Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

(TIỂU LUẬN) TIỂU LUẬN môn LỊCH sử QUAN hệ QUỐC tế CHỦ đề TÌNH HÌNH THẾ GIỚI SAU CHIẾN TRANH LẠNH ( từ SAU 1991 đến NAY )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.34 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGUYỄN TRÃI
KHOA QUỐC TẾ

BÀI THUYẾT TRÌNH

MƠN: LỊCH SỬ QUAN HỆ QUỐC TẾ
CHỦ ĐỀ:

TÌNH HÌNH THẾ GIỚI SAU CHIẾN TRANH
LẠNH ( TỪ SAU 1991 ĐẾN NAY )
Nhóm 2: Mai Thị Thu Hương
Đinh Thị Hoài
Nguyễn Thị Ngọc Tú
Nguyễn Thị Mỹ Duyên
Đỗ Thị Kim Oanh
Lớp: K19- Ngôn Ngữ Hàn 2

Hà Nội – 2021
1

Tieu luan


I, Liên Xơ tan rã và hệ quả của nó:
1, Khái Quát:
- Gần 20 năm sau khi Liên Xô sụp đổ đã có nhiều người viết về ngun nhân vì
sao Liên Xơ sụp đổ một cách có hệ thống. Nhiều cơng trình nghiên cứu đã đi
đến kết luận sự sụp đổ của Liên Xơ có ngun nhân sâu xa là do những sai lầm,
khuyết tật của mơ hình XHCN Xơ viết, một chế độ xã hội đã đạt những thành
tựu vĩ đại, đóng góp to lớn cho sự phát triển của nhân loại, góp phần quyết định


cứu lồi người khỏi thảm họa phát - xít, nhưng đã trở nên trì trệ, khơng đáp ứng
được u cầu phát triển trong tình hình mới. Cuộc cải tổ sai lầm ở Liên Xô do
M. S. Gorbachev đề xướng là nhân tố trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ chế độ xã hội
chủ nghĩa trên đất nước Liên Xô.
Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu cuối
những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX là một sự kiện đặc biệt quan
trọng của thế giới, là một tổn thất hết sức to lớn của những người cộng sản trong
q trình hiện thực hóa học thuyết Mác – Lênin. Sự tan rã của Liên bang Xô
viết vào cuối 1991 đã làm thay đổi căn bản cục diện chính trị thế giới.
Trong giai đoạn 1918 – 1920, nước Nga Xơ viết nằm trong vịng vây của
chủ nghĩa đế quốc và bị bọn Bạch vệ (được sự hậu thuẫn của nước ngồi) tấn
cơng từ bốn phía. Trong giai đoạn đặc biệt khó khăn này, nước Nga Xơ viết non
trẻ lâm vào thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Dưới sự lãnh đạo của Lênin và Đảng
Bonsevich, nước Nga Xô viết đã vượt qua thách thức hiểm nghèo để tiếp tục
phát triển.
2, Nguyên Nhân:
- Những nguyên nhân chính dẫn đến sự tan rã của chế độ XHCN ở Liên Xô và
Đơng Âu:


Một là, do đường lối lãnh đạo mang tính chủ quan, duy ý chí; cùng với cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp làm cho sản xuất trì trệ, đời sống nhân dân khơng
được cải thiện. Thêm vào đó là sự thiếu dân chủ và công bằng đã làm tăng thêm
sự bất mãn trong quần chúng.



Hai là, không bắt kịp bước phát triển của khoa học – kĩ thuật tiên tiến. Điều này
dẫn tới tình trạng trì trệ, khủng hoảng về kinh tế, xã hội. Chẳng hạn như ở Liên
Xô, trong những năm 70 của thế kỉ XX phải nhập lương thực của các nước Tây

Âu.
2

Tieu luan




Ba là, khi tiến hành cải tổ lại phạm phải sai lầm trên nhiều mặt làm cho khủng
hoảng thêm trầm trọng. Đặc biệt là sai lầm khi thực hiện chế độ đa nguyên đa
đảng, từ bỏ quyền lãnh đạo cao nhất của Đảng.



Bốn là, sự chống phá của các thế lực thù địch trong và ngồi nước có tác động
khơng nhỏ làm cho tình hình trở nên thêm rối loạn.
- Đảng Cộng sản Liên Xơ đã tha hóa, biến chất sơ bộ có một số biểu hiện lớn
sau đây:
+ Một là, Đảng Cộng sản Liên Xô đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ
trong sinh hoạt Đảng. Đi liền với nó là các bệnh tật: độc đốn, chun quyền,
khơng chấp nhận những ý kiến khác với mình; coi thường tập thể, coi thường
cấp dưới, tự cho mọi ý kiến của mình là chân lý buộc mọi người phải tuân theo,
coi những ai có ý kiến ngược lại là chống đối, thậm chí là thù địch, khi cần thiết
bảo vệ “cái uy” của mình, họ sẵn sàng đối xử với đồng chí, đồng đội như đối
với kẻ thù. Kết quả là trong sinh hoạt, đảng mất hết sinh khí, mất hết tính chiến
đấu. Sinh hoạt đảng trở nên tẻ nhạt, khơ cứng, độc thoại một chiều. Trong điều
kiện đó nhiều đảng viên trung kiên, trong sáng không được trọng dụng, cố nín
nhịn để tồn tại, những kẻ cơ hội, nịnh bợ có điều kiện được thăng tiến.
+ Hai là, Bộ Chính trị, BCHTƯ Đảng Cộng sản Liên Xô đã quan liêu xa rời
thực tiễn, để mất quan hệ máu thịt giữa Đảng CSLX với nhân dân Liên Xô. Tệ

quan liêu làm cho những người lãnh đạo các cấp của Đảng CSLX xa rời thực tế,
khơng có hiểu biết đúng đắn hiện trạng xã hội mà mình đang lãnh đạo, quản lý.
Họ thờ ơ trước những nguyện vọng chính đáng của quần chúng, thậm chí khơng
có rung động, phản ứng trước những nỗi thống khổ, oan ức của một bộ phận
quần chúng nhân dân, trong đó có cả một bộ phận đảng viên, cán bộ cấp dưới.
+ Ba là, những suy thoái về đạo đức, lối sống của một số lãnh đạo cấp cao giữ
vai trò chủ chốt với những biểu hiện nổi bật: Sống ích kỷ, đặt lợi ích của bản
thân, gia đình và người thân lên trên lợi ích của Đảng, của nhân dân; cục bộ địa
phương, kéo bè kéo cánh đưa những người thân tín với mình, kể cả những
người yếu về năng lực, kém về đạo đức, lối sống vào những vị trí lãnh đạo để
làm vây cánh, che chắn bảo vệ mình; tham ơ, sống xa hoa, nói một đằng làm
một nẻo, cá biệt cịn tha hố, suy đồi về đạo đức, lối sống.
Do những bệnh tật kể trên, đại bộ phận quần chúng nhân dân giảm lòng
tin đối với sự lãnh đạo của Đảng CSLX, thờ ơ đối với những vấn đề chính trị
trọng đại của đất nước, thậm chí có một số trơng chờ, mong muốn có sự thay
đổi. Chính đó là trạng thái trong Đảng Cộng sản Liên Xô và trong xã hội Liên
3

Tieu luan


Xô vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, đêm trước của
sự sụp đổ, tan rã (1989 – 1991).
- Về hoạt động chống phá của Mỹ và các thế lực chống cộng quốc tế thì rõ ràng,
có đầy đủ thơng tin, tư liệu để khẳng định. Tuyệt đối không được mơ hồ, mất
cảnh giác. Mặt trái của cơ chế thị trường cũng là một nguyên nhân. Nhưng nếu
quá nhấn mạnh, cường điệu mặt trái của cơ chế thị trường thì khó lịng giải
thích được những thối hố của Đảng Cộng sản Liên Xơ, Đảng Cộng sản Trung
Quốc trong thời kỳ Mao Trạch Đông, Xtalin và Prêz nép lãnh đạo, vì thời Mao,
thời Xtalin, thời Prêz nép chưa có kinh tế thị trường.

+ Về mặt tổ chức, trong suốt quá trình tồn tại, phát triển của mình, Đảng Cộng
sản Liên Xơ chưa xây dựng được cơ chế hữu hiệu để đảm bảo dân chủ thực sự
trong sinh hoạt Đảng. Đảng CSLX đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ
trong suốt quá trình hoạt động. Theo chúng tôi, đây là điểm khởi thuỷ, nguồn
gốc của mọi biểu hiện khác về sự thoái hoá của Đảng CSLX (quan liêu, tha hố
về tư tưởng chính trị, thối hố về đạo đức, lối sống, chia rẽ mất đoàn kết…). Ở
đâu và khi nào trong sinh hoạt đảng thể hiện sục sơi dân chủ, thì đảng có sức
sống mãnh liệt. Đảng Cộng sản Bơn – sê – vích Nga dưới thời lãnh đạo của
Lênin là một ví dụ điển hình.
– Từ Cách mạng tháng Mười Nga đến khi Liên Xô tan rã (1917 – 1991)
có thể phân kỳ như sau:
1. Thế hệ cách mạng đầu tiên do Lênin lãnh đạo đã đưa nước Nga Xô
viết non trẻ vượt qua thử thách “ngàn cân treo sợi tóc” 1917 – 1920 để
tồn tại và phát triển;
2. Thế hệ lãnh đạo thứ hai do Stalin lãnh đạo đã tiêu diệt Chủ nghĩa phát
xít Đức – Nhật – Ý và đưa Liên Xô trở thành cường quốc thế giới;
3. Thế hệ lãnh đạo thứ ba ở Liên Xô từ Khơrusốp đến Bregiơnép là
những người đã tham gia Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại (1941 – 1945) và
họ đã đưa Liên Xô trở thành cường quốc hàng đầu thế giới;
4. Thế hệ lãnh đạo thứ tư với hạt nhân là Góocbachop, là những người
sinh ra trong thời kỳ chiến tranh vệ quốc vĩ đại và chưa nếm trải thử
thách của chiến tranh.
Chính thế hệ lãnh đạo thứ tư đã làm cho Đảng CSLX mất quyền lãnh đạo,
làm cho Liên Xô tan rã.
4

