Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bài thu hoạch lớp CCLLCT môn CNXH xây DỰNG và PHÁT TRIỂN GIAI cấp CÔNG NHÂN THỜI kỳ đẩy MẠNH CÔNG NGHIỆP hóa HIỆN đại hóa đất nước THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT đại hội XIII củ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.57 KB, 12 trang )

1
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN THỜI KỲ
ĐẨY MẠNH CƠNG NGHIỆP HĨA HIỆN ĐẠI HĨA ĐẤT NƯỚC THEO
TINH THẦN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG
PHẦN MỞ ĐẦU
Từ ngày 12 đến ngày 19 tháng 1 năm 2011, tại Hà Nội đã diễn ra Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội lần thứ XI
của Đảng đã tổ chức thảo luận và thông qua nhiều nội dung quan trọng trong đó
có chiến lược xây dựng và phát triển giai cấp cơng nhân Việt Nam trong thời kỳ
mới, trong đó khẳng định: "Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển
giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị,
trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ
luật lao động, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố và
hội nhập quốc tế. Phát huy vai trị của giai cấp cơng nhân là giai cấp lãnh đạo
cách mạng, thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam". Có thể thấy,
quan điểm trên đây của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Đại hội XI khơng chỉ là
sự tiếp tục kiên trì khẳng định các quan điểm của các kỳ Đại hội, các Hội nghị
Trung ương trước đó, đặc biệt là Nghị quyết số 20-NQ/TW của Hội nghị lần thứ
6 Ban chấp hành Trung ương khóa X về "Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", mà cịn
thể hiện của tư duy mới, sách lược mới trong xây dựng và phát triển giai cấp
công nhân Việt Nam trong điều kiện mới.
Trong suốt tiến trình lịch sử của cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn khẳng
định: giai cấp công nhân luôn là động lực chính, là lực lượng lãnh đạo của cách
mạng Việt Nam. Mặc dù là đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam
những kể từ khi ra đời Đảng lại luôn chú trọng tới việc xây dựng và phát triển
giai cấp công nhân và sự phát triển của giai cấp cơng nhân trong suốt tiến trình


2
cách mạng đã qua càng khơng thể thiếu vai trị lãnh đạo của Đảng. Lịch sử xây


dựng và trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam trong các giai đoạn cách
mạng đã qua, đặc biệt trong tiến trình đổi mới hiện nay đã chứng minh điều đó.


3
PHẦN NỘI DUNG
1. Quan niệm về giai cấp công nhân và sử mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân Việt Nam
- Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên đã tiếp thu chủ
nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng trở
thành lực lượng chính trị tự giác thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo
dục, đã sớm giác ngộ, mục tiêu, lý tưởng chân lý của thời đại: độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, giai cấp cơng nhân Việt Nam ln ln có tinh thần và bản
chất cách mạng triệt để.
- Trong thời gian chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc trở đi, do ảnh
hưởng sâu sắc của cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và sự truyền bá Chủ
nghĩa Mác - Lênin vào phong trào cơng nhân Việt Nam đã có bước chuyển biến
sâu sắc về chất. Giai cấp công nhân đã từng bước giác ngộ về mình, về địa vị,
vai trị của mình trong xã hội, trong cách mạng Việt Nam và ngày càng tiến tới
sự tự giác. Sự ra đời của Công hội đỏ Bắc Kỳ (28/7/1929) và Đảng Cộng sản
Việt Nam (3/2/1930) là mốc lịch sử đánh dấu bước phát triển mới về chất của
giai cấp công nhân Việt Nam: từ sự tự phát lên sự tự giác.
- Từ đây, giai cấp công nhân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam - đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu, lãnh tụ chính trị của giai
cấp công nhân - đã không ngừng vươn lên và phát triển mọi mặt, từng bước giác
ngộ và thực hiện hố sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Và cũng từ đây giai cấp
công nhân Việt Nam - thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam - bước lên vũ đài
chính trị nắm quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Cao trào cách mạng năm
1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh và cao trào cách mạng dân chủ
1936-1939 chứng tỏ sự trưởng thành nhanh chóng vượt bậc của giai cấp cơng

nhân Việt Nam về mặt chính trị, về ý thức giai cấp, về tinh thần đồn kết, tính kỷ


