về bên kia biên giới.
Ngày 23/5/1977, Quân ủy Trung ương ra chỉ thị cho lực lượng vũ trang ở phía Nam:
“Kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của ta, không dung thứ bất cứ sự xâm lấn nào của
lực lượng khiêu khích, phản động Campuchia vào lãnh thổ ta; đồng thời tôn trọng chủ
quyền lãnh thổ của Campuchia. Tìm mọi cách làm nhụt tinh thần của bọn khiêu khích.
Tuyên truyền vận động nhân dân bạn và tranh thủ sự đồng tình của dư luận, tạo điều kiện
ổn định một bước biên giới với Campuchia. Đập tan âm mưu chia rẽ các nước anh em
trên bán đảo Đông Dương”.
Thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương, các đơn vị Quân khu 5, Quân khu 7,
Quân khu 9, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 tổ chức điều chỉnh lực lượng, phương tiện, xây

dựng phương án, sẵn sàng chiến đấu; các binh chủng Công binh, Pháo binh triển khai một
số đơn vị sẵn sàng đánh địch ở các hướng; mạng thông tin liên lạc từ quân khu tới các
đồn, chốt biên phòng được tăng cường thêm lực lượng và phương tiện.
Từ ngày 25/9/1977, quân Pol Pot tập trung 9 sư đoàn chủ lực cùng lực lượng địa
phương mở cuộc tiến công lớn thứ hai sang địa bàn các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Long
An, Đồng Tháp lên hướng Tây Ninh, gây nhiều tội ác đối với nhân dân Việt Nam. Riêng ở
ba xã thuộc các huyện Tân Biên, Bến Cầu (Tây Ninh), quân Pol Pot đã tàn sát trên 1.000
người dân.
Bộ Tổng Tham mưu quyết định sử dụng một bộ phận lực lượng chủ lực cơ động của
Bộ đánh lui các cuộc tiến công của quân Pol Pot ở nhiều khu vực trên biên giới, giành lại
những khu vực bị lấn chiếm, sau đó lui về củng cố lực lượng.
Ngày 15/11/1977, quân Pol Pot mở cuộc tiến công mới nhằm đánh chiếm thị xã Tây
Ninh.
Ngày 5/12/1977 đến 05/01/1978, Quân đoàn 4, Quân đoàn 3 và Quân khu 7, Quân
khu 9 tập trung 8 sư đoàn mở đợt phản công trên các hướng đường 7, đường 1, đường 2,
truy kích quân Pol Pot sâu vào đất Campuchia 20 – 30 km; đánh thiệt hại 5 sư đoàn, làm
thất bại kế hoạch đánh chiếm thị xã Tây Ninh của địch.


9

Sau đó, tập đồn Pol Pot thực hiện thủ đoạn “vừa ăn cướp, vừa la làng”, đưa chiến
tranh biên giới Tây Nam ra trước dư luận thế giới, vu khống Quân đội Việt Nam xâm lược
Campuchia nhằm cô lập Việt Nam trên trường quốc tế.
Đáp lại lời vu khống trên, ngày 31/12/1977, Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố về vấn
đề biên giới Việt Nam – Campuchia, nêu rõ lập trường và nguyên tắc của ta là: Kiên quyết
bảo vệ độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ mình; ln ln tơn trọng độc lập, chủ
quyền và tồn vẹn lãnh thổ của Campuchia; vạch trần âm mưu thủ đoạn và những tội ác
man rợ của tập đoàn Pol Pot đối với đồng bào ta ở các tỉnh vùng biên giới Tây Nam.
Tuy nhiên, mọi nỗ lực ngoại giao nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên giới