Tieu luan


–  Thế hệ lãnh đạo thứ tư ở Liên Xô với Góocbachop là hạt nhân đã nắm

trong tay mọi quyền lực và mọi nguồn lực của đất nước, nhưng họ khơng thuận
theo lịng dân, khơng được dân ủng hộ nên đánh mất toàn bộ cơ đồ sự nghiệp và
bị lịch sử vứt vào sọt rác.
– Các đảng cộng sản đang cầm quyền và chưa cầm quyền cần rút ra bài
học từ thất bại của Đảng CSLX, từ sự tan rã của Liên Xơ để vượt qua chính
mình vì hạnh phúc của nhân dân và sự hưng thịnh của đất nước.
3, Hệ Quả:
Với “cực” Liên Xô tan rã, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới khơng cịn tồn tại
và trật tự hai cực Ianta sụp đổ. Thế “hai cực” của hai siêu cường khơng cịn nữa
và Mĩ là “cực” duy nhất cịn lại.
Liên Xơ giải thể thành các nước cộng hịa độc lập
II, Sự điều chỉnh của các nước sau chiến tranh lạnh:
- Bảy tám năm đã trôi qua kể từ khi chiến tranh lạnh chấm dứt và sự tan rã của
hệ thống thế giới 2 cực. Tuy nhiên, cho đến nay chưa ai vẽ được rõ nét hình thù
của hệ thống thế giới mới được mọi quốc gia chấp nhận. Một số người cho rằng
thế giới hiện nay là đơn cực với một lẽ đơn giản Mỹ là siêu cường duy nhất còn
lại và trong vòng 15 - 20 năm tới chưa một nước nào có thể thách thức vai trị
siêu cường của Mỹ. Một số khác lại cho rằng thế giới đơn cực ngày nay phải
hiểu theo nghĩa thế giới phương Tây là một cực bao gồm 3 trung tâm tư bản
phát triển nhất là Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản. Một số học giả Trung Quốc thì nói
rõ hơn thế giới hiện nay gồm một siêu và nhiều cường. Về hiện tượng, có thể
các bức tranh trên đều đúng. Thực tế tình hình thế giới trong 7 năm qua cho
thấy các nước lớn trước hết là Mỹ vẫn cịn có tiếng nói quan trọng, và trong một
số trường hợp có tính chất quyết định đối với việc giải quyết cơng việc thế giới.
Nhưng bên cạnh đó vai trị của các nước trung bình ngày càng tăng. Trong một
số trường hợp các nước bậc trung đã có thể đóng góp vai trò chủ đạo, nhất là
trong các vấn đề an ninh khu vực. Ngoài ra người ta cũng đã phải chú ý hơn đến
vai trò các nước đang phát triển. Điều này được thể hiện không những trong
việc xử lý các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo trong thế giới đang phát triển, mà
còn được thể hiện qua đề nghị của Tổng thư ký Liên Hợp quốc về việc dành cho

các nước đang phát triển ở Châu A', Châu Phi và Mỹ Latinh 3 ghế tại Uỷ ban
thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc. Trước khi đi sâu vào xem xét hệ
thống nào đang thay thế cho hệ thống thế giới 2 cực trong chiến tranh lạnh, có lẽ
5

Tieu luan


cần nhìn lại những nét lớn của tình hình kinh tế và chính trị thế giới kể từ sau
khi chiến tranh lạnh kết thúc.
- Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, hầu như các quốc gia đều điều chỉnh chiến
lược phát triển, lấy kinh tế làm trọng điểm.
1. Về kinh tế :
- Sau chiến tranh lạnh, vấn đề kinh tế là nhân tố hàng đầu đối với sự hưng vong
của mỗi dân tộc. Chính phủ nào cũng đặt vấn đề phát triển kinh tế là ưu tiên
hàng đầu trong chương trình hành động của mình. Điều đó xuất phát từ ba lý do.
Một là, bất cứ chính phủ nào muốn đứng vững và duy trì được sự ổn định chính
trị thì vấn đề hàng đầu là phải cải thiện được đời sống của các tầng lớp nhân
dân.
Hai là, bất cứ nước nào muốn có một vị thế nhất định trong hệ thống quốc tế
mới, muốn mở rộng giao lưu và hội nhập vào cộng đồng quốc tế thì trước hết
phải có lực lượng kinh tế và nay là thời cơ để làm việc đó.
Ba là, trong thời đại ngày nay, an ninh kinh tế đóng vai trị rất quan trọng trong
nền an ninh của mỗi nước.
- Điểm nổi bật của tình hình kinh tế thế giới thời gian qua từ sau khi chiến tranh
lạnh kết thúc là sự tăng trưởng tương đối liên tục tuy không cao và chưa thật ổn
định. Đó là do chiến tranh lạnh kết thúc đã phá vỡ bức tường ngăn chia kinh tế
thế giới thành hai nền kinh tế song song và về cơ bản đối lập nhau. Kinh tế thế
giới trở thành một thị trường thống nhất cùng với khoa học công nghệ không
ngừng phát triển đã giải phóng sức sản xuất của tồn thế giới. Tương ứng với

việc phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thế giới được cơ cấu lại
theo hướng liên kết hố và tồn cầu hố đã đẩy mạnh quá trình giao lưu kinh tế
quốc tế, trước hết là thương mại và đầu tư, làm cho tính phụ thuộc lẫn nhau về
mặt kinh tế giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ trở thành một quy luật cho sự
phát triển. Một nhân tố khác thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là sự tăng nhanh của
nền thương mại thế giới theo hướng tự do hoá.
- Tuy nhiên nhìn lại sự phát triển của nền kinh tế thế giới trong thời gian qua có
thể thấy rõ sự phát triển không đồng đều giữa các nước vẫn tiếp tục là một xu
hướng không thể đảo ngược. Điều nghịch lý là càng phát triển thì hố ngăn cách
6

Tieu luan


giữa các nền kinh tế lại có xu hướng càng rộng ra. Q trình nhất thể hố nền
kinh tế thế giới cũng diễn ra không đồng đều. Từ sau chiến tranh thế giới thứ 2,
quá trình này chủ yếu chỉ diễn ra ở 3 trung tâm tư bản chính là Mỹ, Tây Âu và
Nhật Bản, và các công ty đa quốc gia là người trực tiếp thực hiện quá trình này.
Sau chiến tranh lạnh, tình hình cơ bản vẫn chưa có gì thay đổi đáng kể. Trừ EU,
q trình liên kết kinh tế ở các khu vực hoặc đại khu vực cũng chỉ mới ở trình
độ thấp dưới dạng khu vực tự do mậu dịch hay là liên minh quan thuế. Có thể
nói, sau chiến tranh lạnh, tồn cầu hố đã có bước phát triển mới với việc hầu
hết các nước trước đây theo nền kinh tế tập trung bao cấp nay đều chuyển sang
nền kinh tế thị trường và trở thành những thành viên mới của các tổ chức, tài
chính thương mại thế giới như WB, IMF, WTO hoặc tổ chức khu vực như
APEC, AFTA, NAFTA v.v... Nhưng về bản chất, việc tham gia của các thành
viên mới này chưa làm thay đổi tính chất và cơ cấu của các thể chế quốc tế này.
Luật chơi vẫn nằm trong tay các nước giàu. Nga tuy được tham gia G7 nhưng
với địa vị thấp, do đó G7 chưa biến thành G8. Trung Quốc có nền kinh tế lớn
phát triển năng động nhất thế giới không những không được mời tham gia G7

mà việc trở thành thành viên WTO vẫn đang gặp nhiều khó khăn trong việc đáp
ứng những điều kiện chủ yếu do Mỹ đưa ra. Về cơ bản vẫn chưa có sự hội nhập
Bắc - Nam. Trật tự kinh tế thế giới mới đã được người ta nói đến trong 30 năm
nay, nhưng cho đến nay vẫn chưa ai hình dung được bóng dáng của nó là như
thế nào. Đó đây đã có tiếng nói bi quan về quá trình tồn cầu hố và khu vực
hố, kể cả trong các nước phát triển, vì bên cạnh những mặt tích cực thì mặt
thách thức của nó cũng rất lớn. Nó làm cho sự cạnh tranh giữa các nước và giữa
các khu vực trở nên hết sức khốc liệt và có xu hướng dẫn đến chế độ bảo hộ
mậu dịch khu vực mà phần thiệt thịi ln thuộc về những nền kinh tế yếu kém
hơn.
- Tuy vậy, cần thấy rằng quá trình liên kết khu vực và tồn cầu là một xu thế tất
yếu của nền kinh tế thế giới khi lực lượng sản xuất đã vượt qua biên giới quốc
gia của một nước để trở thành một lực lượng quốc tế do sự phát triển của cách
mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là cách mạng tin học. Cuộc cách mạng này
đã tạo điều kiện cho tất cả các nước có thể thực hiện những bước nhảy vọt trong
việc phát triển kinh tế và đời sống xã hội theo hướng cơng nghiệp hố và hiện
đại hố, đồng thời địi hỏi tất cả các nước phải cơ cấu lại nền kinh tế của mình
và ln đặt tất cả các nước trước một nguy cơ tụt hậu, đặc biệt là các nước đang
phát triển. Song, khơng ai có thể cưỡng lại xu thế này. Bản chất và cơ cấu của
các thể chế kinh tế, tài chính và tiền tệ thế giới vẫn chưa có gì thay đổi về cơ
bản, bởi nền kinh tế của các nước thành viên mới hội nhập, dù là nước lớn như
7

Tieu luan


Trung Quốc, vẫn chưa đủ sức mạnh để làm thay đổi chúng theo hướng dân chủ
và bình đẳng hơn. Nhưng điều này chắc chắn sẽ xảy ra sau vài ba thập niên nữa
khi mà vốn và cơng nghệ khơng cịn là món hàng độc quyền của câu lạc bộ các
nước giàu.