4
luật trong đấu tranh cách mạng. Với thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm
1945, không những mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc, cho cách
mạng thế giới mà còn là dấu mốc đưa giai cấp công nhân và nhân dân lao động
từ địa vị của người dân mất nước, người lao động làm thuê lên địa vị người làm
chủ của đất nước. Sự thành công của cuộc cách mạng Tháng Tám 1945 cũng
chứng tỏ vai trị lãnh đạo khơng thế thay thế của giai cấp cơng nhân Việt Nam
thơng qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cuộc
cách mạng mới ở Việt Nam. Lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại đã trao cho
giai cấp công nhân Việt Nam vai trò sứ mệnh lịch sử ấy và giai cấp cơng nhân
Việt Nam đã hồn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình trong giai đoạn cách
mạng này. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Chỉ có giai cấp công
nhân là dũng cảm nhất cách mạng nhất, luôn luôn đương đầu với bọn đế quốc
thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô
sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất
và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”
Tuy nhiên, trong bối cảnh mới hiện nay gắn liền với quá trình đổi mới
thực hiện q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá và hội nhập ngày càng sâu
rộng vào nền kinh tế quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam đang có sự biến đổi
to lớn cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu đội ngũ. Nghị quyết Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương lần thứ Sáu (Khóa X) khẳng định: đội ngũ công nhân
Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển "bao gồm những người
lao động chân tay và trí óc, làm cơng và hưởng lương trong các loại hình sản
xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ
có tính chất cơng nghiệp"; thuộc các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, hay
thuộc tư nhân, hợp tác đầu tư với nước ngồi. Họ hình thành giai cấp thống nhất
đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam



5
được vũ trang bằng Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đang lãnh
đạo cơng cuộc đổi mới và phát triển đất nước.
2. Ưu và hạn chế của giai cấp công nhân Việt Nam.
2.1. Ưu điểm
Theo số liệu thống kê của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, tính đến
hết năm 2010, tổng số cơng nhân nước ta ước tính có khoảng 12,6 triệu người,
bao gồm số công nhân đang làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế (doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của tư nhân và tập thể,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi); số cơng nhân làm việc trong các hộ
sản xuất kinh doanh cá thể (trong lĩnh vực công nghiệp hoặc có tính chất cơng
nghiệp); số lao động Việt Nam đang làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài (chủ
yếu làm việc trong các doanh nghiệp); số lao động chân tay trong các cơ quan
Đảng, Nhà nước, đoàn thể.
Sau hơn 30 năm đổi mới, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển
biến quan trọng, đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng
thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, lực lượng nòng
cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng; đóng góp trực tiếp to lớn vào sự phát triển của đất
nước. Về mặt sản xuất, giai cấp công nhân là lực lượng cơ bản, chủ yếu, có vai
trị to lớn trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù về số lượng giai cấp công nhân ở
nước ta chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng số dân cư (chiếm tỷ lệ 11% dân số và
21% lực lượng lao động xã hội) nhưng nắm giữ những cơ sở vật chất và các
phương tiện sản xuất hiện đại nhất của xã hội, quyết định phương hướng phát
triển chủ yếu của nền kinh tế. Giai cấp cơng nhân là lực lượng lao động đóng



6
góp nhiều nhất vào ngân sách nhà nước. Hằng năm giai cấp cơng nhân "đóng
góp hơn 60% tổng sản phẩm xã hội và 70% ngân sách nhà nước"
2.2. Hạn chế
Tuy nhiên, trong điều kiện mới hiện nay bên cạnh những thành tựu thì
giai cấp cơng nhân ở nước ta hiện nay cịn bộc lộ những hạn chế, đó là:
- Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số
lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế, quốc tế. Có thống kê
của Tổng Liên đồn lao động Việt Nam năm 2009, trình độ chun mơn của
cơng nhân Việt Nam tại các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế còn khá
khiêm tốn, cụ thể: 57,08% lao động phổ thơng, 26,97% là lao động có trình độ
chun môn từ sơ cấp học nghề trở lên, 6,26% công nhân có trình độ trung cấp
và 10,09% tỷ lệ cơng nhân có trình độ đại học, cao đẳng. Cịn theo số liệu thống
kê từ cuộc điều tra khảo sát về "tiền lương thu nhập của người lao động trong
các khu cơng nghiệp" do Viện Cơng nhân Cơng đồn (thuộc Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam) tiến hành năm 2010 cho thấy trình độ chất lượng cơng nhân
tại các khu cơng nghiệp trong cả nước vẫn còn rất hạn chế. Cụ thể theo điều tra,
cơng nhân có 10,5% trình độ tiểu học; 43,7% trình độ, trung học cơ sở 45,5% có
trình độ tiểu học phổ thơng, đặc biệt vẫn cịn 0,28% người lao động không biết
chữ. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, lao động của ta chủ yếu là lao động giản
đơn chưa qua đào tạo nghề. Có tới 75% lao động chưa qua học nghề tại các cơ
sở đào tạo ngồi doanh nghiệp, trong số này có khoảng 94% người được đào tạo
ngắn hạn tại doanh nghiệp trước khi bắt đầu cơng việc của mình. Chỉ có 9,5%
cơng nhân lao động kỹ thuật, 3,7% cơng nhân có trình độ trung cấp, 3% cao
đẳng và 5,6% có trình độ đại học. Nếu tính chung số cơng nhân được đào tạo
nghề (cả ở các cơ sở và doanh nghiệp) thì tỷ lệ cơng nhân lao động bậc cao là rất
ít. Số công nhân bậc 4 chiếm 8,4% và bậc 6-7 chỉ chiếm 3,2%.



