Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN DỤNG PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.28 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN
DỤNG PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN
KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI

11

Sinh viên thực hiện

Đào Thùy Linh

Mã sinh viên

2214330042

Số thứ tự

65

Lớp tín chỉ

TRI114K61.9

Giảng viên hướng dẫn

TS. Đào Thị Minh Thảo


Hà Nội, 2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN
DỤNG PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN
KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Sinh viên thực hiện

: Đào Thùy Linh

Mã sinh viên

: 2214330042

Số thứ tự

: 65

Lớp tín chỉ

: TRI114K61.9

Giảng viên hướng dẫn : TS. Đào Thị Minh Thảo

11


Hà Nội, 2022


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .....................................................................................................3
PHẦN 1. PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN ........................4
I. KHÁI QUÁT VỀ PHÉP BIỆN CHỨNG.....................................................................4
1. Khái niệm...................................................................................................................4
2. Các phép biện chứng ...............................................................................................4
2.1. Phép biện chứng tự phát.....................................................................................4
2.2. Phép biện chứng duy tâm...................................................................................5
2.3. Phép biện chứng duy vật....................................................................................5
II. NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN..........................................................5
1. Nội dung của nguyên lý............................................................................................7
2. Các tính chất của mối liên hệ...................................................................................8
3. Ý nghĩa phương pháp luận.......................................................................................9
3.1. Quan điểm toàn diện ..........................................................................................9
3.2. Quan điểm lịch sử - toàn diện............................................................................9

PHẦN 2. MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG
XÃ HỘI……………………………………………………………………………………..…….………..10
I. VẤN ĐỀ TĂNG TRƯỜNG KINH TẾ………………………………………………….…….10
1. Khái niệm…………………………………………………………………….……………………10
2. Các nhân tố đối với tăng trưởng kinh tế…………….……………………………………10
II. VẤN ĐỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI………………….………………………………………….12
1. Khái niệm…………………………………………………………….……………………………12
2. Những tiêu chí để đánh giá cơng bằng xã hội……………………………………..…….12
1



III. MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
................................................................................................................................................ 13
1. Sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến công bằng xã hội................................13
2. Sự tác động của công bằng xã hội đến tăng trưởng kinh tế................................14
3. Giải pháp nhằm đảm bảo công bằng trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt
Nam..............................................................................................................................15

KẾT LUẬN........................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................18

1


Lời mở đầu
Phát triển kinh tế là một mục tiêu phấn đấu của toàn xã hội, của tất cả các nước
trên thế giới. Việt Nam hiện nay đang tiến tới xây dựng một đất nước mà con người
được giải phóng khỏi áp bức, bất công, làm theo năng lực, hướng theo lao động, người
dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Để thực hiện được mục tiêu dân giàu nước
mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN), đưa nước ta đạt đến trình độ phát
triển kinh tế nhất định, việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã góp
phần giải phóng và phát huy năng lực sản xuất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhưng bên
cạnh đó, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã bộc lộ nhiều hạn chế: tình
trạng phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội, sự suy thối về đạo đức, văn hóa truyền
thống,... Nó đã đặt ra hàng loạt vấn đề về công bằng xã hội, về việc phát triển kinh tế
đảm bảo công bằng xã hội như thế nào và việc giải quyết những vấn đề trên như thế
nào. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và và công bằng xã hội được xã hội quan
tâm rất nhiều, các nhà nghiên cứu tìm hiểu lý giải các mối quan hệ này dựa trên sự đối
lập giữa hai phạm trù này hoặc dựa trên sự thống nhất tương hỗ căn bản giữa chúng.
Nhìn chung, đã số họ đều thiên về tìm đến sự thống nhất giữa tăng trưởng và cơng

bằng. Tuy nhiên, trong q trình luận giải, có khơng ít nhầm lẫn giữa các phạm trù và
chưa vạch ra được cơ chế đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế, cơng bằng.
Để có được sự nhận thức đúng về tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và giải quyết
hợp lý những vấn đề do đã đặt ra thì chúng ta nhất thiết phải đứng trên lập trường của
thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Marx – Lenin mà cơ sở nền tảng cảu
nó là phép biện chứng duy vật đặc biệt là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Nhận thức được tầm quan trọng của mối liên hệ phổ biến trong quan hệ giữa tăng
trưởng và công bằng trong phát triển kinh tế mà đặc biệt là ở nước ta đang trong quá
trình quá độ lên CNXH phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Đảng ta khẳng định: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng trưởng vai trò quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và cơng bằng xã hội, giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ mơi trường sinh thái”. Vậy vấn đề tăng
trưởng kinh tế, công bằng xã hội được Triết học nhìn nhận trên nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến như thế nào?
5