2. Nét nổi bật nhất trong nền chính trị thế giới 
- Kể từ khi chiến tranh lạnh chấm dứt là sự điều chỉnh chiến lược của tất cả các
nước, nhất là của các nước lớn nhằm giành cho mình một vị trí tối ưu trong hệ
thống quan hệ quốc tế đang trong quá trình cơ cấu lại. Tuy sự điều chỉnh chiến
lược này xuất phát từ những lợi ích dân tộc khác nhau, nhưng nó lại được thúc
đẩy bởi những nhân tố khách quan chung:
Một là, chiến tranh lạnh chấm dứt, sự đối đầu đặc biệt là đối đầu về ý thức hệ
cũng đang dần mất đi. Điều này không có nghĩa là hiện nay cuộc đấu tranh về ý
thức hệ khơng cịn nữa. Nó vẫn tiếp tục nhất là trong nội bộ từng nước. Trên
phạm vi quốc tế, trong quan hệ giữa các nước với nhau cuộc đấu tranh ý thức hệ
khơng cịn ở vị trí hàng đầu mà diễn ra dưới những hình thức khác ít bạo lực
hơn, dưới chiêu bài đấu tranh đòi nhân quyền, dân chủ, đa nguyên, đa đảng
v.v... Do đó về cơ bản thế giới đã chuyển từ thời kỳ đối đầu sang thời kỳ vừa
đấu tranh vừa hợp tác trong cùng tồn tại hồ bình hoặc ít nhất là tránh đối đầu.
Hai là, sự tan rã của thế giới hai cực. Sự sụp đổ của Liên Xô làm cho Mỹ trở
thành siêu cường duy nhất còn lại trên thế giới. Nhưng điều này không đồng
nghĩa với việc xem trật tự thế giới sau chiến tranh lạnh là trật tự thế giới một
cực, bởi lẽ rất đơn giản là Mỹ khơng cịn đủ sức cả về kinh tế lẫn chính trị để
điều khiển thế giới theo ý muốn của mình.
- Khơng những các nước lớn như Trung Quốc, Ấn Độ không làm theo gậy chỉ
huy của Mỹ, mà ngay những nước vốn là đồng minh của Mỹ trong chiến tranh
lạnh ngày nay cũng dám đứng lên thách thức sự lãnh đạo của Mỹ. Nhân tố này
đang đóng một vai trị quan trọng trong sự điều chỉnh chiến lược của các nước
theo hướng đa phương, đa dạng hoá quan hệ quốc tế.
Ba là, nhân tố kinh tế và khoa học cơng nghệ ngày càng có vị trí quan trọng
trong quan hệ quốc tế.
- Những nhân tố trên đây vừa thúc đẩy quá trình điều chỉnh hay đổi mới trong
chính sách đối ngoại của các nước vừa vạch ra những giới hạn và thách thức mà
8


Tieu luan


các nước phải vượt qua trong khi phải thực hiện những mục tiêu chiến lược của
mình. Điều này thể hiện khá rõ qua việc xem xét quá trình điều chỉnh chiến lược
của các nước lớn từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc.
a) Mỹ:
- Sau khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ và thất bại của Iraq
trong chiến tranh Vùng Vịnh, George Bush vội vàng tuyên bố về "một trật tự
thế giới mới" tức là trật tự thế giới một cực. Cực đó là Mỹ. Nhưng "trật tự thế
giới mới" đó đã sớm sụp đổ cùng với thất bại của người chủ xướng ra nó trong
cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ (1992). Từ việc thất cử của George Bush và thắng
cử của Bill Clinton có thể rút ra 2 kết luận bổ ích về chính trường Mỹ. Một là
vấn đề quan tâm hàng đầu của nhân dân Mỹ sau chiến tranh lạnh là các vấn đề
nội bộ, đặc biệt là vấn đề kinh tế. Những vấn đề đối ngoại ít có tác động đối với
cử tri Mỹ. George Bush bị thất cử chính là do nền kinh tế Mỹ lúc này đang
trong cơn suy thoái. Hai là thời thế đã thay đổi, nhân dân Mỹ cũng muốn có sự
thay đổi. George Bush, một cựu chiến binh của chiến tranh lạnh cần nhường chỗ
cho một người lãnh đạo thuộc thế hệ trẻ hơn.
- Là người được sinh ra sau chiến tranh thế giới thứ II và là Tổng thống đầu tiên
của nước Mỹ trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh, Bill Clinton có tham vọng để
lại dấu ấn trong lịch sử nước Mỹ bằng một chiến lược mới thay thế cho chiến
lược "ngăn chặn" của thời kỳ chiến tranh lạnh. Ngày 27/9/1993 ông ta cho công
bố chiến lược mới này trong diễn văn đầu tiên đọc trước Đại hội đồng Liên Hợp
quốc dưới cái tên là chiến lược "mở rộng dân chủ". Ngày nay người ta gọi là
"Học thuyết Clinton". Theo những người đã tham gia soạn thảo thì nội dung chủ
yếu của chiến lược "mở rộng dân chủ" tập trung vào 4 điểm :
1) Tăng cường các "nền dân chủ thị trường".
2) Thúc đẩy và củng cố các nền dân chủ mới và các nền kinh tế thị
trường ở nơi nào có thể.

3) Chống lại sự xâm lược và ủng hộ việc tự do hoá các Nhà nước thù
địch với nền dân chủ.
4) Giúp nền dân chủ và các nền kinh tế thị trường bám rễ vào những
khu vực có "mối quan tâm nhân đạo lớn nhất". Trong phát biểu tại Liên hợp
9

Tieu luan


quốc, Clinton nói rõ : "Trong chiến tranh lạnh chúng ta tìm cách ngăn chặn mối
đe doạ đối với sự sống còn của các thể chế tự do.
- Giờ đây chúng ta tìm cách mở rộng tập hợp các quốc gia sống dưới các thể chế
tự do đó". Như vậy Mỹ đã chuyển từ chiến lược "ngăn chặn" trong chiến tranh
lạnh sang chiến lược "mở rộng" và chuyển vai trò của Mỹ trên thế giới từ "sen
đầm quốc tế" sang "người lãnh đạo thế giới". Để tiếp tục giành quyền lãnh đạo
thế giới và ngăn chặn không cho bất kỳ quốc gia nào có thể nổi lên thách thức
vai trị của Mỹ, hoạt động ngoại giao của Mỹ theo học thuyết Clinton trong thời
gian qua chủ yếu tập trung vào 3 hướng:
+ Một là củng cố, nâng cấp và mở rộng hệ thống các Hiệp ước an ninh đã có
từ thời chiến tranh lạnh.
+ Hai là Mỹ thúc đẩy việc hình thành một loạt các khu vực mậu dịch tự do
như NAFTA ở Bắc Mỹ, FTAA cho toàn châu Mỹ, TAFTA cho hai bờ Đại Tây
Dương, APEC cho Châu A' - Thái Bình Dương, WTO cho tồn thế giới v.v...
Mỹ tin rằng thông qua việc buôn bán tự do sẽ dẫn đến việc tự do hố nền chính
trị của các nước và thông qua việc phát triển kinh tế sẽ dần dần tạo ra một tầng
lớp trung lưu, ngay cả ở những nước trước kia theo nền kinh tế bao cấp, tán
thưởng những giá trị dân chủ của Mỹ và phương Tây.
+ Ba là, thúc đẩy dân chủ và nhân quyền ra toàn thế giới và sử dụng chiêu bài
này để mặc cả với các nước muốn có đầu tư cơng nghệ và bn bán với Mỹ.
- Việc chính quyền Clinton thực hiện mở rộng NATO và nâng cấp Hiệp ước an

ninh Mỹ - Nhật đang gặp phải sự chống đối của Nga và Trung Quốc cũng như
nhiều nước khác và kể cả trong nước Mỹ. Sự can dự của Mỹ vào việc giải quyết
các cuộc xung đột khu vực tuy đã giúp cho các bên tranh chấp đi vào thương
lượng, nhưng rõ ràng không thể giúp giải quyết dứt điểm từ vấn đề Trung Đông
đến Bosnia, bắc Ireland, bán đảo Triều Tiên v.v... Việc Mỹ tránh can dự vào
cuộc xung đột ở Châu Phi cho thấy sự hạn chế của Mỹ do "hội chứng Somalie".
Trên vấn đề nhân quyền, dân chủ, Mỹ cũng có bước lùi rõ rệt. Clinton từ chỗ
tuyên bố rất gay gắt trong diễn văn tranh cử đối với việc "Trung Quốc vi phạm
nhân quyền" đến việc buộc phải tuyên bố không gắn vấn đề nhân quyền với
quan hệ kinh tế, và việc Mỹ phải thừa nhận Châu A' có quan niệm khác Mỹ với
vấn đề dân chủ, nhân quyền... là một ví dụ. Cho đến nay có lẽ vấn đề thành
cơng nhất của chính quyền Clinton trên mặt trận đối ngoại là vấn đề tự do hoá
thị trường thế giới. Bản thân Clinton cũng giành nhiều công sức thúc đẩy vấn đề
10