7
Đặc biệt, hiện chúng ta còn thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật,
cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao
động cịn nhiều hạn chế; đa phần cơng nhân từ nơng dân chưa được đào tạo cơ
bản và có hệ thống, một bộ phận cơng nhân chậm thích nghi với cơ chế thị
trường.
- Địa vị chính trị của giai cấp cơng nhân chưa thể hiện đầy đủ. Giai cấp
cơng nhân cịn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của cơng nhân khơng đồng đều; sự hiểu
biết về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh
đạo xuất thân từ cơng nhân cịn thấp. Một bộ phận công nhân chưa thiết tha
phấn đấu vào Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội.
Đặc biệt, tỷ lệ cơng nhân là đảng viên trong tổng số đảng viên của Đảng những
năm gần đây đang giảm dần là một xu hướng rất đáng lo ngại. Do công tác phát
triển Đảng trong công nhân chưa thực sự được quan tâm, nên ở khu vực kinh tế
ngồi nhà nước, có vốn đầu tư nước ngồi (FDI), tỉ lệ doanh nghiệp có tổ chức
cơ sở Đảng rất thấp. Theo Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, hiện cả nước
mới có 1,2% số doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi có chi bộ đảng, với số
đảng viên chỉ bằng 0,84% tổng số đảng viên của cả nước. Đặc biệt, từ năm 2000
đến nay, tỉ lệ đảng viên là công nhân trong số đảng viên mới kết nạp chưa năm
nào vượt quá 10%.
- Tuy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đời sống của
đội ngũ công nhân trong các thành phần ngày càng được cải thiện, những lợi ích
của một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với những thành tựu
của cơng cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình; việc làm, đời sống
vật chất và tinh thần của cơng nhân đang có nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt là



8
ở bộ phận công nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
3. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển giai cấp công nhân Việt
Nam trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội XIII
Một là, cần phải cụ thể hóa những quan điểm, chủ trương lớn của Đảng về
giai cấp cơng nhân, nhanh chóng đưa Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII "Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", đặc biệt là
những quan điểm, những quyết sách của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng về "Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công
nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn,
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động; đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế”13 vào cuộc sống. Phải sử dụng tổng hợp các biện pháp thực sự đưa nghị
quyết của Trung ương Đảng vào cuộc sống, phải làm cho giai cấp công nhân
Việt Nam nói riêng và những người lao động Việt Nam nói chung cảm nhận
được những thay đổi tích cực khi thực hiện Nghị quyết của Đảng trong đời sống
thực tế.
Hai là, Đảng và Nhà nước sớm thể chế hoá những quan điểm, chủ trương
lớn đã được thể hiện trong nghị quyết của Đảng thành cơ chế chính sách cụ thể,
nhằm giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công
nhân, tạo chuyển biến mạnh mẽ và rõ rệt trong việc nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của người lao động tương xứng với những thành quả của công cuộc
xây dựng, phát triển đất nước và những đóng góp của giai cấp cơng nhân. Trước
mắt, cần giải quyết những bức xúc hiện nay đối với công nhân như: Nhà ở, nhà