6


PHẦN 1. PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN

I. KHÁI QUÁT VỀ PHÉP BIỆN CHỨNG
1. Khái niệm
Phép biện chứng là phương pháp nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với
nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc nhau. Và nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động
biến đổi về chất và sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là đấu tranh của
các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng.
Phép biện chứng thuộc biện chứng chủ quan, tức phản ánh biện chứng của thế

giới vật chất vào trong đời sống ý thức của con người. Khi xem xét sự vật, hiện tượng
phép biện chứng đặt nó vào trạng thái vận động, biến đổi, phát triển và trong mối quan
hệ với sự vật, hiện tượng khác.
Như vậy, phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Nó thừa
nhận trong những trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái “hoặc là... hoặc là” cịn có cả
“vừa là... vừa là” nữa, thừa nhận một chỉnh thể trong lúc vừa là nó lại vừa khơng phải
là nó, thừa nhận cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ, vừa gắn bó với nhau.
Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy, phương
pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo
thế giới.
Cùng với sự phát triển của tư duy con người, phương pháp biện chứng đã qua ba
giai đoạn phát triển, được thể hiện trong triết học với ba hình thức lịch sử của nó: phép
biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.

2. Các phép biện chứng
2.1 Phép biện chứng tự phát
Từ thời cổ đại, các nhà biện chứng cả phương Đông lẫn phương Tây đã thấy các
sự vật, hiện tượng của vũ trụ sinh thành, biến hóa trong những sợi dây liên hệ vơ cùng
tận. Tuy nhiên, những gì các nhà biện chứng hồi đó thấy được chỉ là trực kiến, chưa
phải là kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
7


2.2 Phép biện chứng duy tâm
Đỉnh cao của hình thức này được thể hiện trong Triết học Cổ điển Đức, người
khởi đầu là Kant và người hoàn thiện là Hegel. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử
phát triển của tư duy nhân loại, các nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống
những nội dung quan trọng nhất của phép biện chứng. Song, theo họ, biện chứng ở đây
bắt đầu ở tinh thần và kết thúc ở tinh thần, thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép ý niệm
nên biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức là biện chứng duy tâm.


2.3 Phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật đã phát triển qua ba giai đoạn với ba hình thức cơ bản,
trong đó giai đoạn phát triển cao nhất trong lịch sử triết học là sáng tạo nên phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Marx – Lenin. Phép biện chứng duy vật được xem là khoa
học nhất, là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hồn bị, sâu sắc nhất và không
phiến diện.
Trên cơ sở khái quát các mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, những quy luật
phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội và tư duy, phép biện chứng duy vật cung cấp những nguyên tắc, phương
pháp luận chung nhất cho quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Fr. Engles đã định
nghĩa: “Phép biện chứng là khao học về sự liên hệ phổ biến.” để nhấn mạnh vai trò của
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.

II.

NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
Nguyên lý: là những điều căn bản nhất của một học thuyết. Phép biện chứng duy

vật có hai nguyên lý cơ bản là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự
phát triển. Trong đó, ở bất kỳ giai đoạn nào của phép biện chứng, nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến được xem là nguyên lý có ý nghĩa khái quát nhất.
Khái niệm mối liên hệ phổ biến

8


Triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng liên hệ là phạm trù triết học dùng
để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc, quy định với nhau giữa các mặt trong
một sự vật, hiện tượng và giữa các sự vật, hiện tượng.