Tieu luan


này như ký NAFTA với Mexico và Canada, triệu tập Hội nghị cấp cao APEC
đầu tiên ở SEATLE và thúc đẩy việc thành lập WTO thay cho GATT. Tuy
nhiên vai trò của Mỹ trong các tổ chức này cũng gặp nhiều hạn chế. Thủ tướng
Malaysia tẩy chay Hội nghị SEATLE ; Trung Quốc vẫn từ chối chấp nhận
những điều kiện do Mỹ đặt ra để Trung Quốc trở thành thành viên của WTO
trong lúc Nhật tỏ ý nhân nhượng ; ở Đông Nam A' tuy không chấp nhận việc
ASEAN kết nạp Myanma nhưng Mỹ vẫn phải dự Hội nghị ASEAN PMC và
tham gia ARF do ASEAN chủ trì.
- Tuy là siêu cường duy nhất còn lại sau chiến tranh lạnh, nhưng có nhiều
ngun nhân khiến Mỹ khơng phát huy được sức mạnh của mình để lãnh đạo
thế giới hay đưa thế giới đi theo một trật tự mong muốn.
Một là tuy sức mạnh quân sự Mỹ là vô địch song sau chiến tranh lạnh nó khơng

thể được sử dụng để giải quyết các vấn đề thế giới.
Hai là tính độc lập tự chủ của nhân dân thế giới sau chiến tranh lạnh rất cao, họ
khơng dễ gì chấp nhận sự áp đặt của Mỹ, không chỉ các nước lớn như Trung
Quốc, Nga, Châu Âu mà ngay cả các nước đang phát triển.
Ba là về mặt kinh tế Mỹ khơng cịn mạnh như hồi sau chiến tranh thế giới thứ 2
để tài trợ cho vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ. Trước sự suy yếu về kinh tế,
nhân dân Mỹ có xu hướng muốn chính quyền Mỹ chú ý hơn đến các vấn đề
trong nước vì đối với học mối đe doạ của Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản nay
khơng cịn nữa. Mặt khác cũng cần phải thấy rằng với sức mạnh của mình, tiếng
nói của Mỹ vẫn cịn tiếp tục có trọng lượng trên trường quốc tế. Tuy khơng cịn
đủ sức một mình giải quyết cơng việc thế giới và không thể tẩy chay không can
dự vào những vấn đề diễn ra khơng hồn tồn theo ý mình nhưng một số vấn đề
phức tạp trên thế giới sẽ khơng thể giải quyết được nếu khơng có sự tham gia
của Mỹ.
b) Trung Quốc: 
- Khách quan mà nói thì việc kết thúc chiến tranh lạnh và sự sụp đổ của Liên Xô
đã tạo một môi trường quốc tế hết sức thuận lợi cho Trung Quốc để thực hiện kế
hoạch 4 hiện đại hoá nhằm đưa Trung Quốc sớm lên vị trí cường quốc thế giới.
Về mặt lý thuyết, hình như Trung Quốc khơng phải điều chỉnh gì cả vì từ 1982
Trung Quốc đã chủ trương một chính sách ngoại giao độc lập tự chủ không liên
minh với bất cứ một nước nào. Cơng cuộc hiện đại hố ở Trung Quốc bắt đầu từ
11

Tieu luan


năm 1978 và nền kinh tế Trung Quốc từ đó đã từng bước đi theo kinh tế thị
trường. Song thực tế không hẳn như vậy. Sau 10 năm cải cách, bên cạnh một số
thành tựu, kinh tế Trung Quốc đã gặp những khó khăn lớn nếu khơng nói là
khủng hoảng. Việc chạy theo tốc độ phát triển cao làm cho nền kinh tế Trung

Quốc quá nóng, thất nghiệp và lạm phát cao, sản xuất nơng nghiệp trì trệ, sự
mất cân đối trong nền kinh tế và giữa các khu vực của đất nước ngày càng trầm
trọng.
- Về mặt đối ngoại, việc Liên Xô tan rã và nước Nga suy yếu là có lợi cho
Trung Quốc về mặt an ninh ở phía Bắc, nhưng những đảo lộn ở Liên Xơ và
Đơng Âu cộng với sự bất mãn của một bộ phận nhân dân nhất là giới trí thức và
sinh viên đã khởi mầm cho cuộc bạo loạn mùa hè 1989, đặc biệt là vụ Thiên An
Môn. Sự sụp đổ của Liên Xô cũng làm cho giá trị của Trung Quốc trong chiến
lược của Mỹ ở Viễn Đông bị suy giảm và làm cho Mỹ xem Trung Quốc từ chỗ
như một bạn đồng minh thực tế trong suốt gần 20 năm cuối của chiến tranh
lạnh, đang biến thành vật cản đường của chủ nghĩa bá quyền Mỹ ở Châu Á Thái Bình Dương. Mỹ lấy cớ vụ Thiên An Môn để áp đặt lệnh cấm vận và cô
lập Trung Quốc, đồng thời tăng việc chuyển giao vũ khí cho Đài Loan. Trước
tình hình đó Trung Quốc phải điều chỉnh chính sách đối nội và đối ngoại của
mình cho phù hợp với tình hình mới.
- Nhờ sự điều chỉnh đó (thể hiện qua Nghị quyết của Đại hội 14 Đảng Cộng sản
Trung Quốc - 1992) nền kinh tế đã có những bước phát triển ngoạn mục và có
thể trong 1 - 2 thập kỷ tới Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Về mặt đối ngoại, việc khẳng định lại chính sách ngoại giao độc lập tự chủ
trong mơi trường sau chiến tranh lạnh đã làm cho không gian chiến lược của
ngoại giao Trung Quốc rộng rãi hơn và Trung Quốc có nhiều khả năng lựa chọn
hơn trong việc hội nhập quốc tế. Trung Quốc theo đuổi một chính sách ngoại
giao năng động tích cực và thực dụng hơn. Vấn đề quan tâm hàng đầu của
Trung Quốc hiện nay là duy trì và củng cố mơi trường quốc tế thuận lợi để hậu
thuẫn cho chính sách mở cửa và 4 hiện đại hố. Vì vậy, mặc dù khơng hài lòng
với trật tự và thể chế quốc tế hiện nay, nhưng Trung Quốc vẫn chủ trương tăng
cường hội nhập quốc tế, vì chỉ bằng con đường này Trung Quốc mới có một vai
trị tích cực trong việc xây dựng hệ thống quốc tế mới. Đối với các nước công
nghiệp phát triển phương Tây, mặc dù bất đồng và cạnh tranh là mặt không bao
giờ bị triệt tiêu, song Trung Quốc vẫn chủ trương cải thiện quan hệ vì biết rằng
cơng cuộc hiện đại hoá Trung Quốc phụ thuộc rất lớn vào vốn, công nghệ và thị

trường các nước này. Đặc biệt đối với Mỹ, Trung Quốc cũng tỏ ra rất mềm
12

Tieu luan


mỏng. Tuy 2/3 thời gian sau chiến tranh lạnh, quan hệ Trung - Mỹ xấu đi,
nhưng Trung Quốc đã tránh không biến quan hệ trở lại thời kỳ đối đầu.
- Đối với các nước đang phát triển, Trung Quốc cũng có những sự điều chỉnh
đáng chú ý. Tuy vẫn xem mình là một nước đang phát triển nhưng Trung Quốc
khơng còn tự nhận là đại diện hoặc muốn trở thành người lãnh đạo của thế giới
các nước đang phát triển. Trung Quốc khơng cịn viện trợ đáng kể cho các nước
đang phát triển mà trái lại trong nhiều trường hợp còn trở thành đối thủ cạnh
tranh về thương mại. Trung Quốc khơng hài lịng về những bất cơng đang tồn
tại trong hệ thống KT - TM thế giới, nhưng cũng không hô hào phải xây dựng
một trật tự kinh tế quốc tế mới. Là hội viên thường trực của Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc nhưng Trung Quốc nhiều lần không chống lại các nghị quyết cho
phép Mỹ can thiệp vào các nước đang phát triển.
- Trong việc điều chỉnh chiến lược của mình, Trung Quốc rất coi trọng quan hệ
quốc tế ở Châu A' - Thái Bình Dương và Đông Nam A', Trung Quốc tham gia
vào các diễn đàn chính trị, kinh tế, an ninh khu vực, tham gia vào việc làm dịu
tình hình ở bán đảo Triều Tiên, bình thường hố và tăng cường quan hệ với các
nước láng giềng, là đối tác đối thoại với ASEAN, tham gia diễn đàn ARF và
chủ trương gác vấn đề chủ quyền và giải quyết hồ bình vấn đề tranh chấp ở
quần đảo Trường Sa.
- Tuy nhiên bên cạnh những chính sách và hành động tích cực, dư luận thế giới
vẫn còn nhiều lo ngại đối với Trung Quốc. Việc Trung Quốc phấn đấu trở thành
một cường quốc giàu mạnh nhất nhì thế giới là điều chính đáng. Nước nào cũng
làm như vậy. Đi đơi với việc hiện đại hố kinh tế thì việc hiện đại hố qn sự
là một điều tất yếu. Song người ta vẫn còn nghi ngại về ý đồ lâu dài của Trung

Quốc khơng phải vì thuyết "mối đe doạ của Trung Quốc" do Mỹ và phương Tây
nêu ra. Báo chí Trung Quốc nêu ra phương châm xử thế đối với tình hình thế
giới hiện tại là "Bình tĩnh quan sát, dấu mình cho kỹ và khơng bộc lộ lực lượng"
làm cho người ta dù muốn hay không cũng phải suy nghĩ ý đồ của Trung Quốc.
Đối với khu vực Đông A', những hoạt động của Trung Quốc cũng gây nhiều lo
lắng như việc quốc hội Trung Quốc thông qua Pháp lệnh lãnh hải (2/1992) đặt
gần 3 triệu km2 Biển Đông Trung Quốc và Biển Đông Việt Nam vào vùng lãnh
hải thuộc chủ quyền Trung Quốc; việc hải quân, tàu khoan dầu và tàu đánh cá
Trung Quốc thường xuyên xâm nhập lãnh hải Việt Nam, Philippines v.v... Song
điều làm người ta lo ngại và cái cớ để các thế lực thù địch Trung Quốc lợi dụng
là đôi khi lời nói của Trung Quốc khơng đi đơi với việc làm. Điều đó cắt nghĩa
13

Tieu luan


tại sao một số nước ở Đông Á muốn duy trì sự có mặt qn sự của Mỹ ở khu
vực này.

c) Nhật:
- Tuy là một cường quốc ở Châu Á , nhưng sau chiến tranh thế giới thứ 2, Nhật
bị phụ thuộc vào thế giới phương Tây về kinh tế thị trường, công nghệ và an
ninh nhất là với Mỹ, và bản thân Nhật cũng tự xem mình là thành viên của thế
giới phương Tây. Chiến tranh lạnh chấm dứt và sự sụp đổ của Liên Xô làm cho
chất keo gắn bó quan hệ Nhật - Mỹ và nội bộ đảng cầm quyền Dân chủ tự do
(LDP) đột nhiên biến mất khiến cho Nhật trở thành nước phương Tây chịu tác
động mạnh mẽ nhất khi bước vào thời kỳ phát triển mới sau chiến tranh lạnh.
Dưới sức ép của Mỹ, Nhật phải nâng cao giá đồng Yên và mở cửa cho hàng
Mỹ, đưa đến cuộc suy thoái 1993 - 1994. Thế nhưng việc nâng giá đồng Yên
vẫn không cải thiện được cán cân buôn bán giữa Nhật với Mỹ. Quan hệ kinh tế thương mại Mỹ - Nhật xấu đi trong lúc quan hệ thương mại giữa Nhật với Châu