của Chính phủ ta đều bị tập đồn Pol Pot từ chối. Chúng tiếp tục phát động cuộc chiến
tranh biên giới Tây Nam nước ta.
2.1.2. Giai đoạn 2 (từ ngày 06/01/1978 đến ngày 07/01/1979) của chiến tranh biên giới
Tây Nam
Tập đoàn phản động Pol Pot xâm lược trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, Quân tình
nguyện Việt Nam mở cuộc tổng phản công và cùng quân dân Campuchia tiến công đánh
đổ chế độ diệt chủng Pol Pot.
Dù bị đánh cho tơi tả nhưng do vẫn được hỗ trợ về vũ khí, trang bị và cố vấn quân
sự từ bên ngoài, quân Pol Pot tiếp tục chuẩn bị lực lượng, tập trung quân về biên giới Việt
Nam. Tháng 1/1978, Pol Pot đưa thêm 2 sư đoàn ra biên giới, tiếp tục gây xung đột, liên
tục tấn công lấn chiếm, bắn pháo và những nơi đông dân cư, gây nhiều tội ác với đồng
bào ta.
Bộ Tổng Tham mưu điều động Sư đoàn 341 (Quân đoàn 4) tăng cường cho Quân
khu 9, sẵn sàng chiến đấu; đồng thời ra lệnh cho các đơn vị ta trên toàn tuyến biên giới
Tây Nam nâng cao cảnh giác, thực hiện phịng ngự tích cực để hỗ trợ cho Đảng, Nhà
nước ta thực hiện đấu tranh chính trị và ngoại giao.
Ngày 05/01/1978, Chính phủ nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra tuyên bố
ba điểm: (1) Chấm dứt mọi hoạt động quân sự, rút lực lượng vũ trang cách biên giới 5km;
(2) Hội đàm tiến tới ký hiệp ước hữu nghị và không xâm lược, ký hiệp ước về biên giới;
(3) Thỏa thuận về một hình thức thích hợp bảo đảm thơng lệ quốc tế và giám sát quốc tế.


10

Phớt lờ thiện chí và các nỗ lực ngoại giao của ta, quân Pol Pot tiếp tục huy động lực
lượng áp sát biên giới và cho quân tiến công, xâm nhập nhiều điểm trên địa phận nước ta;
lực lượng của ta đã kiên quyết đánh trả, giành lại các khu vực bị lấn chiếm.
Từ ngày 26/3/1978, các đơn vị của Quân đội ta chuyển sang tiến công, đẩy quân Pol
Pot lùi xa dần biên giới và dồn đối phương vào thế bị động, đối phó. Địn phản cơng
quyết liệt của Việt Nam trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao đã đẩy qn

Pol Pot vào tình thế khó khăn và tác động lớn đến hình hình chính trị nội bộ Campuchia;
đồng thời hỗ trợ trực tiếp cho phong trào nổi dậy của các lực lượng cách mạng
Campuchia phát triển, đỉnh cao là cuộc nổi dậy từ ngày 26/5/1978 ở Quân khu Đông, làm
suy yếu một bộ phận lực lượng quân Pol Pot. Lực lượng cách mạng Campuchia đã lập
được những khu căn cứ du kích có điều kiện thuận lợi về nhiều mặt, nhất là những khu
căn cứ gần Việt Nam, từng bước hình thành sự chỉ đạo thống nhất.
Ngày 15/6/1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp bàn về chống lại cuộc
chiến tranh biên giới Tây Nam và tình hình căng thẳng ở biên giới phía Bắc, trong đó
quyết định phát động chiến tranh nhân dân, kiên quyết phản công và tiến công địch một
cách chủ động, liên tục bằng mọi lực lượng, với các quy mô nhỏ, vừa và lớn, đánh địch cả
trong và ngoài biên giới, tiêu diệt, tiêu hao và làm tan rã một bộ phận quan trọng sinh lực
địch.
Sau cuộc nổi dậy của lực lượng cách mạng Campuchia ở Quân khu Đông ngày
26/5/1978, quân Pol Pot vừa ráo riết thanh trừng nội bộ, vừa phải đối phó với lực lượng
cách mạng Campuchia vẫn đang tiếp tục hoạt động ở nhiều nơi. Để hỗ trợ cho lực lượng
cách mạng Campuchia tồn tại và phát triển, tạo thế cho hoạt động của ta vào mùa khô
1979, từ ngày 14/6 đến ngày 30/9/1978, ta sử dụng Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 và 2 sư
đoàn (thuộc Quân khu 7), 2 sư đoàn (thuộc Quân khu 5) mở tiếp đợt tiến công lớn trên
các hướng đường 1, đường 7, vùng giáp biên giới Tây Ninh và đường 19 kéo dài nhằm
tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, tiến tới làm suy yếu một bước lực lượng
quân Pol Pot.
Do bị bất ngờ hồn tồn về thời gian, quy mơ và phương thức hoạt động của ta,
quân Pol Pot rơi vào thế bị động, ngay ngày đầu đã bị ta đánh thiệt hại và tê liệt một số sư
đồn. Cuộc tiến cơng của ta đã hỗ trợ kịp thời cho lực lượng cách mạng Campuchia ở
Quân khu Đông, buộc quân Pol Pot bị động đối phó trên cả hai mặt trận biên giới và nội
địa. Ở nhiều khu vực quan trọng, lực lượng nổi dậy đã lập được căn cứ, dựa vào dân để
phát triển lực lượng. Phối hợp với lực lượng cách mạng Campuchia trong đợt tiến công