Ta hiểu khái niệm trên như thế nào?
Thứ nhất, liên hệ là một phạm trù triết học. Như vậy chúng ta phải hiểu liên hệ
một cách khái quát nhất bao gồm tất cả các mối liên hệ cả trong tự nhiên, xã hội và
trong tư duy.
Thứ hai, liên hệ dùng để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc, quy định với
nhau giữa các mặt trong cùng một sự vật hiện tượng. Một sự vật, hiện tượng luôn bao
gồm các mặt, các bộ phận, chúng vừa khác nhau, độc lập với nhau; lại vừa thống nhất,
vừa ràng buộc, quy định nhau để cùng tạo nên một chỉnh thể sự vật, hiện tượng.
Ví dụ, xét một chỉnh thể sự vật là một cơ thể người. Cấu tạo cơ thể con người bao
gồm 8 hệ cơ bản: hệ thần kinh, hệ tuần hồn, hệ hơ hấp, hệ tiêu hóa, hệ bài tiết, hệ cơ,
hệ xương và hệ sinh dục. Mỗi hệ có một chức năng hồn tồn khác nhau, như hệ tuần
hồn giúp lưu thơng máu, đưa máu đến các cơ quan thơng qua đó thực hiện q trình
trao đổi chất và trao đổi khí qua các mao mạch; hệ bài tiết giữ vai trò bài tiết trong cơ
thể - đào thải các chất cặn bã đưa ra ngoài cơ thể... Tuy nhiên, giữa chúng cũng có
những mối liên hệ thống nhất với nhau nhằm giúp cho cơ thể con người phát triển một
các khỏe mạnh; hệ thần kinh trong đó bộ não điều hành chung sự hoạt động của tất cả
các cơ quan
còn lại; hệ tiêu hóa thực hiện trao đổi chất trực tiếp từ bên ngoài vào cơ thể, đồng thời
biến đổi các chất từ dạng phức tạp thành các dạng đơn giản giúp cơ thể dễ dàng hấp
thụ, nhờ đó cung cấp các chất dinh dưỡng ni cơ quan khác trong đó có hệ thần kinh.
Như vậy, một cơ thể khỏe mạnh là một cơ thể bao gồm tất cả các hệ, các cơ quan đều
phát triển một cách khỏe mạnh, không thể thiếu đi một trong các bộ phận đó được.
Thứ ba, liên hệ còn dùng để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc, quy định
với nhau giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Thật vậy, một con người phát triển khỏe
mạnhk là nhờ sự tác động qua lại lẫn nhau của các hệ, các cơ quan trong cơ thể, nhưng
một con người không thể tồn tại một mình trên thế giới này mà khơng có những mối
liên hệ nào với tự nhiên, với những cá thể khác.
9



Ví dụ, xét một phần trong mối liên hệ giữa con người và tự nhiên. Nhu cầu thiết
yếu nhất của con người đó là thức ăn, mà thức ăn lại do tự nhiên cung cấp, nhưng
không phải tự nhiên sẽ cung cấp cho con người thức ăn mãi mãi, cũng như phục vụ
đúng những nhu cầu ngày càng cao của con người. Mà muốn vậy, con người cần phải
tác động vào tự nhiên để tạo ra những sản phẩm phục vụ chính những mong muốn của
mình cả về chất và lượng. Tuy nhiên, khi con người tác động vào tự nhiên cũng có
những tác động tốt giúp cải tạo tự nhiên, có những tác động làm tổn hại đến tự nhiên và
khi đó chính con người lại chịu mọi thành quả cũng như hậu quả do mình làm ra.
Như vậy, ta có thể hiểu được phần nào nội dung cơ bản của nguyên lý mối liên hệ
phổ biến: giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng và giữa các sự vật, hiện tượng với
nhau luôn tồn tại mối liên hệ độc lập mà thống nhất – đó là mối liên hệ phổ biến.

1. Nội dung của nguyên lý
Các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới có mối liên hệ
qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Nếu
chúng có mối liên hệ thì cái gì quy định mối liên hệ đó? Trong lịch sử triết học, đã có
rất nhiều những quan điểm khác nhau để trả lời cho câu hỏi trên. Những người theo
quan điểm biện chứng cho rằng, các sự vật, hiện tượng các quá trình khác nhau vừa tồn
tại độc lập, vừa quy định tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau. Chẳng hạn, bão từ diễn
ra trên mặt trời sẽ tác động đến từ trường của trái đất và do đó, tác động đến mọi sự vật,
trong đó có cả con người; hiện nay trong xu thế tồn cầu hố sự khủng hoảng kinh tế
của một nước không chỉ làm ảnh hưởng đến nền kinh tế của nước ấy mà còn làm ảnh
hưởng đến nền kinh tế của các nước xung quanh, thậm chí là nền kinh tế của tồn thế
giới… Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất vật
chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Các sự vật, hiện
tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song
chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất- thế giới
vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng khơng thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà
tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định.
Chính trên

cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng, mối liên hệ phổ biến là một
10


phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau
giữa các sự vật hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt
của bản thân chúng hay sự tác động của chúng với các sự vật hiện tượng khác. Chúng ta
cũng chỉ có thể đánh giá sự tồn tại cũng như bản chất của một con người cụ thể thông
qua mối liên hệ sự tác động qua lại của con người đó với người khác, đối với xã hội, tự
nhiên, thông qua những hoạt động của người đó. Ngay tri thức của con người cũng chỉ
có giá trị khi chúng được con người vận dụng vào hoạt động cải biển tự nhiên, cải biển
xã hội và chính con người.