A' đặc biệt với Trung Quốc và 4 con rồng châu A' tăng gấp đôi. Nội bộ Đảng
LDP mâu thuẫn. Một bộ phận lớn đảng viên do Ichiro Ozawa tách ra khỏi LDP
và lập một liên minh 7 đảng. Sau gần 4 thập kỷ cầm quyền, LDP đã để mất
quyền lãnh đạo.
- Để đảm bảo vai trò là cường quốc châu Á và thế giới, Nhật chủ trương "tái
châu Á hoá", đồng thời điều chỉnh lại quan hệ với Mỹ. Nhật coi trọng và cố
gắng cải thiện và tăng cường quan hệ với Trung Quốc, Nga, Â'n Độ, ASEAN
không những về mặt kinh tế, thương mại đầu tư mà còn trong một số vấn đề
chính trị như nhân quyền, dân chủ, Nhật cũng ủng hộ cách đề cập của các nước
châu Á chống lại lập trường của phương Tây. Đối với Mỹ, một mặt Nhật chủ
trương nâng cấp quan hệ an ninh để Nhật có vai trị lớn hơn khơng phải chỉ ở
vùng chung quanh nước Nhật mà ra cả Châu Á - Thái Bình Dương, mặt khác
Nhật tìm cách tách khỏi Mỹ khi tỏ thái độ đối với một số vấn đề ở châu Á như
thuyết phục các nước G7 bỏ cấm vận đối với Trung Quốc sau vụ Thiên An
Mơn, vấn đề Campuchia, Nhật hồng thăm Trung Quốc, Nhật tham dự đầy đủ
việc chuyển giao Hồng Kông cho Trung Quốc v.v... Nhật cũng chủ trương cải
thiện quan hệ với Nga mặc dù "lãnh thổ phương Bắc" vẫn chưa được giải quyết.
Thái độ của Nhật đối với Bắc Triều Tiên cũng được cải thiện rõ rệt. Đặc biệt
14

Tieu luan


Nhật chú trọng tăng cường quan hệ với các nước ASEAN, thực hiện cái mà học
thuyết Fukuda đã không thực hiện được ở Đông Nam Á cách đây 20 năm, bằng
chuyến đi thăm lịch sử của Thủ tướng Hashimoto và diễn đàn đối thoại Nhật ASEAN.
- Phần lớn các nước châu Á, kể cả Trung Quốc đều ủng hộ Nhật trong việc
giành chiếc ghế uỷ viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc. Tuy
nhiên dư luận trong nước và châu Á khơng đồng tình với việc nâng cấp quan hệ
an ninh Nhật - Mỹ theo thoả thuận ký ngày 24/9/1997. Trung Quốc phê phán

mạnh mẽ việc Nhật muốn dùng việc nâng cấp Hiệp ước này để can thiệp vào
công việc nội bộ của Trung Quốc trong quan hệ với Đài Loan. Người ta cũng rất
lo ngại chủ trương của một số phe phái chính trị ở Nhật, biến quan hệ an ninh
Nhật - Mỹ thành một kiểu liên minh Anh - Mỹ trong hiệp định phòng thủ chung
và Nhật sẽ tham gia cùng với quân Mỹ trong các cuộc hành qn ở CA-TBD
chứ khơng chỉ đóng khung trong việc phịng thủ quần đảo Nhật Bản. Nỗi lo sợ
đó là có căn cứ, khơng phải chỉ qua việc nâng cấp Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ,
mà qua cương lĩnh 3 giai đoạn của LDP thì giai đoạn thứ 3 trong chiến lược
quốc tế của Nhật là sau khi giành được vai trị chính trị trên thế giới (trở thành
thành viên thường trực HĐBA LHQ) Nhật phải tiến hành xây dựng lực lượng
vũ trang của mình như một "quốc gia bình thường". Người ta nhớ rằng ngân
sách quốc phịng của Nhật tuy chỉ chiếm trên dưới 1% GDP nhưng về con số
tuyệt đối thì chỉ đứng sau Mỹ.
d) Nga: 
- Sau khi Liên Xô sụp đổ, nước Nga lâm vào một cuộc khủng hoảng toàn diện
và sâu sắc nhất kể từ 1917: kinh tế suy sụp; qn đội khơng có lương và tính sẵn
sàng chiến đấu bị suy giảm, trật tự xã hội rối loạn, chính trị khơng ổn định v.v...
Tuy nhiên, nếu chỉ với những khó khăn này thì vị thế quốc tế của Nga không bị
giảm sút đáng kể,và Nga vẫn là thành viên thường trực của HĐBA LHQ và có
kho vũ khí hạt nhân chiến lược lớn nhất thế giới. Vả lại trong 1/2 thế kỷ qua,
hầu hết các nước lớn đều trải qua những cuộc khủng hoảng khơng kém phần
trầm trọng. Điều làm cho uy tín quốc tế của nước Nga bị giảm sút một cách
nghiêm trọng xuống gần với vị thế của một cường quốc loại hai là sự rối loạnnếu khơng muốn nói là những sai lầm trong chiến lược đối ngoại.
- Chính sách đối ngoại có tính chất đầu hàng phương Tây cộng với tình trạng
khủng hoảng kinh tế kéo dài làm cho tiếng nói của Nga khơng cịn trọng lượng
15

Tieu luan



đáng kể trên trường quốc tế. Sự bất mãn của nhân dân trước khó khăn kinh tế
cộng với thể diện quốc gia bị xúc phạm đã làm cho mâu thuẫn trong nội bộ
nước Nga trở nên sâu sắc và biến thành sự đối đầu giữa ngành hành pháp và lập
pháp và giữa giới cầm quyền với đại bộ phận nhân dân. Chủ nghĩa dân tộc Nga
đã bùng nổ dữ dội gây nên một sức ép lớn buộc những người cầm quyền Nga
phải điều chỉnh chiến lược cả về đối nội và đối ngoại. Tuy vẫn cịn nhiều chính
sách nhân nhượng và xoa dịu phương Tây, đặc biệt đối với Mỹ (vấn đề NATO
mở rộng, vấn đề hiệp ước SALT 2,3 v.v...) nhưng Nga đang từng bước lấy lại vị
thế quốc tế của mình. Nga chủ trương xây dựng một thế giới đa cực, trong đó
Nga là một cực. Ưu tiên chiến lược hàng đầu của Nga là củng cố và tăng cường
quan hệ với các nước trong Liên Xô cũ mà Nga gọi là những nước ngồi gần
gũi thơng qua SNG hoặc các hiệp định hợp tác tay đôi. Trong số các nước này,
Nga xem Ucraina và Kazakhtan có tầm quan trọng chiến lược đối với nền an
ninh của Nga. Một ưu tiên chiến lược khác không kém phần quan trọng là điều
chỉnh quan hệ giữa Nga với các nước lớn nhằm phục hồi lại vị trí của Nga trong
việc giải quyết các vấn đề quốc tế lớn.
- Về mặt địa lý - chính trị, Nga vẫn xem mình là một nước châu Âu và nói rõ
các vấn đề châu Âu khơng thể giải quyết mà khơng có tiếng nói của Nga. Mặt
khác Nga phát triển mạnh quan hệ của mình sang phía Đơng mặc dù tính chất
châu Á của Nga sau khi Liên Xô tan rã đã giảm nhiều do tất cả các nước cộng
hoà Trung Á đều trở thành các quốc gia độc lập, phần lãnh thổ còn lại duy nhất
gắn liền Nga với châu Á là khu vực Viễn Đơng. Tuy cịn bị ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng trong nước kiềm chế, song trên trường quốc tế, chiến lược của
Nga đã rõ khiến tất cả các nước, đặc biệt là các nước lớn đều phải tính đến nhân
tố Nga trong việc xây dựng một trật tự quốc tế mới.
e) Liên Hiệp châu Âu (EU): 
- Chiến tranh lạnh kết thúc tạo điều kiện cho EU phát triển cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu. Hiện nay EU bao gồm 15 nước, trong đó có cả những nước như Thuỵ
Điển, Phần Lan... vốn muốn giữ thái độ trung lập trong chiến tranh lạnh nên đã
từng từ chối gia nhập EU. Ngồi ra cịn có khoảng 10 nước khác đang đệ đơn.

Giấc mơ của những nước sáng lập Thị trường chung Châu Âu (EEC) cách đây
40 năm về một châu Âu thống nhất đang từng bước trở thành hiện thực, đặc biệt
là việc thông qua Hiệp ước Maastricht (1992) và Hiệp ước Amsterdam (1997)
nhằm thực hiện một đồng tiền chung của châu Âu (1999) và sau đó là đi đến
thống nhất về cả các mặt an ninh và đối ngoại. Đây là nhiệm vụ chiến lược có
16