11


này, ta loại khỏi vịng chiến đấu 6 sư đồn, làm suy yếu nghiêm trọng lực lượng chủ lực
quân Pol Pot, đẩy lùi hầu hết quân Pol Pot ra khỏi đất Việt Nam.
Trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 11/1978, Việt Nam đã giúp lực lượng vũ trang
cách mạng Campuchia phát triển được 15 tiểu đoàn, 5 khung tiểu đồn, 24 đội cơng tác,
xây dựng được các tổ chức đảng, chuẩn bị thành lập mặt trận và bộ máy lãnh đạo. Với sự
giúp đỡ của Việt Nam, ngày 02/12/1978, tại vùng giải phóng thuộc xã Chơng Th’nu,
huyện Snuol, tỉnh Kratié (Campuchia), Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia ra
mắt nhân dân Campuchia, công bố cương lĩnh cách mạng 11 điểm, trong đó nêu rõ quyết
tâm đồn kết, tập hợp mọi lực lượng yêu nước nổi dậy đánh đổ tập đồn phản động Pol
Pot, xóa bỏ chế độ diệt chủng tàn ác, thiết lập chế độ dân chủ nhân dân; khẳng định tăng
cường tình đồn kết với nhân dân Việt Nam và nhân dân u chuộng hịa bình, cơng lý
trên thế giới; kêu gọi chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế giúp đỡ mọi mặt cho cuộc
đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Campuchia.
Phát hiện quân Pol Pot có ý định tập trung 5 sư đồn và 4 trung đồn tiến cơng đánh
chiếm Tây Ninh, sau đó sẽ mở rộng địa bàn đánh chiếm lãnh thổ Việt Nam, ngày 06 và 07
tháng 12/1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua quyết tâm tổng phản công
– tiến công chiến lược tiêu diệt quân địch, hoàn thành cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới
Tây Nam của Tổ quốc; đồng thời sẵn sàng hỗ trợ lực lượng vũ trang cách mạng
Campuchia nổi dậy đánh đổ tập đồn Pol Pot diệt chủng, giành chính quyền về tay nhân
dân.
Phát hiện sự chuẩn bị của ta, quân Pol Pot tập trung phần lớn lực lượng chủ lực bố
trí dọc biên giới với Việt Nam, tồn bộ phía sau hầu như trống rỗng. Ngày 23/12/1978,
quân Pol Pot huy động 10 trong số 19 sư đồn đang bố trí ở biên giới mở cuộc tiến cơng
trên tồn tuyến biên giới Tây Nam nước ta.
Trước hành động xâm lược của quân Pol Pot và đáp lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt
trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, ngày 23/12/1978, Quân tình nguyện Việt
Nam cùng với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia mở cuộc tổng phản công – tiến
công trên toàn tuyến biên giới.
Cuối tháng 12/1978, toàn bộ hệ thống phịng thủ vịng ngồi của qn Pol Pot bị phá

vỡ. Đến ngày 31/12/1978, quân và dân ta đã hoàn thành nhiệm vụ đánh đuổi quân Pol
Pot, thu hồi toàn bộ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc bị kẻ thù lấn chiếm.