2. Các tính chất của mối liên hệ
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ phổ biến có ba
tính chất cơ bản: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú.
Tính khách quan của mối liên hệ được thể hiện ở sự quy định lẫn nhau, các mối
liên hệ là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, nó khơng phụ thuộc vào ý thức của con
người.
Tính phổ biến được biểu hiện: bất kỳ một sự vật hiện tượng nào, ở bất kỳ không
gian, thời gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng khác. Ngay trong
cùng một sự vậy, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu tố nào cũng có
mối liên hệ với những thành phần, những yếu tố khác
Tính đa dạng phong phú của mối liên hệ: sự vật hiện tượng khác nhau, không
gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Có thể
chia các mối liên hệ thành nhiều loại: mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối
liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu,.. Các mối liên hệ này có vị trí, vai trị khác nhau
đối với sự tồn tại và vận động của sự vật hiện tượng.
Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính chất tương đối, vì mỗi loại mối
liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ phổ biến. Mỗi

loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hóa lẫn nhau tùy theo phạm vi bao quát
của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển của chính sự vật.
Tuy sự phân chia thành các loại mối liên hệ chỉ mang tính chất tương đối nhưng
sự phân chia đó là rất cần thiết, bởi vì mỗi loại mối liên hẹ có vị trí và cai trị xác định
trong sự vận động và phát triển của sự vật. Con người phải nắm bắt đúng mối liên hệ để
11


có cách tác động phù hợp nhằm đưa ra hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình.

3. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, ta rút ra được tính tồn diện trong việc xem
xét sự vật, hiện tượng, cụ thể.
3.1 Quan điểm toàn diện
Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hóa, quy định lẫn nhau giữa các
sự vật, hiện tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến nên
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người phải tôn trọng quan điểm
toàn diện, phải tránh xem xét phiến diện.
Quan điểm tồn diện địi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật hiện tượng trong mối
liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong
sự tác động qua lại giữa sự vật đó đối với những sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp
và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng sự vật.
Đồng thời quan điểm tồn diện địi hỏi chúng ta khi phân biệt từng mối liên hệ
phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối
liên hệ tất nhiên và lưu ý đến sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ để hiểu rõ
bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao
nhất trong hoạt động của bản thân.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật,
chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà cịn phải chú
ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với sự vật khác. Đồng thời, chúng ta phải biết sử

dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu
quả cao nhất.
3.2 Quan điểm lịch sử - tồn diện
Vì các mối liện có tính đa dạng, phong phú sự vật hiện tượng khác nhau, không
gian, thời gian khác nhau các mối liên hệ được biểu hiện khác nhau nên trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiến con người phải tôn trọng quan điểm lịch sử - cụ
thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động
12


vào sự vật phải chú ý điều kiện hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó
sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Thực thế cho thấy rằng, một luận điểm nào đó là
luận điểm khoa học trong điều kiện này nhưng sẽ không là luận điểm khoa học trong
điều kiện khác.

PHẦN II: MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG
XÃ HỘI

I. VẤN ĐỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Khái niệm
Tăng trưởng kinh tế thường được hiểu là sự tăng lên về qui mô sản lượng của nền
kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm
gốc sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng qui mơ sản lượng kinh tế nhanh
hay chậm so với thời điểm gốc. Quy mô và tốc độ tăng trưởng luôn là cặp đôi trong nội
dung
của khái niệm tăng trưởng kinh tế. Hiện nay trên thế giới, người ta thường tính mức gia
tăng về tổng giá trị của cải xã hội bằng các đại lượng tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Tuy vậy ở một

số quốc gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên dù thu nhập bình quân đầu
người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo đói.
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ
tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm trong một giai đoạn.
Mức tăng trưởng tuyệt đói là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so
sánh.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh
tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.