Tieu luan


tầm quan trọng hàng đầu để đưa EU vào thế kỷ 21, cho nên nó cũng là ưu tiên
số một trong chính sách đối nội và đối ngoại của các nước thành viên đòi hỏi
những nỗ lực lớn để vượt qua nhiều thách thức. Trước hết là về kinh tế - tài
chính. Để đạt được mục tiêu về một đồng tiền chung 1999, Hiệp ước Maastricht
quy định các nước thành viên không được để bội chi ngân sách vượt quá 3% và
nợ công cộng không được quá 60% GDP. Hiện nay chưa có một nước thành
viên nào của EU đạt tiêu chuẩn này kể cả Pháp và Đức.
- Về mặt chính trị, tuy đã thành lập Nghị viện châu Âu nhưng thực chất đây chỉ
mới là một cơ quan để các nước đến đó đọc diễn văn chứ chưa phải là một cơ
quan hoạch định chính sách. Do đó, trong việc giao dịch với EU, các quyết định
vẫn tuân theo chính sách riêng rẽ của từng nước thành viên. Trong lúc phải ưu
tiên mọi nỗ lực nhằm thực hiện liên kết, EU cũng cịn phải đối phó với các vấn
đề do việc chấm dứt chiến tranh lạnh sinh ra như cuộc khủng hoảng ở Nam Tư
cũ, vấn đề quan hệ với Mỹ và NATO, quan hệ với Nga v.v... ở đây người ta
thấy thái độ của EU tỏ ra rất lúng túng và vai trò bị hạn chế ngay cả trong việc
giải quyết các vấn đề châu Âu. Một mặt, về kinh tế - tiền tệ, EU muốn tạo cho
mình một thế có thể cạnh tranh với Mỹ bằng việc mở rộng Liên minh và nhất là
tạo cho châu Âu một đồng tiền mạnh, mặt khác trong các vấn đề EU vẫn phải
tiếp tục dựa vào Mỹ như việc mở rộng NATO và tìm giải pháp cho vấn đề
Bosnia - Herzegovina. Hiệp định Dayton (1995) cho thấy nếu không để cho Mỹ

tham gia với tư cách là người lãnh đạo, thì bản thân EU dù có tham gia lực
lượng giữ gìn hồ bình của LHQ cũng khơng giải quyết được cuộc khủng hoảng
này giữa lòng châu Âu. Bên cạnh việc tổ chức các cuộc Hội nghị Á- Âu
(ASEM), người lãnh đạo một số nước châu Âu chủ yếu như Pháp, Đức, Anh v.
v... đã tiến hành hàng loạt cuộc đi thăm và ký kết hiệp định hợp tác với các
nước châu Á.
3. Những nét phác thảo trên đây về chiến lược của một số nước lớn:
- Tuy chưa thật chính xác, nhưng cũng cho thấy tất cả các nước lớn đang ra sức
tận dụng những biến đổi trên thế giới trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh để xây
dựng lực lượng nhằm biến mình thành một trung tâm hoặc một cực độc lập,
bình đẳng với các cực khác trong việc giải quyết công việc thế giới. ở mức độ
khác nhau, tất cả các nước đều thừa nhận rằng một hệ thống quốc tế đa cực
đang trong quá trình hình thành. Điều này đã được khẳng định rõ trong tuyên bố
chung Nga - Trung (23/4/1997) và trong tuyên bố của các nhà lãnh đạo các
nước Tây Âu và Nhật Bản khi họ phản ứng lại các chính sách có tính chất bá
17

Tieu luan


quyền của Mỹ (cấm vận Cuba, vấn đề Pháp tham gia xây dựng lò phản ứng hạt
nhân cho Iran v.v...).
- Về phía Mỹ, tuy họ vẫn khăng khăng địi áp đặt trật tự quốc tế dưới sự lãnh
đạo của Mỹ nhưng trên thực tế họ đã phải thừa nhận vai trị của các cường quốc
khác, thậm chí vai trị của các nước trung bình trong việc giải quyết các vấn đề
thế giới và khu vực (vấn đề mở rộng NATO, vấn đề bán đảo Triều Tiên, vấn đề
an ninh ở Đơng Nam A' v.v...). Sở dĩ nói hệ thống quốc tế mới đang trong quá
trình hình thành là vì nhiều lý do.
+ Một là, các thể chế và cơ chế điều hành nền chính trị thế giới hình thành từ
sau chiến tranh thế giới thứ II vẫn tồn tại. Bộ máy giữ gìn an ninh thế giới lớn

nhất là Liên Hợp quốc cũng đang trong quá trình cải tổ.
+ Hai là, nhiều diễn viên chính của hệ thống quốc tế đa cực vẫn đang trong
quá trình chuyển đổi. Trung Quốc, Ấn Độ hiện nay về cơ bản vẫn là một nước
đang phát triển, EU đang trong quá trình hội nhập mà liệu có thành cơng hay
khơng vẫn cịn là vấn đề bàn cãi.
+ Ba là, một số vấn đề do chiến tranh lạnh để lại vẫn chưa được giải quyết
hoặc tìm ra hướng giải quyết (vấn đề bán đảo Triều Tiên, vấn đề thống nhất Đài
Loan với Trung Quốc, chính sách thù địch của Mỹ đối với Cuba v.v...).
4. Qua những điều phân tích trên, có thể rút ra một số kết luận sơ bộ sau
đây :
Một là chúng ta đang sống trong một thời kỳ quá độ từ hệ thống quốc tế 2 cực
sang hệ thống quốc tế đa cực. Hệ thống mới đang trong quá trình hình thành.
Tuy nhiên do tính chất phức tạp của hệ thống quốc tế mới chúng ta khơng nên
chờ đợi sẽ có một hình ảnh rành rọt của hệ thống quốc tế mới như hệ thống 2
cực.
Hai là về mặt địa lý hệ thống quốc tế đa cực cũng sẽ khơng đồng đều. Trên bình
diện quốc tế nó là đa cực. Nhưng nó khơng giống nhau cho các khu vực khác
nhau; ở châu Âu, vai trò của Mỹ, EU và Nga là chủ đạo. Trái lại ở châu A' vai
trò của Mỹ, Trung, Nhật, Nga (và sau này là Â'n Độ) sẽ đóng phần quyết định.
Trong lúc đó ở châu Mỹ, vai trị của Hoa Kỳ vẫn chiếm ưu thế.

18

Tieu luan


Ba là, trật tự quốc tế mới tuy phức tạp nhưng dân chủ hơn. Sự bất bình đẳng
trong quan hệ quốc tế chưa thể xoá bỏ "một sớm một chiều" nhưng điều này
đang từng bước diễn ra.
Bốn là, có sự khác nhau rất cơ bản giữa hệ thống thế giới đa cực sau chiến tranh

lạnh với các hệ thống quốc tế đa cực trước chiến tranh lạnh. Tất cả các hệ thống
thế giới đa cực trước chiến tranh lạnh đều dẫn đến chiến tranh giữa các nước
lớn. Thế giới ngày nay đã thay đổi: sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước trong
thế giới hiện đại ngày càng lớn ; tồn cầu hố và hội nhập kinh tế trở thành một
xu thế của thời đại, quan niệm về an ninh của các dân tộc đã thay đổi: một nền
an ninh toàn diện.
III, Những đặc điểm và xu thế quan hệ quốc tế sau chiến tranh lạnh:
1, Đặc điểm :
       Hiện nay, do thay đổi trong mơi trường chính trị quốc tế và những điều
chỉnh chiến lược tương ứng, mối quan hệ giữa các nước lớn vẫn đang trong quá
trình vận động, điều chỉnh và chưa ổn định. Tuy nhiên có thể khái quát thành 4
đặc điểm chủ yếu:
     - Thứ nhất, tính chất chủ đạo trong quan hệ đã chuyển từ đối kháng sang
quan hệ đối tác. Bên cạnh các quan hệ chiến lược cũ (Mỹ - Nhật, Mỹ - Tây Âu),
ngày càng tăng cường mở rộng quan hệ đối tác chiến lược mới (Tây Âu - Nga,
Nga - Trung - Ấn, Mỹ - Nga, Mỹ - Trung, Mỹ - Ấn). Tuy nhiên, bên cạnh mặt
hợp tác, quan hệ giữa các nước lớn vẫn ẩn chứa cả mặt cạnh tranh và kiềm chế.
     - Thứ hai, tính khơng chắc chắn, không ổn định trong quan hệ giữa các
cường quốc. Điều này xuất phát từ 6 nguyên nhân chủ yếu:
1) Sự thay đổi trong tương quan sức mạnh giữa các nước: ưu thế vượt trội của
Mỹ, sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, phần nào là Ấn Độ, sự suy yếu của
Nga, sự trì trệ kéo dài của kinh tế Nhật Bản;
2) Vẫn còn tồn tại những nghi kỵ lịch sử sâu sắc (Tây Âu - Nga, Nhật - Trung,
Trung - Ấn, Nga - Trung);
3) Sự tồn tại nhiều tranh chấp lãnh thổ chưa được giải quyết: quần đảo Curin
giữa Nga và Nhật, đảo Senkaku (Ngư Điếu) giữa Trung Quốc và Nhật, vấn đề
biên giới Trung - Ấn…;
4) Sự thiếu vắng một cơ chế hợp tác đa phương ở châu Á - Thái Bình Dương
(như Tổ chức an ninh và hợp tác ở châu Âu);


19

Tieu luan


5) Do lợi ích của các nước lớn vừa đan xen, song trùng trên một số lĩnh vực,
nhưng lại mâu thuẫn trên một số lĩnh vực khác nên các nước có xu hướng tập
hợp trên từng vấn đề;
6) Trong quan hệ giữa các cường quốc đang tồn tại mâu thuẫn chiến lược giữa
chủ trương thế giới một cực và chủ trương thế giới đa cực.
     - Thứ ba, quan hệ giữa các nước lớn hiện đang ẩn chứa nhiều yếu tố: vừa
hợp tác, thỏa hiệp, vừa đấu tranh vì lợi ích của mình. Các nước tăng cường quan
hệ với các nước khác nhằm tăng thế mặc cả trong quan hệ, đặc biệt là với Mỹ.
Trung Quốc và Nga xích lại gần nhau nhằm đối trọng với xu thế bá quyền của
Mỹ, Ấn Độ cũng tăng cường hạt nhân và quan hệ với Mỹ, Nhật và Ôxtrâylia
nhằm cân bằng với Trung Quốc. Mỹ lơi kéo Ấn Độ về mình, ngăn khơng cho
trục Nga - Trung - Ấn hình thành và kiềm chế Trung Quốc; Mỹ và Trung Quốc
tăng cường hợp tác về kinh tế, về khơng phổ biến vũ khí hạt nhân và về bán đảo
Triều Tiên.
     - Thứ tư, trục đấu tranh chính trong quan hệ giữa các nước lớn đã chuyển từ
Mỹ - Liên Xô sang quan hệ Mỹ - Trung. Trước đây, Mỹ quan hệ với Trung
Quốc để ngăn chặn Liên Xơ, nay kết cấu chiến lược đó khơng cịn ý nghĩa. Sự
lớn mạnh của Trung Quốc lại thách thức dài hạn đối với Mỹ, biến mối quan hệ
Mỹ - Trung lên tầm cao mới, thành trục chính và quan trọng nhất. Nếu Mỹ Trung đối đầu, khả năng phân cực sẽ diễn ra giữa Mỹ - Nhật một bên, Nga Trung (có thể cả Ấn Độ) một bên. Nếu quan hệ Trung - Mỹ ổn định, sự phân
cực giữa các nước lớn sẽ không xảy ra.
2. Xu thế quan hệ quốc tế sau chiến tranh lạnh:
        a. Xu hướng chung:
 Thứ nhất, thế giới đang chuyển tiếp sang một trật tự thế giới mới. Thời kỳ quá
độ sau chiến tranh lạnh hiện nay được các nhà nghiên cứu gọi là trạng thái “nhất
siêu, nhiều cường”. Trong trạng thái này, Mĩ nổi lên là siêu cường mạnh nhất so