9
trẻ tại các khu công nghiệp, tiền lương và thu nhập bảo hiểm xã hội, nơi sinh
hoạt văn hoá, an tồn vệ sinh lao động và bảo vệ mơi trường.
Ba là, quan tâm lãnh đạo sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật có liên
quan trực tiếp tới người lao động và tổ chức Cơng đồn, nhất là Bộ luật Lao
động, Luật Cơng đồn, Luật Bảo hiểm xã hội. Việc sửa đổi, bổ sung các luật trên
vừa phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, vừa phải tạo điều kiện để tổ chức Cơng
đồn năng động, tự chủ và sáng tạo trong hoạt động, thực sự trở thành người đại
diện tin cậy, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao
động - đối tượng yếu thế nhất trong quan hệ lao động. Tăng cường hơn nữa công
tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật lao động, xử lý nghiêm những vi
phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền lợi người lao động, không vì thu hút
đầu tư mà xem nhẹ người lao động, yếu tố có tính quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp, nhằm xây dựng quan hệ lao động hài hoà, tiến bộ
trong doanh nghiệp.
Bốn là, chỉ đạo kiểm tra các doanh nghiệp trong việc xây dựng và tổ chức
thực hiện quy chế dân chủ; tăng cường các hoạt động đối thoại, thương lượng
giữa người sử dụng lao động và người lao động nhằm xây dựng quan hệ lao
động hài hòa, ổn định, tiến bộ. Các cấp chính quyền tăng cường cơng tác kiểm
tra, hướng dẫn việc thực hiện quy chế dân chủ trong các doanh nghiệp. Tiến
hành rà soát, bổ sung quy hoạch các khu, cụm công nghiệp thêm hướng gắn với
phát triển các khu đô thị mới, trong đó chú trọng xây dựng nhà ở và các cơng
trình phúc lợi thiết yếu phục vụ chăm sóc sức khỏe, nhu cầu sinh hoạt tinh thần
cho cơng nhân và nhân dân. Trong từng doanh nghiệp phải có quy hoạch bố trí
quỹ đất để xây dựng nơi sinh hoạt văn hóa cho cơng nhân.
Năm là, Đảng cần quan tâm bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, ý thức
giai cấp, tinh thần dân tộc cho công nhân lao động, để họ ln gắn bó với sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, có ý chí vươn lên thoát khỏi nghèo



10
nàn, lạc hậu, tinh thần phấn đấu vươn lên trong điều kiện phát triển kinh tế tri
thức và hội nhập quốc tế; xây dựng tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động,
lương tâm nghề nghiệp. Muốn vậy, cần phải tăng cường sự lãnh đạo của các cấp
uỷ Đảng với hoạt động của tổ chức Cơng đồn trong cơng tác tuyên truyền, giáo
dục công nhân lan rộng, đảm bảo định hướng thống nhất nội dung và nâng cao
hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục từ Trung ương đến cơ sở, nhằm tăng
cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với cơng nhân và cơng đồn. Nhà nước cần
đầu tư và có chính sách ưu đãi đầu tư xây dựng thiết chế văn hóa và tổ chức hoạt
động của các nhà văn hố lao động, câu lạc bộ cơng nhân, hệ thống truyền thông
đại chúng, tạo môi trường lành mạnh để xây dựng đời sống văn hóa trong cơng
nhân lao động, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Sáu là, vấn đề cấp bách hiện nay là phải xem công tác xây dựng Đảng,
củng cố các đoàn thể quần chúng là nhiệm vụ có ý nghĩa sống cịn đối với phong
trào cơng nhân hiện nay.


11
PHẦN KẾT LUẬN
Với niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng cũng như thành
công của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII chúng ta tin tưởng rằng với việc
quán triệt vận dụng thành công những quan điểm cơ bản của Đảng xây dựng giai
cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ cách mạng mới sẽ cho phép chúng ta nhìn
thấy giai cấp cơng nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất
lượng, xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng và là lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp cơng nghiệp hố và hội nhập quốc tế.


12

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, trang 240-241.
2. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội – 2000, Tập 10, tr.9.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành trung ương khóa X. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 23.
4. Đặng Ngọc Tùng: Báo cáo tổng hợp đề tài: “Xây dựng giai cấp công
nhân Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020” (chương trình KX.04.06/10), Hà Nội,
tr.47.
5. Dẫn theo bài viết: “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh:
Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách”, Nguồn tài liệu đã dẫn.
6. Đặng Ngọc Tùng: Báo cáo tổng hợp đề tài: “Xây dựng giai cấp công
nhân Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020” (chương trình KX.04.06/10), Hà Nội,
tr.147.



×