13


2. Các nhân tố đối với tăng trưởng kinh tế
Theo quan điểm hiện đại, muốn có tăng trưởng kinh tế cao cần phải sử dụng hiệu
quả các yếu tố cơ bản sau đây
 Vốn: vốn hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra,
tích luỹ lại và những yếu tố tự nhiên….được sử dụng vào trong quá trình sản xuất. Một
nền kinh tế tăng trưởng cao không chỉ dừng lại ở việc tăng khối lượng vốn đầu tư, mà
còn phải đặc biệt chú ý đến hiệu quả sử dụng vốn, quản lý chặt chẽ, đầu tư vốn hợp lý
vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
 Con người: trong các yếu tố hợp thành quá trình lao động sản xuất, sức lao động
là yếu tố quyết định, mang tính sáng tao và là nguồn lực khơng cạn kiệt. Có thể nói:
“ nguồn lực con người là nguồn lực của mọi nguồn lực”, là “ tài nguyên của mọi tài
nguyên”. Vì vậy, con người có sức khoẻ, trí tuệ, có tay nghề cao, có động lực và nhiệt
tình, được tổ chức chặt chẽ sẽ là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững.
 Khoa học và công nghệ: khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng để tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Khoa học và công nghệ được con là “ chiếc đũa thần màu
nhiệm” để tăng năng suất lao động, phát triển lực lượng sản xuất. Nhờ ứng dụng những
thành tựu của khoa học công nghệ đã làm cho hiệu quả sử dụng của các yếu tố đầu vào

tăng lên, cho phép sản xuất theo chiều sâu, làm xuất hiện những ngành kinh tế có hàm
lượng khoa học cao như: công nghệ điện tử, công nghệ thông tin…Như vậy khoa học
và công nghệ cũng là một yếu tố có vai trị đặc biệt quan trọng đối với sự tăng trưởng
nhanh và bền vững.
 Cơ cấu kinh tế: là mối quan hệ hữu cơ, phụ thuộc và quy định lẫn nhau cả về quy
mơ và trình độ giữa các ngành, các thành phần, các vùng, lĩnh vực của nền kinh tế. Nền
kinh tế chỉ có thể tăng trưởng và phát triển khi giữa các mặt, các bộ phận, các yếu tố
cấu
thành nó có sự phù hợp với nhau cả về số lượng và chất lượng, cũng có nghĩa là phải
xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý.
 Thể chế chính trị và vai trị của nhà nước: ổn định về mặt chính trị- xã hội là điều
kiện cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Thể chế chính trị tiến
bộ có khả năng định hướng sự tăng trưởng kinh tế vào những mục tiêu mong muốn,
khắc phục được những nguyên nhân gây ra ơ nhiễm mơi trường, phân hố giàu nghèo
14


sâu sắc…Bởi vì trên thực tế đã từng có sự phát triển kinh tế không cùng chiều với tiến
bộ xã hội. Hệ thơng chính trị mà đại diên là nhà nước có vai trị hoạch định đường lối,
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, cùng hệ thống chính sách đúng đăn hạn chế những
tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh
đúng hướng.

II. VẤN ĐỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
1. Khái niệm
Ph. Angles viết: “Công lý của người Hy Lạp và người La Mã cho rằng chế độ nô
lệ là công bằng; công lý của những nhà tư sản năm 1789 địi hỏi thu tiêu chế độ phong
kiến, vì chế độ ấy không công bằng”. Trong các thời đại khác nhau của lịch sử lồi người,
dù ở phương Đơng hay phương Tây, con người đều quan tâm đến công bằng xã hội cà
đã có biết bao cách hiểu và giải quyết khác nhau vấn đề cơng bằng xã hội. Có lẽ, người

ta chỉ thống nhất với nhau ở một điểm: đó là tầm quan trọng của nó, nhất là trong xã
hội hiện đại. Có thể khái qt: Cơng bằng xã hội là một giá trị định hướng để con người
thỏa mãn nhu cầu cơ bản về đời sống vật chất và tinh thần trong mối quan hệ phân phối
sản phẩm xã hội tương đối hợp lý giữa các cá nhân và khả năng hiện thực của những
điện kinh tế - xã hội nhất định.
Chúng ta nghiên cứu công bằng xã hội trong những điều kiện lịch sử hiện nay của
đất nước. Đặc điểm của tình hình đó là trong khi những biểu hiện của chủ nghĩa bình
quân phổ biến, kèm theo đặc quyền, đặc lợi của một số ít người trong cơ chế quan liêu,
bao cấp trước đây chưa hoàn toàn mất đi thì lại xuất hiện những bất cơng mới của kinh
tế thị trường.