với các cường quốc khác, với ưu thế vượt trội trên tất cả các lĩnh vực then chốt
của sức mạnh. Do tương quan lực lượng giữa các nước lớn hiện nay đang có lợi
cho Mĩ, cùng với những thắng lợi quân sự nhanh chóng tại ápganixtan và Irắc,
nên Mĩ có chủ trương xây dựng một trật tự thế giới đơn cực do Mĩ chi phối. Tuy
nhiên ảnh hưởng của Mĩ bị cạnh tranh mạnh mẽ bởi sự vươn lên của các cường
quốc khác như Nhật Bản, Tây Âu, Nga, Trung Quốc… Xu thế phát triển của trật
tự thế giới trong tương lai là tiến tới một hệ thống đa cực, bởi lẽ nhìn trên bình
20

Tieu luan


diện toàn cầu, một quốc gia, dù là siêu cường duy nhất cũng khơng có khả năng
kiểm sốt thực tế toàn bộ các lĩnh vực của đời sống quốc tế. Sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia trong kỷ ngun tồn cầu hố khiến cho Mĩ khơng thể
và khơng đủ khả năng thiết lập một trật tự đơn cực mà phải dựa vào các cường
quốc khác và các tổ chức quốc tế, trong đó quan trọng nhất là Liên Hợp Quốc.
Việc tái thiết Irắc sau chiến tranh đã cho thấy thực tế đó. Bên cạnh đó, đặc điểm
chủ yếu trong quan hệ giữa các nước trong trạng thái “nhất siêu nhiều cường”
hiện nay vẫn tiếp tục là hợp tác, cạnh tranh và kiềm chế lẫn nhau. Q trình tồn
cầu hoá, khu vực hoá và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước đã tạo ra tình thế
buộc các nước phải vừa hợp tác, vừa cạnh tranh nhưng tránh đối đầu, xung đột
và chiến tranh.
     Thứ hai, kinh tế trở thành nhân tố quyết định trong sức mạnh tổng hợp của
các quốc gia và trở thành động lực chính của xu thế khu vực hồ và tồn cầu
hố. Trong bối cảnh sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học - công
nghệ, các quốc gia đều nhận thấy vấn đề cấp bách hàng đầu là phải ra sức tận
dụng mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài để phát triển kinh tế. Cách đặt vấn
đề về an ninh, quốc phòng và kinh tế về cơ bản đã khác so với thời kỳ chiến
tranh lạnh. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia khơng cịn tuỳ thuộc vào sức mạnh

qn sự, chính trị mà sức mạnh kinh tế nổi lên hàng đầu và trở thành trọng
điểm. Đồng thời, làn sóng tập hợp các quốc gia trong các tổ chức khu vực địa
lý, từ tiểu khu vực đến đại khu vực thành những khu vực mậu dịch tự do đang
diễn ra dồn dập ở hầu khắp các châu lục, thậm chí liên châu lục. Trào lưu nhất
thể hoá khu vực phát triển mạnh trong thập niên 90, sẽ tiếp tục gia tăng cả về
lượng và về chất trong những năm đầu thế kỷ XXI, cùng với q trình tồn cầu
hố sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực của đời sống quốc tế.
     Thứ ba, quan hệ quốc tế phát triển theo xu hướng hoà dịu nhưng năng động
và phức tạp hơn. Trước những địi hỏi của tình hình thế giới, tất cả các quốc gia
từ lớn đến nhỏ đều phải điều chỉnh chiến lược đối nội và đối ngoại nhằm tạo
cho mình một vị thế có lợi nhất trong quan hệ quốc tế. Xu thế hồ bình, hợp tác
trở thành xu thế chủ đạo trong chính sách đối ngoại của các quốc gia. An ninh
của mỗi quốc gia ngày nay được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với phát triển
nhằm tăng cường sức mạnh quốc gia trong hội nhập quốc tế. Tất cả các quốc gia
đều linh hoạt, mềm dẻo, tăng cường hợp tác, tránh đối đầu và chiến tranh, giải
quyết mọi vấn đề bằng thương lượng hoà bình.
     Mặc khác ở nhiều khu vực trên thế giới, xung đột cục bộ và tình trạng bất ổn
vẫn tiếp tục diễn ra. Tuy nhiên, những xung đột này khó có khả năng lan rộng,
lơi cuốn sự đối đầu trực tiếp của các nước lớn, chủ yếu là do các nước lớn hiện
21

Tieu luan


nay đều có lợi ích lâu dài và cơ bản trong việc duy trì hồ bình để phát triển
kinh tế. Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa khủng bố quốc tế trở thành mối đe doạ
tiềm tàng đối với an ninh chung của thế giới. Những biến đổi của tình hình quốc
tế như đã nêu ở trên làm cho xu thế đa dạng hoá trong quan hệ quốc tế trở thành
xu thế phổ biến của các quốc gia. Do đời sống kinh tế quốc gia đã và đang được
quốc tế hoá cao độ, do nhu cầu phát triển kinh tế, các quốc gia đều phải năng

động, linh hoạt thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ quốc tế
nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia một cách hiệu quả nhất. Những xu thế trên tác
động qua lại lẫn nhau, tạo nên những động lực cộng hưởng làm thay đổi sâu sắc
nền kinh tế và diện mạo của quan hệ quốc tế sau chiến tranh lạnh. Tình hình đó
đặt ra cho mỗi quốc gia trên thế giới phải có cách nhận thức đúng và kịp thời để
hoạch định một chính sách đối ngoại phù hợp với trào lưu chung của thế giới,
đồng thời nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế.
      b. Xu hướng quan hệ giữa các nước lớn:
Trong những năm tới, mục tiêu của Mỹ vẫn không thay đổi, là xác lập một  trật
tự thế giới một cực dưới sự lãnh đạo của Mỹ. Mục tiêu của các nước lớn Tây
Âu (trước hết là Pháp và Đức) là từng bước giảm dần sự lệ thuộc vào Mỹ về
mặt an ninh, những vẫn ra sức củng cố, mở rộng NATO và EU để xây dựng một
châu Âu khơng chia cắt, dân chủ, hịa bình, ổn định và vững mạnh cả về kinh tế
lẫn chính trị - an ninh. Mục tiêu của Nga là xác lập lại vị thế cường quốc, phục
hồi ảnh hưởng quốc tế đã từng có và phát triển kinh tế ổn định, vững chắc, bảo
đảm an ninh và toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Mục tiêu của Nhật Bản là trở thành
cường quốc chính trị cho tương xứng với vị thế cường quốc kinh tế - tài chính
vốn có, tức là tạo dựng được ảnh hưởng quốc tế lớn hơn. Mục tiêu của Trung
Quốc là khẳng định vị thế cường quốc trên thế giới, cố gắng thống nhất đất
nước bằng con đường hòa bình. Mục tiêu của Ấn  Độ là khẳng định vị thế
cường quốc khu vực châu Á, trở thành thành viên thường trực Hội đồng bảo an
Liên hợp quốc.
    Chính do tác động của những nhân tố chủ quan và khách quan kể trên mà cục
diện quan hệ giữa các nước lớn những năm đầu thế kỷ XXI có những nét mới
rất khác so với thời kỳ trước đó.
     - Quan hệ Mỹ - Trung: Do Trung Quốc đang mạnh dần lên về kinh tế, Mỹ
hy vọng Trung Quốc tiếp tục chuyển hướng kinh tế thị trường, thay đổi hệ tư
tưởng và hệ thống chính trị theo mơ hình phương Tây. Để khuyến khích khuynh
hướng ấy, Mỹ giảm áp lực đối với Trung Quốc về vấn đề tự do, dân chủ, quyền
con người, khơng gắn những vấn đề đó với vấn đề kinh tế - thương mại, tạo

điều kiện cho Trung Quốc gia nhập WTO và tăng cường hợp tác kinh tế.
22

Tieu luan


     Quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc đang có những phức tạp do mâu thuẫn về
địa chính trị, trong đó hai vấn đề nổi cộm, nhạy cảm nhất là vấn đề Tây Tạng và
Đài Loan. Hai nước đã tỏ ra thơng cảm và thân thiện, nhưng  vẫn cịn nhiều
điểm chưa thống nhất. Tuy nhiên, Mỹ không muốn đẩy quan hệ hai nước đến đổ
vỡ để Trung Quốc tìm đến sự bảo trợ của Nga. Về phía mình, Trung Quốc chọn
sách lược xoa dịu các mâu thuẫn, không muốn làm tăng sự đối đầu với Mỹ,
ngay cả khi đã liên minh với Nga. Trong thời gian tới, quan hệ Mỹ - Trung còn
phụ thuộc vào các nhân tố: mức độ tiến hành cuộc chiến chống khủng bố; nhận
thức của chính quyền Mỹ về vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Trung Quốc, coi
Trung Quốc là đối tác hay đối thủ trong cạnh tranh chiến lược; quan hệ Trung
Quốc – Đài Loan… Dù còn nhiều bất đồng nhưng quan hệ hợp tác Mỹ - Trung
vẫn tiếp tục phát triển.
      - Quan hệ Nga – Mỹ: Quan hệ giữa hai nước phát triển hay căng thẳng chính
do lợi ích chiến lược của mỗi nước quy định. Tuy đạt được nhiều thỏa thuận,
cam kết, nhưng giữa hai nước vẫn còn tồn tại những mâu thuẫn mang tính chiến
lược như “đa cực hay đơn cực” và những mâu thuẫn cụ thể như thái độ đối với
Irắc, Iran, Côsôvô, mở rộng NATO… Trên thực tế, Mỹ vẫn khơng từ bỏ chính
sách kiềm chế Nga, vì nếu Nga phục hồi sẽ đe dọa sự lãnh đạo thế giới của Mỹ.
Không thể chi phối Nga như dưới thời B.Enxin, hiện nay Mỹ tiếp tục chính sách
vừa hợp tác vừa khống chế Nga, bằng mọi cách ngăn chặn nguy cơ quay lại chủ
nghĩa cộng sản ở Nga. Về phần mình, Nga muốn hịa nhập với phương Tây,
giảm căng thẳng bất đồng với Mỹ để tạo môi trường hịa bình phát triển kinh tế,
giải quyết những bất đồng nội bộ, khơng nhấn mạnh việc khơi phục vị trí nước
lớn. Đầu năm 2007, tiếp theo sự thành công trong việc mở rộng NATO, EU về