12

Ngày 02/01/1979, ba cụm quân chủ lực của Pol Pot, mỗi cụm 5 sư đoàn, án ngữ
các trục đường tiến về Phnôm Pênh (đường 1, đường 7 và đường 2) cơ bản bị tiêu diệt và
tan rã. Ngày 05 và 06 tháng 01/1979, trên tất cả các hướng, quân Pol Pot khơng cản được
Qn tình nguyện Việt Nam truy kích và tiến sát Thủ đơ Phnơm Pênh.
Ngày 06/01/1979, Qn tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang của Mặt trận
Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia bắt đầu tổng cơng kích vào Thủ đơ Phnơm Pênh.
Sau 2 ngày tổng cơng kích, ngày 07/01/1979, Thủ đơ Phnơm Pênh hồn tồn được giải
phóng, trong đó hơn 3 triệu dân Campuchia chết dưới nạn diệt chủng của Pol Pot.
Ngày 08/01/1979, Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia được thành lập và ra
tuyên bố: Xóa bỏ hồn tồn chế độ diệt chủng của tập đồn Pol Pot, thành lập chế độ
Cộng hịa nhân dân Campuchia. Việt Nam cùng nhiều nước đã công nhận nước Cộng hịa
nhân dân Campuchia.
Ngày 17/01/1979, tồn bộ đất nước Campuchia được giải phóng; phần lớn lực lượng
Pol Pot bị tiêu diệt và tan rã, số còn lại lẩn trốn vào rừng trên tuyến biên giới phía Tây,
Tây Bắc Campuchia.
Từ ngày 23/12/1978 đến 17/01/1979, Quân tình nguyện Việt Nam cùng với lực
lượng vũ trang cách mạng Campuchia đã tiêu diệt và làm tan rã 18 sư đoàn quân Pol Pot,
diệt 12 nghìn tên, bắt 8.800 tên, gọi hàng 3.200 tên và làm tan rã tại chỗ 44 nghìn tên; giải
phóng trên 4 triệu dân Campuchia, thu hồi toàn bộ cơ sở vật chất và phương tiện kỹ thuật
quân sự của quân Pol Pot; đập tan bộ máy thống trị của tập đoàn phản động Pol Pot trung
ương đến cơ sở.

2.2. Kết quả cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam
Từ ngày 23/12/1978 đến 17/01/1979, quân tình nguyện Việt Nam cùng với lực

lượng vũ trang cách mạng Campuchia đã tiêu diệt và làm tan rã 18 sư đồn qn Pơn Pốt,
diệt 12 nghìn tên, bắt 8.800 tên, gọi hàng 3.200 tên và làm tan rã tại chỗ 44 nghìn tên; giải
phóng trên 4 triệu dân Campuchia, thu hồi toàn bộ cơ sở vật chất và phương tiện kỹ thuật
quân sự của quân Pôn Pốt; đập tan bộ máy thống trị của tập đồn phản động Pơn Pốt từ
trung ương đến cơ sở.
Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia được sự giúp
đỡ, phối hợp và hỗ trợ giữa quân Việt Nam và Campuchia đã đập tan được chính quyền
phản động Pơn Pốt từ trung ương đến cơ sở. Ngày 7/1/1979 thủ đô Phnom Penh đã được


13

giải phóng hồn tồn, nước cộng hịa nhân dân Campuchia và Hội đồng nhân dân cách
mạng Campuchia tuyên bố thành lập.
Tóm lại, cuộc chiến biên giới Tây Nam là cuộc chiến tranh tự vệ chính đáng, là cuộc
chiến nhân đạo giúp Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng và giúp họ xây dựng chính
quyền Campuchia mới.