2. Những tiêu chí để đánh giá công bằng xã hội
Trong những năm đổi mới ở nước ta, vấn đề công bằng xã hội trở thành một trong
những mục tiêu cơ bản phát triển đất nước. Các tiêu chí về cơng bằng xã hội được cụ
thể hóa trong các văn kiện lớn của Đảng và Nhà nước. Đại hội Đảng lần VIII chỉ rõ:
“Công bằng xã hội không chỉ được thực hiện trong khâu phân phối kết quả sản xuất,
mà còn thực hiện ở khâu phân phối tư liệu sản xuất, ở việc tạo ra những điều kiện cho
15


mọi người phát huy tốt năng lực của mình”. Như vậy, cơng bằng xã hội được nhìn nhận
ở khía cạnh cụ thể sau:
Thứ nhất, từ góc độ phân phối kết quả sản xuất; đó là sự tương xứng giữa lao
động và thu nhập, giữa cống hiến và hưởng thụ.
Thứ hai, từ việc có cơ hội nganh nhau trong việc tiếp nhận các nguồn tư liệu sản
xuất xã hội như nguồn vốn, tài nguyên, thông tin, khoa học kỹ thuật và các dịch vụ xã
hội khác.
Thứ ba, từ góc độ cơ hội và điều kiện để các cá nhân, các nhóm xã hội thể hiện,
phát huy năng lực của chính mình.
Việc phân biệt các góc độ nhìn nhận cơng bằng xã hội như trên cũng chỉ mang

tính tương đối nhằm cụ thể hóa những tiêu chí đánh giá sự cơng bằng. Trên thực tế,
giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, dù sự cơng bằng về mặt kinh tế có vị trí quan
trọng nhất, nó có khả năng chi phối các mối quan hệ khác. Trên thực tế của nền kinh tế
thị trường, chính các điều kiện xã hội khác nhau lại là cơ hội để người ta phát triển kinh
tế và khi có kinh tế, người ta có điều kiện để bước vào các cơ hội khác. Như vậy, trong
mối quan hệ gữa các giữa người với người, khơng có cơng bằng về cơ hội thì khó có
thể có cơng bằng về kinh tế, thu nhập; và khi điều kiện kinh tế chênh lệch q xa thì
khó có được điều kiện thụ hưởng giá trị văn hóa tinh thần như nhau.
Trên thực tế có rất nhiều tiêu chí cụ thể đánh giá cơng bằng xã hội như: thu nhập
bình qn đầu người; các chỉ số về giáo dục như tỉ lệ người biết chữ, tỉ lệ người đi học
trong độ tuổi, tỉ lệ phổ cập giáo dục các cấp...; các chỉ số về y tế; tỉ lệ đói nghèo và
khoảng cách đói nghèo; bình đẳng giới...

III. MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Khi xem xét tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội như là những vấn đề riêng rẽ
thì mối liên hệ qua lại giữa chúng là mối liên hệ bên ngoài. Nhưng nếu coi tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội là hai mặt cơ bản của sự phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội
thì mối liên hệ qua lại giữa chúng với nhau là mối liên hệ bên trong. Như vậy, mối liên
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là mới liên hệ bên trong, vừa là
mối liên hệ bên ngoài.
16


1. Sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến cơng bằng xã hội
Có thể nói tăng trưởng kinh tế là cơ sở để thực hiện hàng loạt các vấn đề kinh tế,
chính trị, xã hội.
Trước hết, tăng trưởng kinh tế thể hiện bằng sự tăng lên về số lượng, chất lượng
hàng hóa, dịch vụ và các yêu tố sản xuất ra nó, do đó tăng trưởng kinh tế là tiền đề vật
chất để giảm bớt tình trạng đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế nhanh là vấn đề có tính ý


17


nghĩa đối với mọi quốc gia trên con đường vượt lên khắc phục sự lạc hậu, hướng
tới giàu có, thịnh vượng.
Tăng trưởng kinh tế làm mức thu nhập dân cư tăng, phúc lợi xã hội và chất lượng
cuộc sống của cộng đồng được cải thiện như: kéo dài tuổi thọ, giảm tỉ lệ suy dinh
dưỡng và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo dục, y tế, văn hóa,... phát triển và từ đó cũng
có tác động tích cực đến công bằng xã hội.
Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, giảm thất nghiệp.
Khi một nên kinh tế có tỉ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên nhân quan
trọng là đã sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Vì vậy tăng trưởng kinh tế nhanh thì tỉ
lệ thất nghiệp có xu hướng giảm.
Tăng trưởng kinh tế nhanh là mục tiêu của mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam,
nhưng sẽ là khơng đúng nếu theo đuổi tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá. Thực tế cho
thấy, không phải sự tăng trưởng nào cũng mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội như mong
muốn, đơi khi tăng trưởng kinh tế cũng có tính hai mặt của nó. Chẳng hạn tăng trưởng
kinh tế q mức có thể dẫn đến tình trạng nền kinh tế quá nóng, gây ra lạm phát, hoặc
tăng trưởng kinh tế cao làm cho dân cư giàu lên, nhưng đồng thời cũng làm cho sự
phân hoá giàu nghèo trong xã hội tăng lên và do đó cơng bằng xã hội sẽ không được
bảo đảm.