phía đơng, Mỹ tiến thêm một bước khi lên kế hoạch triển khai 10 hầm tên lửa
đánh chặn ở Ba Lan và hệ thống cảnh báo rađa ở Séc, áp sát nước Nga. Tổng
thống Nga đã phản đối quyết liệt và tuyên bố xây dựng học thuyết quân sự mới,
trong đó đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển các loại vũ khí hiện đại đủ khả năng
bảo vệ nước Nga, dọa sẽ rút khỏi Hiệp ước tên lửa hạt nhân tầm trung (ký năm
1987) nếu Mỹ khơng từ bỏ tham vọng lá chắn phịng thủ tên lửa ở châu Âu.
Tóm lại, mặc dù quan hệ Nga – Mỹ đã được cải thiện nhưng vẫn còn tồn tại
nhiều trở ngại.
      - Quan hệ Mỹ - EU: Vấn đề Trung Đông (Irắc, Iran, Palextin – Ixraen), đặc
biệt là cuộc chiến Irắc, khơng tạo thành lợi ích hạt nhân trong quan hệ giữa các
nước lớn, kể cả quan hệ Mỹ - EU. Các cường quốc sẽ không thể xảy ra đối
kháng về thực chất vì vấn đề này. Những bất đồng giữa Mỹ và EU xoay quanh
vấn đề Irắc đã dịu đi. Do lợi ích trong hợp tác phát triển, các bên đã nhanh
23

Tieu luan


chóng cải thiện quan hệ và liên minh Mỹ - EU tiếp tục được củng cố. Vấn đề
căn bản hiện nay là sức mạnh của EU vẫn chưa đủ, chưa thể tự bảo vệ được
mình, nếu xảy ra chiến tranh (như Nam Tư trước đây) thì vẫn phải dựa vào Mỹ.
Tuy nhiên, quan hệ hai bên sẽ diễn tiến theo xu hướng “vừa hợp tác vừa cạnh
tranh”. Mỹ tiếp tục tìm cách khẳng định vai trị bá chủ của mình tiến tới xây
dựng thế giới đơn cực dưới sự lãnh đạo của Mỹ, còn EU sẽ tham gia nhiều hơn
vào giải quyết các vấn đề khu vực và quốc tế, nâng cao uy tín chính trị, phấn
đấu cho một thế giới. 
   Trong thời kỳ hiện nay, Mỹ, các nước chủ chốt EU và Nhật Bản lợi dụng ưu
thế nhiều mặt, ráo riết thực hiện các chiến lược toàn cầu phản cách mạng. Về
bản chất, chủ nghĩa tư bản khơng có sự đoàn kết thống nhất, nhưng trong điều
kiện nhất định, các cường quốc tư bản vẫn có khả năng tạo lập sự hợp tác, phối

hợp, đồng thuận và tìm kiếm tiếng nói chung trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
an ninh và phát triển. Tuy nhiên, họ không thể che giấu nổi những mâu thuẫn cố
hữu. 
     Hiện nay, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển hiện trên ba vấn đề lớn:
xác lập trật tự thế giới, phân chia thị trường toàn cầu và cạnh trạnh ưu thế phát
triển. Các mâu thuẫn tuy vẫn gay gắt, phức tạp, nhưng được khống chế trong
giới hạn nhất định. Một số mâu thuẫn, bất đồng được tháo gỡ thông qua thương
lượng, thỏa hiệp. Quan hệ giữa các cường quốc tư bản hiện nay là mối quan hệ
vừa hợp tác vừa cạnh tranh, vừa hướng tâm vừa ly tâm, vừa phối hợp vừa chế
ước nhau. Những véctơ thuận - nghịch đa chiều này tạo ra mâu thuẫn biện
chứng ngay trong lòng mối quan hệ nội bộ của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
    - Trong những năm tới, các cặp quan hệ Mỹ - Nhật, Trung - Nhật và Nga Nhật có lẽ là những mối quan hệ ít thay đổi nhất. Quan hệ Mỹ - Nhật vẫn là
quan hệ đồng minh, liên minh chặt chẽ, nước này ln coi nước kia là hịn đá
tảng trong chiến lược đối ngoại và an ninh của mình, và tính chất này nhìn
chung khơng thay đổi trước những thăng trầm của lịch sử thế giới. Sau sự kiện
11 – 9, Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự ở một số nước châu Á – Thái Bình
Dương, nhưng các căn cứ trên đất Nhật Bản vẫn là những mắt khâu chính yếu
và quan trọng nhất để Mỹ triển khai chiến lược an ninh ở khu vực này. Trên
thực tế, trong quan hệ song phương và trên trường quốc tế, Mỹ đang lợi dụng
Nhật hơn là hợp tác bình đẳng với Nhật. Nhật vẫn bị Mỹ coi là đồng minh đàn
em, và không hiếm khi Mỹ qua mặt Nhật trong các vấn đề quốc tế và trong quan
hệ với những nước lớn khác.Về phần mình, do vẫn là “người khổng lồ một
chân” nên Nhật Bản phải tiếp tục dựa vào Mỹ để bảo đảm an ninh và xử lý các
mối quan hệ song phương, đa phương khác. Song, Nhật Bản cũng đang điều
24

Tieu luan


chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng cân bằng, đề cao tính độc lập tự chủ hơn

trong quan hệ với Mỹ. Để trở thành cường quốc chính trị thế giới, Nhật Bản cho
rằng cần phải thay đổi hình ảnh của mình trong con mắt của cộng đồng quốc tế
(tức là hình ảnh một cái bóng ln đi theo Mỹ), rằng Nhật Bản phải phát huy
vai trị quốc tế khơng chỉ ở lĩnh vực kinh tế - tài chính, mà cả ở lĩnh vực chính
trị - an ninh quốc tế.
      Trong quan hệ với Trung Quốc, Nhật Bản là nước cung cấp nguồn viện trợ
ODA lớn nhất, là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc. Nhật Bản khơng
thể khơng coi trọng một Trung Quốc đang có sức mạnh quốc gia tổng hợp và
ảnh hưởng quốc tế ngày càng tăng. Nhưng giữa hai nước cũng đang tồn tại
nhiều bất đồng nên quan hệ Nhật – Trung vừa có sự hợp tác tích cực, vừa có sự
nghi kỵ, dè chừng, kiềm chế lẫn nhau. Trung Quốc vừa muốn thúc đẩy quan hệ
với Mỹ để kiềm chế Nhật Bản, đẩy lùi nguy cơ Mỹ - Nhật câu kết với nhau gây
áp lực với Trung Quốc, vừa muốn cải thiện quan hệ với Nhật để tận dụng tối đa
thế mạnh kinh tế - tài chính, khoa học - cơng nghệ của nước này.
    Quan hệ Nga –Nhật nhìn chung chưa có tiến triển gì đáng  kể trong cục diện
những năm gần đây. Hai nước vẫn chưa ký được Hiệp ước hòa bình, vấn đề
quần đảo Curin vẫn là nhân tố chủ yếu cản  trở quan hệ bình thường giữa họ. Có
thể nói, đây là cặp yếu nhất trong tứ giác chiến lược Mỹ - Trung - Nga - Nhật
sau Chiến tranh lạnh.
   - Trong quan hệ Nga - Trung - Ấn, mặc dù cả ba nước đều có những thế mạnh
riêng, nhưng đều bị chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan quá
khích đe dọa an ninh với với mức độ khác nhau (Nga với vấn đề Chécnhia, Ấn
Độ với vấn đề Casơmia, Trung Quốc với vấn đề Tân Cương). Chính vì vậy, ba
nước có những quan điểm khá tương đồng trong vấn đề chống khủng bố quốc
tế, và điều rất đáng chú ý là quan hệ giữa họ không còn bị nhân tố Pakixtan gây
xung khắc, chia rẽ ở mức độ lớn như thời kỳ Chiến tranh lạnh. Hơn nữa, cũng
như Trung Quốc, Ấn Độ là nước chủ yếu nhập vũ khí từ Nga, cịn Nga rất quan
tâm hợp tác với Ấn Độ - cường quốc phần mềm máy tính tồn cầu đang nổi lên.
Cả ba nước (lúc đầu là Nga và Trung Quốc, muộn hơn là Ấn Độ) đều chủ
trương cải thiện quan hệ với Mỹ và ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến chống khủng

bố quốc tế. Nhưng đồng thời, họ cũng cảnh giác với ý đồ chiến lược của Mỹ là
xác lập chỗ đứng lâu dài ở vành đai địa – chiến lược quan trọng đối với cả ba
nước, là vành đai kéo dài từ Trung Đông qua Trung Á tới Đông Bắc Á. Đối với
Mỹ, lợi ích địa – chính trị, địa – kinh tế ở khu vực này không kém phần quan
trọng so với lợi ích an ninh. Vì vậy, cả ba nước Nga, Trung Quốc, Ấn Độ đều có
nhu cầu hợp tác với nhau để hạn chế chính sách cường quyền, bành trướng của
25

Tieu luan


×