2.3. Ý nghĩa của cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam của Tổ quốc
Chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng quân, dân
Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng có ý nghĩa lớn lao khơng chỉ với Việt Nam và
Campuchia mà với cả khu vực cũng như thế giới.
Đối với Việt Nam
Khẳng định nhân dân Việt Nam với ý chí độc lập, tự chủ và tinh thần đồn kết dân
tộc, đoàn kết quốc tế trong sáng, sẵn sàng đập tan bất kỳ âm mưu và hành động chống phá
nào của các thế lực phản động, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc. Thể hiện tinh thần quốc tế cao cả, quan hệ truyền thống gắn bó thủy chung,
lâu đời, sự giúp đỡ trong sáng, chí nghĩa, chí tình của Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân
dân Việt Nam đối với nhân dân Campuchia.
Đối với nhân dân Campuchia

Xóa bỏ hồn tồn chế độ diệt chủng của tập đoàn Pol Pot, thành lập chế độ Cộng
hòa nhân dân Campuchia. Cứu nhân dân Campuchia ra khỏi thảm họa diệt chủng, giành
lại quyền được sống, quyền làm người và bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do thật sự, hồi
sinh đất nước và dân tộc, xây dựng cuộc sống hịa bình, tươi đẹp.
Đối với quốc tế
Thể hiện sức mạnh của tinh thần đoàn kết quốc tế, sự thủy chung, trọn nghĩa vẹn
tình giữa hai dân tộc Việt Nam - Campuchia.
Đưa quan hệ hai nước chuyển sang thời kỳ khơi phục, vun đắp tình đồn kết, hữu
nghị truyền thống và hợp tác toàn diện dựa trên nguyên tắc hịa bình, tơn trọng độc lập,
chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của nhau, tơn trọng lợi ích chính đáng của nhau vì sự phát
triển và phồn vinh của mỗi nước.


14

Góp phần giữ vững hịa bình, ổn định ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới.
Đấu tranh vạch trần bản chất của chế độ phân biệt chủng tộc, sắc tộc, chế độ độc tài
và cảnh báo nhân loại cảnh giác trước nguy cơ của chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi và chủ nghĩa
phát xít mới.


15

CHƯƠNG 3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO LĨNH VỰC ĐỐI
NGOẠI CỦA VIỆT NAM
Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam đã giúp Đảng và quân dân ta rút ra nhiều bài
học cảnh giác quốc tế hết sức sâu sắc. Việt Nam là một đất nước u chuộng hịa bình và
ln có trách nhiệm với nền hịa bình thế giới. Vì vậy, từ bao đời nay, mọi sự tranh chấp
quốc tế, Việt Nam đều chọn trước tiên là giải pháp đấu tranh hịa bình theo luật pháp quốc
tế, chủ yếu qua đàm phán hoặc xây dựng các hiệp ước, hiệp định hữu nghị và hợp tác. Tuy

nhiên, khi cần thì ta sẵn sàng đấu tranh cương quyết theo đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, lấy sức ta để lo cho ta, không lệ thuộc và trông chờ vào sự cảm thông hay giúp đỡ
của nước khác. Từ đó, rút ra các bài học kinh nghiệm cho lĩnh vực đối ngoại của Việt
Nam là:
3.1. Luôn đề cao tinh thần cảnh giác, không để bị động, bất ngờ trước những
âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch hay những kẻ ảo tưởng với chiêu bài chủ
nghĩa dân tộc:
Điều quan trọng là phải luôn đề cao tinh thần cảnh giác, không để bị động, bất ngờ
trước những âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch hay những kẻ ảo tưởng với chiêu
bài chủ nghĩa dân tộc. Cần nhớ rằng, trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ
từ năm 1970, tập đoàn Pol Pot đã tỏ rõ thái độ chống Việt Nam, ra sức xun tạc, bơi nhọ
hình ảnh Việt Nam, kích động thù hằn dân tộc, địi hoạch định lại biên giới, coi Việt Nam
là “kẻ thù số một”. Chúng đã thực hiện nhiều cuộc bắt bớ, thủ tiêu cán bộ Việt Nam và
đảng viên cộng sản Campuchia thân Việt Nam. Sau thắng lợi 1975, do nhiều nguyên nhân
chủ quan lẫn khách quan, ta chưa kịp thời đánh giá đúng bản chất, âm mưu, thủ đoạn của
kẻ thù. Vì thế, thời gian đầu, ta đã bị động, bất ngờ trong việc xác định đối tượng tác
chiến, gặp khó khăn trước các đợt tiến công xâm lấn của quân Khmer Đỏ. Đây là điều hết
sức đáng tiếc và là bài học xương máu trong công tác đối ngoại và quốc phịng của ta khi
đó.
Trong tình hình thế giới nhiều biến động phức tạp như hiện nay, sự đấu tranh không
khoan nhượng giữa các ý thức hệ và sự cạnh tranh khốc liệt về lợi ích địa chính trị trên
phạm vi tồn cầu và khu vực, địi hỏi tồn Đảng, tồn dân và tồn qn ta phải ln tỉnh
táo, nêu cao hơn nữa tinh thần cảnh giác cách mạng. Cần tiếp tục phát huy sức mạnh của
chiến tranh nhân dân (cái làm nên sức mạnh vô địch mà bất kỳ đội quân thiện chiến nào
cũng phải chịu thất bại khi đối đầu với Việt Nam), kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh về kinh