2. Sự tác động của công bằng xã hội đến tăng trưởng kinh tế
Công bằng xã hội là một nguyên tắc phân phối lợi ích. Khác với các ngun tắc
phân phối lợi ích nói chung, thước đo của ngun tắc phân phối lợi ích cơng bằng chính
là sự bình đẳng giữa người với người trong mối quan hệ tương ứng giữa cống hiến và
hưởng thụ với tiêu chí ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau. Hơn nữa nếu nguyên tắc
phân phối nói chung được thực hiện bằng cách khơng dựa trên sự thoả thuận tự nguyện
chung thì ngược lại, ngun tác phân phối lợi ích cơng bằng lại được thực hiện dựa trên
sự thoả thuận tự nguyện của mọi cá nhân cùng tham gia vào một quan hệ lợi ích. Vì thế

tác động của ngun tắc phân phối công bằng tới hoạt động của con người không mang
tính cưỡng bức, mà có tính tích cực. Điều đó càng kích thích sự cống hiến tự nguyện
của mỗi cá nhân vào hoạt động chung của xã hội vì lợi ích của mình và của cả cộng
đồng.
18


Từ thực tiễn cho thấy nền kinh tế thị trường có thể thúc đẩy nền kinh tế đạt tốc độ
tăng trưởng cao nhưng từ đó khơng trực tiếp tạo ra sự phát triển xã hội một cách hài
hòa, cân đối chính vì vậy Đảng ta xác định: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng XHCN, với Nhà nước giữ vai trò quản lý, điều tiết để thực
hiện rộng rãi sự cơng bằng trong tồn xã hội. Việc thực hiện phải trên nguyên tắc phù
hợp với từng giai đoạn, trình độ phát triển của nền kinh tế nhưng không làm triệt tiêu
động lực thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Đó là sự cơng bằng xã hội.”
Trước tình trạng đó đã có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng sự phần
tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo như trên là một hiện tượng tiêu cực, nó rất dễ nảy
sinh mâu thuẫn, xung đột xã hội. Ý kiến khác lại cho rằng hiện tượng đó thật ra đã tồn
tại từ lâu và sự phân tầng đó thật ra đã tồn tại từ lâu và sự phân tầng đó chủ yếu dựa
trên sự phân
biệt có tính đẳng cấp giữa một số người có đặc quyền với đa số người bình thường.
Theo họ, sự phân tầng trong đó khơng tạo ra động lực mà làm xói mòn, triệt tiêu động
lực của sự phát triển.
Thực ra sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo là một hiện tượng phổ biến, có
tính khách quan trong mọi xã hội. Nó có tính hai mặt, mặt tiêu cực gắn với sự bất bình
đẳng xã hội, mặt tích cực gắn với sự phân cơng lao động. Khi có sự phân tầng xã hội,
tính năng động của cong người được phát huy và tất yếu kéo theo đó là một xã hội năng
động. Chính sự phân tầng xã hội đã tạo ra động lực cho sự phát triển tăng trưởng kinh
tế.

3. Giải pháp nhằm đảm bảo cơng bằng trong q trình phát triển kinh tế ở Việt

Nam
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc
thực hiện công bằng xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục và lâu dài của chúng ta.
Trong mỗi thời kỳ kế hoạch phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, vì chỉ có một nền kinh tế phát
triển năng động và có hiệu q thì mới có khả năng huy động các nguồn lực cho việc
thực hiện các chính sách phát triển xã hội theo hướng tiến bộ và công bằng. Bản thân
các chính sách phát triển đúng, hợp lịng dân tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
19