16

tế, quân sự, chính trị và ngoại giao để sớm phát hiện, nhận rõ kẻ thù chiến lược; xác định,

đánh giá đúng đối tượng và đối tác trong từng thời điểm; chủ động chuẩn bị về tư tưởng,
chính trị, lực lượng và thế trận, sẵn sàng đánh bại bất kỳ cuộc chiến tranh xâm lược nào.
Đặc biệt, phải nắm bắt, dự báo được các xu hướng trong quan hệ quốc tế, khu vực cũng
như mục tiêu, lợi ích, ý đồ chiến lược của từng nước, nhất là các nước lớn; tiếp tục tăng
cường, giữ vững quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đơng Dương.
3.2. Đa dạng hóa, đa phương đường lối đối ngoại
Chính từ kinh nghiệm đấu tranh chống thực dân, đế quốc trong quá khứ và qua cuộc
chiến tranh biên giới Tây Nam, Đảng ta sáng tạo đề ra đường lối đối ngoại đa phương, đa
dạng hóa, sẵn sàng làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới như hiện nay, áp dụng
chính sách quốc phịng “Ba không” (không tham gia các liên minh quân sự, không là
đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở
Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia). Đây rõ ràng là sách lược ngoại
giao khôn khéo của một nước nhỏ, tránh sự lợi dụng của các cường quốc với nhiều tham
vọng địa chính trị, sẵn sàng đi đêm với nhau và sau đó mặc cả với nhau trên lưng của
mình.
Đại hội Đảng tồn quốc thứ XIII cũng tiếp tục xác định nhiệm vụ đối ngoại là “Trên
cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững
môi trường hịa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất
nước, nâng cao đời sống Nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần
vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.Việc vừa
hợp tác, vừa đấu tranh, theo Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh, đó
là phải thấy rõ tính chất hai mặt trong quan hệ với mọi đối tác, trong xử lý mọi sự việc
nảy sinh để không bỏ lỡ bất kỳ một cơ hội hợp tác nào, nhưng cũng không lơ là mất cảnh
giác. Chúng ta tin chắc rằng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, khôn khéo, bản lĩnh của Đảng,
quân đội và Nhân dân ta sẽ bảo vệ vững chắc chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, quyết
không để mất dù chỉ một tấc đất, một tấc biển vốn đã từng gắn bó với dân tộc Việt Nam từ
bao đời nay.
3.3. Nhạy bén nắm bắt tình hình thế giới, khu vực, tăng cường hợp tác, đối

ngoại quốc phòng với các nước, nhất là các nước láng giềng.


17

Cùng với chủ trương phát huy cao độ sức mạnh nội lực, tinh thần độc lập, tự chủ,
Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng và không ngừng tăng cường, củng cố đoàn kết
quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ từ bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh quốc tế,
nội lực với ngoại lực tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù, giữ vững nền độc
lập dân tộc. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan, chủ quan, sau cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta đã đánh giá không đúng mức về tương quan lực
lượng trên thế giới cũng như trong khu vực; chưa thấy hết xu hướng đặt lợi ích quốc gia
lên trên sự liên kết về ý thức hệ. Do đó, chúng ta bị bất ngờ, rơi vào thế bị động trước
những diễn biến mới của thời cuộc.
Tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, địi hịi chúng ta phải ln
bám sát tình hình, vận dụng phương pháp khoa học để đánh giá đúng cục diện thế giới, đề
ra đường lối, chính sách phù hợp phục vụ cho chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, phải
nắm bắt, dự báo được các xu hướng trong quan hệ quốc tế, khu vực cũng như mục tiêu,
lợi ích, ý đồ chiến lược của từng nước, nhất là các nước lớn.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương, công tác đối
ngoại quốc phòng là một trong những trụ cột để củng cố, tăng cường quan hệ với các
nước láng giềng, nước lớn, các nước trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)
và các nước trên thế giới; là kênh quan trọng, hiệu quả, góp phần bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân
tộc, nâng cao vai trò, vị thế của đất nước, của Quân đội trên trường quốc tế. Để nâng cao
hơn nữa vai trò và hiệu quả của cơng tác đối ngoại quốc phịng, chúng ta cần tiếp tục quán
triệt sâu sắc và triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 806-NQ/QUTW, ngày 3112-2013, của Quân ủy Trung ương, “Về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến
năm 2020 và những năm tiếp theo”. Thống nhất mục tiêu nhất quán và xuyên suốt của hội
nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ vững ổn định chính trị, tạo mơi

trường hịa bình và tạo điều kiện thuận lợi cho các lĩnh vực khác hội nhập quốc tế để xây
dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong tổ chức thực hiện, công tác đối ngoại quốc phòng cần quán triệt và thực hiện
nghiêm túc các quan điểm chỉ đạo có tính ngun tắc trong đường lối đối ngoại của Đảng,
đó là: giữ vững độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ; với
phương châm: tích cực, chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả, “vừa hợp tác, vừa đấu
tranh”. Tiếp tục đưa cơng tác đối ngoại quốc phịng đi vào chiều sâu, bền vững, trong đó
ưu tiên hợp tác với các nước láng giềng, có chung đường biên giới, các nước trong khu


18

vực, phát triển mối quan hệ hợp tác với các nước lớn, tăng cường quan hệ với các nước
bạn bè truyền thống và các nước công nghiệp phát triển, nhằm hướng tới mục tiêu cao
nhất là tăng cường quốc phòng, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn Tổ quốc.


19

KẾT LUẬN
Thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc đã đập tan
âm mưu, thủ đoạn thâm độc của tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary và các thế lực phản động
quốc tế, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; xóa bỏ
chính quyền phản động Pol Pot-Ieng Sary, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi bờ vực
của thảm họa diệt chủng, giành lại quyền được sống, quyền làm người và bước vào kỷ
nguyên độc lập, tự do thật sự; chặn đứng mưu đồ chia rẽ truyền thống đoàn kết lâu đời
của ba nước Đông Dương. Chiến thắng ngày 7-1-1979 là thắng lợi chung của nhân dân
hai nước Việt Nam và Campuchia; thắng lợi của tinh thần quốc tế cao cả, sự giúp đỡ vơ
tư, chí nghĩa, chí tình của Đảng, Nhà nước, nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam đối

với nhân dân Campuchia. Quan hệ Việt Nam-Campuchia chuyển sang thời kỳ mới, thời
kỳ phát triển hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai nước dựa trên ngun tắc hịa bình,
tơn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của nhau, vì sự phát triển và phồn vinh
của mỗi nước. Đồng thời góp phần giữ vững hịa bình, ổn định ở khu vực Đơng Nam Á và
trên thế giới; vạch trần bản chất phản động của tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary, cảnh báo cho
nhân loại nguy cơ xuất hiện chủ nghĩa diệt chủng, chủ nghĩa phát xít mới. Cuộc đã để lại
nhiều bài học trong lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam.