và sự nghiệp xây dựng đất nước.
Chủ trương của Đảng ta về việc phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết và quản lý Nhà nước, theo định
hướng XHCN để thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội là
một chủ trương đúng đắn. Trong q trình đó, Nhà nước đóng vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc sử dụng các cơng cụ của mình để điều tiết và phân phối lại nguồn thu
nhập, điều hịa lợi ích giữa các tầng lớp dân cư nhưng không được làm triệt tiêu động
lực của sự phát triển sản xuất Nhà nước điều tiết qua các sắc thuế đặc biệt là thuế thu
nhập cá nhân để giảm bớt chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và huy động
đóng góp của những người có thu nhập cao và sự phát triển của xã hội.
Để thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liên với công bằng xã hội, trước mắt cần
thực hiện ngay và có hiệu quả đối với các vấn đề bức xúc như là: coi trọng các chính
sách và cơ chế giải quyết việc làm cho người lao động. Một trong những lợi ích cơ bản
của con người trong xã hội là quyền có việc làm và được làm việc. Giải quyết việc làm
cho người lao động là biện pháp quan trọng, là điều kiện tiên quyết để thực hiện công
bằng xã hội trong phân phối sản phẩm. Do đó, nó phải được coi là một trong những tiêu
chí cơ bản khi xây dựng, thẩm định những chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội
như là: phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, mở rộng sản xuất, thực hiện các
chính sách về giáo dục đào tạo để nâng cao chất lượng tay nghề, trình độ lao động để

họ có thu nhập cao trong những điều kiện địi hỏi mức sống ngày càng cao. Đẩy mạnh
việc thực hiện
chương trình xóa đói giảm nghèo một cách có hiệu quả. Đồng thời với các biện pháp
trên thì phải xây dựng cơ chế tạo điều kiện cho mỗi thành viên trong xã hội, mỗi người
lao động có quyền giám sát, kiểm tra mọi hoạt động kinh tế - xã hội, phân phối sản
phẩm và phúc lợi. Để đảm bảo cho mọi người được hưởng thụ đúng với những gì họ bỏ
ra thì phải thực hiện cơng bằng trong phân phối hợp lý tư liệu sản xuất và phân phối kết
quả sản xuất.
Thực hiện hình thức phân phối lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu lực
kinh tế làm chủ yếu, đồng thời phân phối sự trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào
kết quả sản xuất, kinh doanh và phân phối thông qua quỹ phúc lợi xã hội đi đơi với
chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi người lao động, khuyến khích làm giàu
hợp pháp đi đơi với tích cực xóa đói giảm nghèo; thu hẹp dần khoảng cách về trình độ
20


phát triển về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư, ta chú trọng
chính sách phát triển nguồn nhân lực, tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội phát triển
và sử dụng tốt năng lực của mình.
Trong quá trình phát triển, sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế luôn gắn liền với thực
hiện công bằng xã hội.

KẾT LUẬN
Sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong mối liên hệ biện
chứng đóng một vai trị vơ cùng quan trọng trong q trình phát triển kinh tế. Nó giúp
con người nhận thức đúng đắn hơn, biết áp dụng triệt để mối liên hệ này để thúc đẩy
nền kinh tế nước nhà. Trong khi cơng bằng xã hội là nhân tố kích thích tăng trưởng
kinh tế, thì tăng trưởng kinh tế lại là tiền đề vật chất cho việc thực hiện công bằng xã
hội. Hai yếu tố này đi cùng với nhau không chỉ giúp nước ta thu hẹp khoảng cách với
các nước phát triển mà còn giúp ta đảm bảo nhu cầu của người dân đều được coi trọng

và thực hiện.
Là phương pháp luận như một kim chỉ nam trong quá trình đổi mới, ngun lí về
mối liên hệ phổ biến cho chúng ta thấy rằng: để cải tạo được sự vật chúng ta phải bằng
hoạt động thực tiễn của mình biến đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật cũng như
những mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với sự vật khác. Để đạt được điều này, ta phải
dùng nhiều phương tiện tác động nhằm thay đổi những liên hệ tương ứng.
Bằng cách nhận thức được sự ràng buộc gắn bó của hai yếu tố trên, Đảng ta đã
nhanh chóng có được sự thay đổi phù hợp trong quá trình đổi mới để thực hiện tăng
trưởng kinh tế. Đảng ta xác định rằng: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với công
bằng ngay trong từng bước đầu tiên và trong suốt quá trình phát triển, tăng trưởng kinh
tế phải đi đơi với phát triển văn hóa, giáo dục tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.”

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Triết học Mác – Lenin (Dành cho Bậc Đại Học Hệ Khơng Chun Lí
Luận Chính Trị) – Bộ mới năm 2021
2. />3. />4. phobien-va-253423#

22



×