20

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BIÊN BẢN HỌP LẦN 1
<Học phần Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam>
- Thời gian: 22h - 23h ngày 8/11/2022
- Địa điểm: tạo phòng họp qua Google Meet
- Thành phần tham gia:
1

Nguyễn Thị Hiền

2

Nguyễn Thị Thanh Hiền

3

Trần Thị Hiền


4

Lê Nguyên Hiếu

5

Đinh Thị Hoa

6

Nguyễn Thị Hồng

7

Triệu Thị Hồng

8

Lê Văn Hùng

9

Nguyễn Bá Hùng

10

Nguyễn Thị Hường

- Có mặt: 10


Vắng: 0

- Nội dung buổi họp: Các thành viên tìm hiểu đề tài thảo luận, lên dàn ý đề cương và nhận các
phần cơng việc của mình. Sau đó đưa ra thời gian nộp bài của nhóm là 14/10/2022
- Q trình diễn ra buổi họp: Các thành viên sơi nổi, tích cực đóng góp ý kiến, có trách nhiệm
trong việc xây dựng và làm báo cáo nhóm
- Đánh giá buổi họp: buổi họp diễn ra thành công, các nhiệm vụ được phân chia cụ thể và có thời
hạn nộp rõ ràng.
Hà Nội, ngày 8 tháng 11 năm 2022
Nhóm trường
Hường
Nguyễn Thị Hường


21

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BIÊN BẢN HỌP LẦN 2
<Học phần Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam >
- Thời gian: 21h - 22h ngày 17/11 /2022
- Địa điểm: tạo phòng họp qua Google Meet
- Thành phần tham gia:
1

Nguyễn Thị Hiền

2

Nguyễn Thị Thanh Hiền


3

Trần Thị Hiền

4

Lê Nguyên Hiếu

5

Đinh Thị Hoa

6

Nguyễn Thị Hồng

7

Triệu Thị Hồng

8

Lê Văn Hùng

9

Nguyễn Bá Hùng

10


Nguyễn Thị Hường

- Có mặt: 9

Vắng: 0

- Nội dung buổi họp: Thống nhất lại nội dung của bài thảo luận, đóng góp ý kiến cho phần việc
của các thành viên.
- Quá trình diễn ra buổi họp: Các thành viên sơi nổi, tích cực đóng góp ý kiến, có trách nhiệm
trong việc xây dựng và làm báo cáo nhóm
- Đánh giá buổi họp: buổi họp diễn ra thành công, các nhiệm vụ được phân chia cụ thể.
Hà Nội, ngày 17 tháng 11 năm 2022
Nhóm trường
Hường
Nguyễn Thị Hường


22

BẢNG ĐÁNH GIÁ CÁC THÀNH VIÊN NHÓM
STT

Họ và tên

Nhiệm
vụ

Nhận xét


1

Nguyễn Thị Hiền

2.3

Hồn thành nhiệm vụ được giao,
chưa tích cực tham gia đóng góp
ý kiến

2

Nguyễn Thị
Thanh Hiền

3

Hồn thành nhiệm vụ được giao,
tích cực tham gia đóng góp ý
kiến

3

Trần Thị Hiền

1

Hồn thành tốt nhiệm vụ được
giao, tích cực tham gia đóng góp
ý kiến


4

Lê Ngun Hiếu

2.1

Hồn thành nhiệm vụ được giao,
có tham gia đóng góp ý kiến

5

Đinh Thị Hoa

2.3

Hồn thành nhiệm vụ được giao

6

Nguyễn Thị
Hồng

2.2

Hồn thành nhiệm vụ được giao,
tích cực tham gia đóng góp ý
kiến

7


Triệu Thị Hồng

Phản
biện

Hồn thành nhiệm vụ được giao

8

Lê Văn Hùng

Power
point

Hồn thành tốt nhiệm vụ được
giao, tích cực tham gia đóng góp
ý kiến

9

Nguyễn Bá Hùng

3

Có hoạt động

10

Nguyễn Thị

Hường (nhóm
trưởng)

Mở
đầu +
Kết
luận +

Hồn thành tốt nhiệm vụ được
giao, tích cực tham gia đóng góp
ý kiến

Điểm

Chữ ký


23

word



×